Bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Tuyển tập những bài văn xuất sắc lớp 8
EduTOPS xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc, đây là tài liệu được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.
Nhạc cụ dân tộc không chỉ là biểu tượng văn hóa độc đáo của Việt Nam mà còn là niềm tự hào dân tộc. Một số nhạc cụ như cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể. Dưới đây là tuyển tập bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc, mời các bạn cùng khám phá và tham khảo.

Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 1
Việt Nam tự hào là quốc gia sở hữu nền âm nhạc dân tộc đa dạng với nhiều nhạc cụ và làn điệu đặc sắc. Trong số đó, sáo trúc nổi bật như một biểu tượng gắn liền với lễ hội và phong tục dân gian, không chỉ là nhạc cụ độc đáo mà còn được xem là linh hồn của âm nhạc truyền thống.
Sáo trúc là nhạc cụ có lịch sử lâu đời. Từ xa xưa, con người đã biết đến sáo như một nhạc cụ bắt nguồn từ âm thanh của lau sậy khi gió thổi qua. Cảm hứng từ thiên nhiên đã thôi thúc sự ra đời của nhạc cụ này. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng sử dụng sáo với hình dáng và cấu tạo đa dạng.
Sáo thường được làm từ ống trúc, nhưng đôi khi cũng được chế tác từ kim loại hoặc gỗ. Trên thân sáo, các lỗ được đục tương ứng với các nốt nhạc cơ bản và lỗ thổi. Nghệ sĩ biểu diễn thường sử dụng kỹ thuật đánh lưỡi, nhấn hơi, và luyến hơi để tạo nên những giai điệu độc đáo và hấp dẫn.
Mỗi quốc gia có loại sáo riêng với chất liệu khác nhau. Ở Việt Nam, sáo trúc 6 lỗ là phổ biến, trong khi Trung Quốc nổi tiếng với sáo mèo và sáo bầu. Sáo được chia thành hai loại chính: sáo ngang và sáo dọc. Sáo ngang phổ biến hơn, trong khi sáo dọc dễ sử dụng nhờ thiết kế vát ở đầu.
Nguyên liệu làm sáo rất đa dạng, từ trúc, nứa, gỗ đến nhựa, kim loại, thậm chí xương. Mỗi chất liệu mang lại âm sắc riêng. Sáo trúc thường được làm từ trúc già, giúp âm thanh chắc chắn và tăng độ bền, tránh mối mọt.
Trong thời đại công nghệ, sáo trúc vẫn giữ vị thế quan trọng. Âm thanh từ sáo trúc mang đậm hồn quê, đưa ta trở về với đồng nội yên bình. Sáo trúc còn được kết hợp với nhạc cụ hiện đại, tạo nên những bản nhạc vừa truyền thống vừa hiện đại.
Sáo trúc là biểu tượng của vẻ đẹp quê hương. Trong các lễ hội dân tộc, hình ảnh sáo trúc luôn hiện diện, làm sống dậy những làn điệu dân ca bay bổng và du dương.
Dù không phải là nhạc cụ độc quyền của Việt Nam, nhưng sáo trúc đã trở thành nét đặc trưng của âm nhạc dân tộc. Tôi tin rằng, dù tương lai có thay đổi, sáo trúc và những giai điệu từ nó sẽ mãi là nét đẹp văn hóa và âm nhạc truyền thống.

Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 2
Ca dao ta có câu:
“Đàn bầu ai gảy nấy nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn”
Câu ca dao ấy đã phần nào nói lên được tầm quan trọng của đàn bầu. Âm nhạc từ loại nhạc cụ này có khả năng truyền tải những câu ca dao à ơi đầy cảm xúc. Nhà thơ Văn Tiến Lê từng viết:
“Một dây nũng nịu đủ lời
Nửa bầu chứa cả đất trời âm thanh”
Vậy đặc điểm của đàn bầu là gì? Âm thanh của nó mang sắc thái như thế nào?
Gắn liền với dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt, đàn bầu không chỉ là một nhạc cụ mà còn là biểu tượng văn hóa, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tên gọi “đàn bầu” thuần Việt, gợi lên hình ảnh đất nước thân thương. Như nhà thơ Phạm Minh Tuấn đã ví von:
“Đất nước tôi thon thả giọt Đàn Bầu”
Đàn bầu, hay còn gọi là độc huyền cầm, là nhạc cụ một dây độc đáo của người Việt. Âm thanh phát ra nhờ que hoặc miếng gảy tác động lên dây đàn. Dựa vào cấu tạo hộp cộng hưởng, đàn bầu được chia thành hai loại chính: đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Về cấu tạo, đàn bầu thường có hình dạng ống tròn (làm từ tre, bương, luồng) hoặc hình hộp chữ nhật (làm từ gỗ). Một đầu đàn to, đầu kia nhỏ hơn, với chiều dài khoảng 110cm. Đường kính đầu to khoảng 12,5cm, đầu nhỏ khoảng 9,5cm, và chiều cao khoảng 10,5cm. Mặt đàn và đáy đàn thường làm từ gỗ ngô đồng, thông hoặc tung, với mặt đàn hơi cong và đáy phẳng có lỗ thoát âm.
Trên mặt đầu to của đàn có một miếng xương hoặc kim loại nhỏ gọi là ngựa đàn. Dây đàn được luồn qua ngựa đàn và cố định vào trục lên dây. Ngày nay, người ta thường sử dụng khóa kim loại để điều chỉnh dây đàn chắc chắn hơn. Ở đầu nhỏ, cần đàn làm bằng gỗ hoặc sừng được gắn vào, tạo nên sự linh hoạt khi chơi nhạc.
Với sự phát triển của công nghệ điện tử, đàn bầu hiện đại được trang bị thêm cuộn cảm ứng điện từ để khuếch đại âm thanh. Tuy nhiên, loại đàn này thường sử dụng dây thép và có nhược điểm là âm thanh dễ bị méo so với đàn mộc truyền thống.
Que gảy đàn thường được làm từ tre, giang, thân dừa hoặc gỗ mềm. Đầu que được làm nhọn hoặc tưa để tạo âm thanh mềm mại. Ngày nay, que gảy ngắn hơn (khoảng 4-4,5cm) để phù hợp với kỹ thuật diễn tấu nhanh.
Âm thanh đàn bầu mang vẻ đẹp nền nã, dịu dàng, gợi lên tâm hồn sâu lắng của người Việt. Sự mềm mại, uyển chuyển của âm thanh khiến đàn bầu thường được sử dụng trong các bài ca dao cổ hoặc những lời ru của mẹ.
Qua đó, chúng ta thấy được sự độc đáo của đàn bầu, từ cấu tạo đến âm thanh. Nó không chỉ là nhạc cụ mà còn là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, mang đậm hồn cốt dân tộc, gợi nhớ về những gì mộc mạc, thân thương nhất.

Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 3
Âm nhạc Việt Nam không chỉ nổi tiếng với những bài ca dao, điệu hát Nam ai, Nam bình, hát xoan, hay quan họ, mà còn được tạo nên bởi những nhạc cụ mang đậm bản sắc dân tộc, góp phần làm nên nét độc đáo riêng biệt.
Một trong những nhạc cụ tiêu biểu của hệ thống nhạc cụ dân tộc Việt Nam chính là đàn nhị.
Đàn nhị, một nhạc cụ dân tộc có lịch sử lâu đời từ thế kỷ thứ mười, vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Thuộc bộ dây có cung vĩ, đàn nhị chỉ có hai dây, khác biệt so với các loại đàn khác như đàn nguyệt hay đàn tranh. Chính đặc điểm này đã tạo nên tên gọi độc đáo của nó. Hình dáng nhỏ gọn, đàn nhị được chơi bằng cách kéo cung vĩ trên dây đàn, tạo ra âm thanh mượt mà và sâu lắng.
Khi biểu diễn, nghệ sĩ thường đặt đàn nhị trên đùi và ngồi trên chiếu hoặc ghế. Cung vĩ của đàn được làm từ những sợi tơ mảnh mai, kết nối với thanh tre uốn cong, tạo nên hình dáng mềm mại. Cách chơi đàn nhị tương tự như đàn vĩ cầm, mang lại âm thanh độc đáo và truyền cảm.
Mặc dù cách sử dụng đàn nhị tương đối đơn giản đối với nghệ sĩ chuyên nghiệp, nhưng người mới học cần kiên trì luyện tập để thành thạo. Tay trái giữ dọc nhị và bấm dây, trong khi tay phải điều khiển cung vĩ để tạo ra giai điệu.
Tên gọi của đàn nhị khá đa dạng tùy theo vùng miền. Người Kinh gọi nó là “líu”, người Mường gọi là “cò ke”, còn người miền Nam gọi là “đờn cò”. Dù vậy, tên gọi phổ biến nhất vẫn là đàn nhị. Cấu tạo của đàn bao gồm các bộ phận chính như bát nhị, dọc nhị, trục dây, dây nhị, cử nhị và cung vĩ.
Đàn nhị từng đóng vai trò quan trọng trong các loại hình âm nhạc dân tộc như hát xẩm, nhạc phường bát âm, nhã nhạc cung đình, và hát chầu văn. Nó cũng xuất hiện trong dàn nhạc tài tử và các dàn nhạc tổng hợp truyền thống.
Ngày nay, đàn nhị không chỉ giới hạn trong âm nhạc truyền thống mà còn được kết hợp với các thể loại hiện đại như pop, rock, mang lại nét độc đáo và sáng tạo trong âm nhạc đương đại.
Đàn bầu, một nhạc cụ phổ biến của dân tộc Việt Nam, đặc biệt ở vùng núi phía Bắc, đã trở thành biểu tượng văn hóa truyền thống. Nó không chỉ là công cụ giải trí mà còn mang giá trị văn hóa sâu sắc, phản ánh tâm hồn và bản sắc của người Việt.
Trong thời đại âm nhạc hiện đại phát triển mạnh mẽ, đàn nhị không còn được sử dụng rộng rãi như trước. Tuy nhiên, giá trị văn hóa và âm nhạc của nó vẫn mãi là một phần không thể thiếu trong di sản dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc

Thuyết minh về nhạc cụ dân tộc - Mẫu 4
Nhắc đến Tây Nguyên, ta không thể không nghĩ đến vùng đất đỏ ba-dan rực rỡ, nơi có những vườn cà phê trĩu quả, những cánh rừng bạt ngàn xanh thẳm. Đây là quê hương của nhà rông hùng vĩ, nơi chứa đựng những ché rượu cần trong các lễ hội mang đậm màu sắc hoang dã nhưng cũng rất thanh bình, cùng những bản sử thi hùng tráng. Trong chiều sâu văn hóa, ta như nghe thấy tiếng vọng từ ngàn xưa của cồng chiêng, tạo nên Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải dài khắp 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng. Chủ nhân của nền văn hóa độc đáo này là các dân tộc Tây Nguyên như Bana, Xê-đăng, Hmông, Cơ-ho, Rơ-măm, Ê-đê. Cồng chiêng gắn bó sâu sắc với đời sống của họ, là tiếng nói tâm linh, diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong lao động và sinh hoạt hàng ngày.
Cồng chiêng là nhạc cụ làm từ hợp kim đồng, đôi khi pha thêm vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng có núm, còn chiêng thì không. Nhạc cụ này có nhiều kích cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, thậm chí có loại lên đến 90cm-120cm. Cồng chiêng có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc theo dàn, từ 2 đến 12-13 chiếc, thậm chí có nơi dùng đến 18-20 chiếc.
Cồng chiêng Tây Nguyên là nhạc cụ độc đáo và đa dạng. Các dàn cồng chiêng dựa trên thang bồi âm tự nhiên để tạo nên thang âm riêng. Mỗi tộc người có biên chế riêng với thang 3 âm, 5 âm hoặc 6 âm. Cồng chiêng là nhạc cụ đa âm, ngoài âm chính còn có các âm phụ, tạo nên âm sắc đầy đặn và sâu lắng.
Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa lâu đời. Có ý kiến cho rằng cồng chiêng là phiên bản sau của đàn đá. Từ thời kỳ đồ đá, người xưa đã sử dụng cồng đá, chiêng đá, rồi đến thời kỳ đồ đồng mới xuất hiện chiêng đồng. Cồng chiêng được dùng trong các lễ hội như mừng lúa mới, xuống đồng, thể hiện tín ngưỡng và giao tiếp với thần linh. Âm thanh của cồng chiêng hòa quyện với thiên nhiên và lòng người, trở thành một phần không thể thiếu của Tây Nguyên.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, mỗi chiếc cồng chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng lớn. Chúng còn là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có, từng có thời một chiếc chiêng có giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Trong các lễ hội, hình ảnh người dân nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần, tạo nên không gian lãng mạn và huyền ảo.
Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như một biểu tượng trường tồn: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhẹ nhàng để gió đưa tiếng chiêng xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp nơi, vượt qua nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây quên bám cành mà ngã xuống, cho ma quỷ mê mải nghe mà quên hại người. Đánh cho chuột sóc quên đào hang, rắn nằm ngay đơ, thỏ giật mình, hươu nai đứng nghe quên ăn cỏ, tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng của Đam San...”.
Cồng chiêng Tây Nguyên chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc, là biểu tượng của một vùng đất anh hùng và cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Nó góp phần tạo nên bức tranh văn hóa Việt Nam đa dạng và đậm đà bản sắc. Giá trị của cồng chiêng thể hiện qua nghệ thuật và văn hóa mà nó mang lại.
Cồng chiêng không phải do người Tây Nguyên tự đúc mà được mua từ nơi khác và chỉnh sửa thành nhạc cụ. Nghệ nhân chỉnh sửa chiêng bằng phương pháp gõ, gò theo hình vảy tê tê hoặc lượn sóng, thể hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết sâu sắc về âm thanh. Đây là sáng tạo độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên.
Để đáp ứng nhu cầu biểu diễn âm nhạc, các tộc người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau.
.............
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích chi tiết tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, Dàn ý & 29 bài văn mẫu xuất sắc để hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật độc đáo của tác giả
- Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh - Dàn ý chi tiết và 26 bài văn hay giúp bạn hiểu sâu sắc ý nghĩa bài thơ về thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu đất nước.
- Văn mẫu lớp 7: Phân tích hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước - Dàn ý chi tiết và 9 bài văn mẫu đặc sắc
- Phân tích và nghị luận văn học sâu sắc về đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu trong tác phẩm Quan Âm Thị Kính
- Văn mẫu lớp 8: Suy ngẫm về tác phẩm văn học đã học hoặc đọc, kết hợp thành phần tình thái và phụ chú qua 2 đoạn văn mẫu