Văn mẫu lớp 11: Phân tích và cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên của Nguyễn Du - 2 Dàn ý & 11 bài văn mẫu xuất sắc
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên của Nguyễn Du bao gồm 11 bài văn mẫu xuất sắc cùng 2 dàn ý chi tiết, giúp học sinh nắm vững kiến thức và rèn luyện kỹ năng cảm thụ văn học. Qua đó, các em sẽ hiểu sâu sắc hơn về đoạn thơ đầy xúc động này.

TOP 11 bài cảm nhận 12 câu đầu Trao duyên được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bao gồm cả bài tóm tắt và bài phân tích đầy đủ. Qua đó, người đọc thấy được số phận éo le của Thúy Kiều, một người con gái tài hoa nhưng bất hạnh trong tình yêu. Dưới đây là 11 bài văn mẫu cảm nhận 12 câu đầu bài thơ Trao duyên, mời các bạn cùng tham khảo. Ngoài ra, bạn có thể xem thêm bài phân tích chi tiết về tác phẩm này.
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên để đạt điểm cao
- 1. Dàn ý cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên (2 Mẫu)
- 2. Sơ đồ tư duy 12 câu đầu Trao duyên
- 3. Cảm nhận 12 câu đầu Trao duyên hay nhất (4 Mẫu)
- 4. Cảm nhận 12 câu đầu bài thơ Trao duyên (4 Mẫu)
- 5. Cảm nhận của em về 12 câu đầu bài Trao duyên (3 Mẫu)
1. Dàn ý chi tiết cảm nhận 12 câu đầu bài Trao duyên (2 Mẫu)
Dàn ý số 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét đặc sắc về tác giả, tác phẩm và đoạn trích
- Dẫn dắt về nhân vật Thúy Kiều và em gái Thúy Vân, hai người con gái tài sắc vẹn toàn, là nhân vật chính trong trích đoạn Trao duyên.
2. Thân bài:
– Đoạn 1: Thúy Kiều nhờ em là Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng
“Cậy em em có chịu lời
…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
+ Một nỗi đau xé lòng khi Thúy Kiều buộc phải hy sinh tình yêu và hạnh phúc cá nhân để cứu cha, cứu gia đình, trọn đạo hiếu.
-> Thể hiện tính cách và phẩm giá cao quý của Thúy Kiều, người luôn đặt chữ hiếu lên hàng đầu.
+ Cách xưng hô và dùng từ khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa…) vừa thể hiện sự nhờ vả, vừa mang tính nài ép, cho thấy Thúy Kiều coi đây là việc Thúy Vân cần làm vì “tình chị duyên em”.
-> Dù lòng đau xót, Thúy Kiều vẫn thể hiện sự mạnh mẽ và quyết đoán.
- Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng dù nồng nàn, tha thiết nhưng lại mong manh, dễ tan vỡ.
- Mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, giữa lí trí và tình cảm của Thúy Kiều trong cảnh trao duyên. Lời trao duyên và kỉ vật vừa muốn buông, vừa muốn níu giữ.
– Đoạn 2: Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên
(Mai sau dù có bao giờ…thiếp đã phụ chàng từ đây)
- Cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn, Thúy Kiều hướng lòng về tình yêu và nỗi nhớ thương người yêu.
- Nỗi đau càng thêm sâu sắc khi Kiều chuyển sang tự nói với chính mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho bản thân và cho mối tình đẹp đã tan vỡ.
-> Làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách hy sinh đến quên mình, quên hạnh phúc vì nghĩa cử cao đẹp của Thúy Kiều.
3. Kết bài
- Đoạn trích phản ánh số phận bất hạnh của Thúy Kiều trong tình yêu, khi nàng không thể giữ trọn vẹn hạnh phúc của mình.
- Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo mà Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích “Nỗi thương mình”.
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế, khám phá sâu sắc thế giới tâm hồn nhân vật.
Dàn ý số 2
a) Mở bài
- Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều:
- Nguyễn Du (1765 - 1820) là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn với tài năng kiệt xuất.
- Truyện Kiều là kiệt tác kinh điển của nền văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát gồm 3254 câu.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên:
+ Đoạn trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều”, thuộc phần gia biến và lưu lạc, miêu tả diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng khi trao duyên cho Thúy Vân, nhờ em trả nghĩa với Kim Trọng.
b) Thân bài: Cảm nhận 12 câu thơ đầu bài Trao duyên
* Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều với Thúy Vân (2 câu thơ đầu)
- Lời nói:
- “Cậy em”: thể hiện sự nhờ vả, gửi gắm, mong đợi và tin tưởng vào sự giúp đỡ của em.
- “Chịu lời”: đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng mang sắc thái bắt buộc, không thể từ chối, thể hiện sự nài nỉ, ép buộc từ người nhờ cậy.
-> Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa mang tính ép buộc.
- Hành động “Lạy, thưa”: thể hiện sự trang nghiêm, trịnh trọng và hạ mình của người bề dưới với người bề trên -> cách nói tạo sự ràng buộc tế nhị.
- Kiều là chị nhưng lại lạy, thưa em mình
-> Hành động bất thường nhưng hợp lí trong hoàn cảnh này, bởi Kiều đang lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Việc Kiều nhún nhường, hạ mình van nài là hoàn toàn phù hợp.
=> Hành động bất thường kết hợp với từ ngữ đặc biệt nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều.
* Luận điểm 2: Lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu thơ tiếp)
- Tình cảnh đặc biệt của Kiều:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai"
- Thành ngữ “đứt gánh tương tư”: tình duyên dang dở của Thúy Kiều -> Thúy Kiều ở vào tình cảnh không thể khác, đó là lý do để nhờ em.
- Đứng giữa bên hiếu và bên tình, nàng lựa chọn việc trao duyên.
- Chữ “mặc”: phó mặc, ủy thác, ủy nhiệm -> Kiều giao toàn bộ trọng trách cho Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
-> Tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa
=> Lời thuyết phục khôn khéo của Kiều dấy lên tình thương và trách nhiệm của người em đối với chị của Thúy Vân.
- Nhắc lại mối tình đẹp với Kim Trọng:
- "Quạt ước, chén thề”: những kỉ niệm đẹp, ấm êm, hạnh phúc của Kim và Kiều với những lời thề nguyền, đính ước gắn bó, thủy chung.
- “Sóng gió bất kì”: Tai họa bất ngờ ập đến, Kiều bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, phải chọn giữa tình và hiếu. Kiều đã chọn hi sinh chữ tình.
-> Mối tình Kim - Kiều là mối tình đẹp nhưng mong manh, dễ vỡ
=> Vừa bộc lộ tâm trạng đau đớn, xót xa của Kiều, vừa khiến Vân xúc động mà nhận lời.
- Kiều nhắc đến tuổi trẻ, tình máu mủ và cái chết
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non"
- "ngày xuân": tuổi trẻ -> Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
- “Tình máu mủ”: tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống.
-> Kiều khéo léo thuyết phục Vân bằng tình cảm ruột thịt để em không thể chối từ.
+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” -> cái chết đầy mãn nguyện của Kiều.
=> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện lòng biết ơn chân thành khi Vân nhận lời.
+ "Chị dù ... thơm lây" -> Đối với Kiều, việc Thúy Vân chấp nhận lời nhờ cậy giống như một ân huệ lớn lao.
=> Lí lẽ của Kiều vừa thấu tình vừa đạt lí, khiến Vân không thể từ chối. Qua đó, Kiều hiện lên là một người con gái thông minh, sắc sảo và giàu cảm xúc.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình
- Sử dụng thành ngữ dân gian và hình ảnh ẩn dụ
- Thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ
- Giọng thơ nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.
c) Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của 12 câu thơ đầu bài Trao duyên.
- Nêu cảm nhận của em về đoạn thơ.
2. Sơ đồ tư duy phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên

3. Cảm nhận sâu sắc 12 câu đầu bài Trao duyên (4 Mẫu xuất sắc)
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 1
Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” và mở ra mười lăm năm lưu lạc đầy đau thương của Thúy Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy bi kịch ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không khỏi xót xa và cảm thương cho số phận nàng.
Mở đầu đoạn trích là lời nhờ cậy của Kiều với Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngôn ngữ của Thúy Kiều được sử dụng hết sức tinh tế và chính xác. Chữ “cậy” tuy đồng nghĩa với “nhờ” nhưng mang sắc thái tin tưởng tuyệt đối. Chữ “chịu” cũng tương tự “nhận” nhưng thể hiện sự khẩn thiết, van nài, khiến người được nhờ khó lòng từ chối. Qua cách dùng từ khéo léo, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế phải nhận lời.
Không chỉ ngôn ngữ, cử chỉ và hành động của Kiều cũng vô cùng chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn dành cho kẻ dưới với người trên, nhưng ở đây, Kiều – chị, lại lạy Vân – em. Sự đảo ngược này cho thấy Kiều hiểu rõ sự thiệt thòi mà Vân phải chịu khi nhận lời. Hành động “thưa” cũng thể hiện sự trân trọng và biết ơn của Kiều trước sự hi sinh của em.
Trao duyên là một vấn đề tế nhị, nên Kiều đã chọn lọc ngôn ngữ, cử chỉ và giọng điệu phù hợp để mở lời. Ngay từ cách mở đầu, người đọc đã thấy được sự thông minh, tinh tế và am hiểu tâm lý của nàng.
Sau lời mở đầu khéo léo, Kiều tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”. Những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ ấy giờ chỉ còn là quá khứ xa xôi, khi hiện tại đầy đau đớn và phũ phàng:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Trong hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư”, Kiều buộc phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Dù đau đớn, nàng vẫn chọn chữ hiếu, hy sinh tình yêu để cứu gia đình. Tình yêu vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng làm tan vỡ. Nàng dùng lời lẽ khéo léo để thuyết phục em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Kiều đưa ra ba lí lẽ thuyết phục: em còn trẻ, tình chị em máu mủ, và cả cái chết của mình. Dù đau đớn, nàng luôn nghĩ đến việc bù đắp cho Kim Trọng chứ không quan tâm đến bản thân. Lời thuyết phục của nàng chân thành và cảm động.
Thành công của lời thuyết phục còn nhờ vào nghệ thuật ngôn từ tài tình. Những từ như “lạy”, “thưa”, “cậy” được sử dụng đắt giá, kết hợp với lập luận sắc bén, vừa lí trí vừa tình cảm.
Bằng ngôn từ tinh tế, Thúy Kiều đã khiến Thúy Vân nhận lời trao duyên. Qua đó, ta thấy được sự thông minh, khéo léo, lòng thủy chung và hiếu thảo của nàng. Đồng thời, số phận bất hạnh của Kiều cũng khiến người đọc xót xa.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 2
Truyện Kiều, một kiệt tác văn học trung đại Việt Nam, không chỉ nổi bật bởi nghệ thuật đặc sắc mà còn bởi nội dung tiến bộ, vượt trội so với thời đại. Nhân vật trung tâm là Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn, nhưng cuộc đời nàng lại trải qua 15 năm sóng gió, đầy bi kịch. Nguyễn Du đã khắc họa hiện thực tàn nhẫn của xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc qua việc đề cao vẻ đẹp con người và xót thương cho những số phận bất hạnh. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn đặc sắc nhất, với 12 câu đầu làm nổi bật sự thông minh, sắc sảo và mạnh mẽ của Thúy Kiều khi đối mặt với sóng gió đầu đời.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều là hiện thân của những bất hạnh mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải gánh chịu. Từ nỗi đau thân phận bọt bèo, bị cường quyền chèn ép, đến nỗi đau bán thân làm lẽ, rồi ly biệt người yêu, và cuối cùng là sự sỉ nhục, chà đạp nơi phong trần. Xuất phát từ một gia đình giàu có, sống trong nhung lụa, Kiều có một tình yêu đẹp với Kim Trọng, nhưng bi kịch ập đến khi gia đình nàng bị vu oan, tài sản bị tịch thu. Kiều buộc phải bán mình để cứu cha và em, từ bỏ tình yêu với Kim Trọng.
Sau khi giải quyết xong chuyện nhà, Kiều quay lại nhìn về tình yêu dang dở của mình. Nàng đau khổ và dằn vặt vì nghĩ mình đã phụ bạc Kim Trọng. Trong lúc ấy, nàng nghĩ đến việc nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, để trả món nợ tình duyên. Tuy nhiên, việc này không dễ dàng, đặc biệt khi Thúy Vân còn quá trẻ để hiểu hết nỗi đau của chị. Kiều đã gọi em gái đến và khéo léo mở lời:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Kiều sử dụng từ “cậy” để thể hiện sự tha thiết, mong đợi sự giúp đỡ, và “chịu” để ngầm ám chỉ sự khó khăn trong việc nhận lời. Hành động bảo em ngồi lên ghế rồi cúi lạy cũng là cách Kiều đặt Thúy Vân vào thế không thể từ chối, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Thấy những hành động trang trọng của chị, Thúy Vân dù chưa hiểu chuyện gì cũng khó lòng từ chối. Kiều tiếp tục thẳng thắn nói với em:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Kiều khẳng định mối duyên với Kim Trọng đã “đứt gánh” và mong Vân thay mình “chắp mối” duyên tình dang dở. Nàng cũng thấu hiểu nỗi khó xử của em, nên ôn tồn kể lại câu chuyện tình yêu của mình với Kim Trọng:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”,
Câu thơ thể hiện tình yêu sâu sắc và lời hẹn thề chung thủy của Kiều với Kim Trọng. Nhưng bi kịch ập đến khi “Sự đâu sóng gió bất kỳ/Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Đứng giữa chữ hiếu và chữ tình, Kiều đành chọn gia đình, từ bỏ tình yêu để cứu cha và em. Nàng tiếp tục thuyết phục Vân bằng tình chị em ruột thịt:
“Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều khẩn khoản, thiết tha nhờ Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng, để nàng có thể yên tâm ra đi, dù “thịt nát xương mòn” cũng không hối tiếc. Nàng mong rằng Kim Trọng sẽ tìm được hạnh phúc với Thúy Vân, và nàng có thể trả hết nợ ân nghĩa với đời.
Mười hai câu đầu của đoạn trích Trao duyên đã làm nổi bật tính cách thông minh, quyết đoán và mạnh mẽ của Thúy Kiều. Đồng thời, nó cũng thể hiện nỗi đau khổ, dằn vặt của nàng khi phải từ bỏ tình yêu và hy sinh bản thân vì gia đình. Vẻ đẹp nhân cách và tấm lòng cao thượng của Kiều xứng đáng với danh hiệu tài sắc vẹn toàn.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học trung đại Việt Nam, đánh dấu đỉnh cao của nền văn học dân tộc. Tác phẩm kể về cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều, một cô gái tài sắc nhưng bạc mệnh. Đoạn trích Trao duyên, một trong những đoạn tiêu biểu, được đưa vào chương trình giáo dục, tái hiện bi kịch tình yêu đau đớn của Kiều, qua đó thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận nàng. Mười hai câu đầu đoạn trích đã làm nổi bật điều đó.
Thúy Kiều và Kim Trọng tình cờ gặp nhau, nảy sinh tình cảm sâu đậm. Vượt qua lễ giáo phong kiến, Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để gặp Kim Trọng, thề nguyền kết tóc. Tình yêu của họ vốn đẹp đẽ, nhưng số phận trớ trêu, Kiều buộc phải “trao” mối duyên của mình cho Thúy Vân. Sau một đêm trắng suy nghĩ, nàng đau đớn nhờ cậy em:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Từ “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin tưởng, còn “chịu” mang sắc thái van nài, đặt Thúy Vân vào thế khó từ chối. Hành động “lạy”, “thưa” của Kiều, vốn là chị, lại dành cho em, cho thấy sự chân thành và khéo léo của nàng. Kiều hiểu rằng việc trao duyên sẽ gây khó xử cho Vân, nhưng nàng không muốn phụ tấm chân tình của Kim Trọng.
Tình yêu vốn thiêng liêng, chẳng ai muốn chia sẻ, nên việc trao duyên của Kiều không hề dễ dàng. Nàng tâm sự với Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Trong nỗi đau xót vì tình yêu đứt gánh, Kiều nhờ Vân “chắp mối” duyên tình dang dở. Hai tiếng “mặc em” thể hiện sự tin tưởng, phó thác hoàn toàn cho Vân. Những kỉ niệm đẹp đẽ với Kim Trọng ùa về, nhưng hiện thực phũ phàng khiến tình yêu tan vỡ:
"Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Để trọn đạo hiếu, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em, hy sinh tình yêu. Giữa chữ tình và chữ hiếu, nàng chọn chữ hiếu, dù lòng đau đớn khôn nguôi. Nàng nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, để vơi bớt mặc cảm phụ tình. Nàng tha thiết thuyết phục Vân:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Kiều đưa ra ba lý lẽ thuyết phục Vân: em còn trẻ, tình chị em máu mủ, và cái chết của mình. Nàng mong Vân hiểu và chấp nhận lời nhờ cậy, dù biết điều đó khó khăn. Từng lời nói của Kiều đều hợp tình, hợp lý, thể hiện sự thông minh và lòng vị tha của nàng.
Bằng 12 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bi kịch tình yêu và tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều trong cơn bão tố của số phận.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 4
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học, mang nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn nổi bật, lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Khi gia đình gặp nạn, để cứu cha và em trai, Kiều buộc phải trao mối duyên của mình cho Thúy Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Những từ như “cậy”, “lạy”, “thưa” thường được dùng khi người vai dưới nói chuyện với người vai trên. Kiều dùng những từ này để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt dành cho em gái. Dù là chị, Kiều không ra lệnh mà nhờ vả một cách chân thành, thể hiện sự bình tĩnh và khéo léo trong cách xử lý tình huống.
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?"
Kiều kể với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở với Kim Trọng, và mong em thấu hiểu nỗi khổ của mình để nhận lời thay chị kết duyên. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó, nhưng Kiều buộc phải từ bỏ vì không thể vẹn cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”. Từng lời nói của Kiều đều thấm đẫm nỗi đau và sự day dứt.
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Kiều nhắc đến tuổi trẻ của Vân, mong em thay mình kết duyên với Kim Trọng. Dù có phải chết nơi đất khách, Kiều cũng sẽ yên lòng nếu Vân nhận lời. Tình chị em máu mủ và sự hi sinh của Kiều khiến người đọc không khỏi xúc động.
Đoạn thơ khắc họa hình ảnh Thúy Kiều, một cô gái trọng tình, trọng nghĩa, khiến người đọc thêm thương cảm cho số phận “hồng nhan bạc mệnh” của nàng.
Thành công của đoạn trích nằm ở việc sử dụng thể thơ lục bát dân gian và những câu cảm thán, giúp khắc họa rõ nét tâm trạng đau đớn của Kiều khi trao duyên.
Đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều đã góp phần làm phong phú nền văn hóa dân tộc. Dù thời gian trôi qua, giá trị của tác phẩm vẫn nguyên vẹn và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
4. Cảm nhận sâu sắc về 12 câu thơ đầu trong tác phẩm 'Trao duyên' (4 Mẫu)
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 1
Trải qua bao thăng trầm của cuộc đời, Nguyễn Du đã gửi gắm những triết lý sâu sắc qua kiệt tác “Đoạn trường tân thanh”, hay còn gọi là Truyện Kiều. Bằng ngòi bút tài hoa, ông đã khắc họa một xã hội tàn khốc, nơi đồng tiền thống trị và đẩy con người vào bi kịch, đặc biệt qua số phận đau thương của Thúy Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” tuy ngắn nhưng chứa đựng những nỗi đau chân thực nhất trong cuộc đời nàng, trở thành điểm nhấn đặc sắc trong tác phẩm.
Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, tưởng chừng đẹp đẽ như hoa trong gương, trăng dưới nước, nhưng lại tan vỡ khi gia biến ập đến. Kiều buộc lòng từ bỏ mối duyên chưa kịp trọn vẹn với Kim Trọng để cứu gia đình, phải kết duyên với Mã Giám Sinh.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Vì chữ hiếu, Kiều hy sinh tình yêu của mình, nhưng nỗi đau khi phải trao duyên cho Thúy Vân lại càng khiến trái tim nàng quặn thắt. Đó là nỗi đau xé lòng, âm ỉ suốt 12 câu đầu của đoạn trích “Trao duyên”. Mở đầu, không khí trầm lắng bao trùm khi Kiều mở lời nhờ cậy em gái:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Thúy Kiều, vốn là chị, lại phải dùng kính ngữ với em gái mình, điều này cho thấy sự trân trọng và biết ơn sâu sắc của nàng. Từ “cậy” không chỉ thể hiện sự tin tưởng mà còn là lời khẩn thiết, gần như ép buộc Thúy Vân phải nhận lời. Hành động “lạy rồi thưa” càng nhấn mạnh sự trang trọng và nghiêm túc của lời nhờ cậy, khiến Vân không thể từ chối.
Sau những lời lẽ trang trọng, Kiều mới giãi bày tâm sự, mong em gái thay mình tiếp nối mối duyên với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Mối tình dang dở được ví như “đứt gánh tương tư”, một nỗi đau đứt ruột. Kiều ý thức rõ rằng mình đang trao cho Vân một “mối tơ thừa”, một mối duyên không trọn vẹn. Điển tích “keo loan” được sử dụng để hy vọng mối duyên sau sẽ bền chặt, nhưng Kiều cũng để Vân tự quyết định, thể hiện sự tôn trọng và lòng biết ơn.
Khi trao duyên, ký ức về những ngày tháng hạnh phúc bên Kim Trọng lại ùa về trong lòng Kiều, như một thước phim quay chậm, đầy nuối tiếc và đau đớn:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Từ “khi” được lặp lại ba lần, nhấn mạnh những khoảnh khắc đẹp đẽ giữa Kiều và Kim Trọng. “Ngày quạt ước”, “đêm chén thề” là những kỷ niệm ngọt ngào, nhưng giờ đây chỉ còn là nỗi đau khắc khoải. Kiều biết rằng, những ký ức này sẽ mãi là nỗi day dứt không nguôi trong lòng nàng.
Nguyễn Du khéo léo để Kiều nhắc lại nguyên nhân khiến mối tình đẹp đẽ phải chia lìa:
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
“Sóng gió” ấy là những biến cố dồn dập ập xuống gia đình Kiều, khi cha và em bị bắt, còn Kim Trọng phải về quê chịu tang. Giữa hiếu và tình, Kiều đứng trước sự lựa chọn đầy đau đớn. Bán mình chuộc cha, nàng buộc phải phụ lòng người yêu, nhưng nếu vì tình mà bỏ hiếu, nàng sẽ không thể ngẩng mặt nhìn đời. Câu hỏi “làm sao để vẹn cả đôi đường?” cứ xoáy sâu vào tâm trí Kiều, khiến nàng day dứt khôn nguôi.
Không chỉ dừng lại ở đó, Thúy Kiều còn dùng những lý lẽ sắc bén để thuyết phục Thúy Vân nhận lời:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Thúy Vân còn trẻ, tương lai dài rộng phía trước, có thể bù đắp cho mối tình dang dở mà Kiều không thể tiếp tục. Từ “xót” cùng cụm từ “tình máu mủ” như chạm vào tình cảm ruột thịt, nhắc nhở Vân rằng chị em cùng chung huyết thống, hãy thương lấy nhau. Kiều mong Vân vì tình chị em mà thay mình gánh vác lời thề “nước non” với Kim Trọng. Lý lẽ của Kiều vừa hợp tình vừa hợp lý, khiến Vân khó lòng từ chối.
Không chỉ vậy, nỗi lo sợ về cái chết và sự vĩnh viễn chia lìa càng khiến lời thỉnh cầu của Kiều thêm phần thuyết phục:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Với Kiều, việc trả nghĩa Kim Trọng còn quan trọng hơn cả tính mạng của mình. Dù có chết đi, nàng vẫn mong được “ngậm cười chín suối” nếu Vân chấp nhận thay mình nối duyên với chàng Kim. Câu thơ như lời trăn trối đầy đau đớn, thể hiện nỗi lo sợ không thể hoàn thành tâm nguyện. Chính sự chân thành và nỗi đau này khiến Thúy Vân không thể từ chối.
Dù mang tên “Trao duyên”, nhưng đây thực chất là sự ép buộc đầy đau đớn mà Kiều phải chấp nhận. Đó là nỗi đau của kẻ chọn hiếu đạo hơn tình yêu, của người phải hy sinh hạnh phúc cá nhân vì gia đình. Xuyên suốt đoạn trích là tiếng lòng đầy oan ức và thống khổ của Kiều, một nỗi đau không thể nguôi ngoai.
Với ngòi bút tài hoa, ngôn từ điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa trọn vẹn nỗi đau và bi kịch của Thúy Kiều trong 12 câu đầu đoạn trích “Trao duyên” (Đoạn trường tân thanh). Qua đó, ông không chỉ kể lại câu chuyện tình yêu dang dở mà còn lên án xã hội thối nát, khiến người dân vô tội phải chịu nhiều đau khổ. Đồng thời, ông bày tỏ sự thương cảm sâu sắc cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, những kiếp người mong manh như bèo nước, chịu nhiều oan trái.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 2
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc Việt Nam, đã để lại cho hậu thế kiệt tác văn học "Truyện Kiều". Tác phẩm này, dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện", phản ánh chân thực xã hội phong kiến đầy bất công và thối nát. Đoạn trích "Trao duyên" tuy ngắn nhưng chứa đựng tinh hoa của tác phẩm, khắc họa nỗi đau của Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha, từ bỏ tình yêu với Kim Trọng và trao duyên lại cho em gái Thúy Vân. Nỗi đau ấy được thể hiện rõ nét qua mười hai câu đầu của đoạn trích:
"Cậy em em có chịu lời,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Nhan đề "Trao duyên" gợi lên sự trớ trêu, bởi đây không phải là cảnh trao duyên lãng mạn mà là sự gửi gắm mối tình dang dở của Thúy Kiều cho Thúy Vân. Trước khi bước vào cuộc đời lưu lạc, Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến lời hẹn ước chưa trọn và quyết định nhờ em gái thay mình tiếp nối mối duyên này.
Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành và tha thiết của Kiều:
"Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ một cách tinh tế và chính xác. Từ "cậy" không chỉ mang nghĩa nhờ vả mà còn thể hiện sự tin tưởng và hy vọng. Tương tự, từ "chịu" không chỉ là đồng ý mà còn hàm chứa sự ép buộc nhẹ nhàng. Kiều hiểu rằng việc nhờ Vân kết duyên với Kim Trọng là vô lý, nhưng nàng vẫn quyết tâm thực hiện. Bằng cách "lạy" và "thưa", Kiều đặt mình vào vị trí thấp hơn, khiến Vân khó lòng từ chối.
Sau khi lạy, Kiều bắt đầu giãi bày hoàn cảnh của mình và bày tỏ ý định muốn Vân kết duyên với Kim Trọng:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
Thành ngữ "đứt gánh tương tư" diễn tả mối tình dang dở của Kiều và Kim Trọng. Nàng dùng điển tích "keo loan" để hy vọng mối duyên giữa Vân và Kim Trọng sẽ bền chặt. Tuy nhiên, Kiều cũng ý thức được rằng mình đang trao cho Vân một "mối tơ thừa", một mối duyên không trọn vẹn, và để Vân tự quyết định.
Dù đã trao duyên, Kiều vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau. Những kỷ niệm đẹp đẽ với Kim Trọng ùa về khiến nàng đau đớn khôn nguôi:
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."
Từ "khi" được lặp lại ba lần, nhấn mạnh những khoảnh khắc đẹp đẽ giữa Kiều và Kim Trọng. Những kỷ niệm như "ngày quạt ước", "đêm chén thề" trở thành nỗi đau khắc khoải trong lòng Kiều. Những ký ức ngọt ngào giờ đây chỉ còn là nỗi day dứt không nguôi.
"Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Sóng gió ập đến khi Kim Trọng phải về quê chịu tang, còn gia đình Kiều bị mắc oan. Kiều buộc phải lựa chọn giữa hiếu và tình, và nàng đã chọn hi sinh tình yêu để làm tròn chữ hiếu. Nỗi đau này được Kiều bày tỏ với Vân, hy vọng em gái sẽ thấu hiểu và chấp nhận yêu cầu của mình.
Dù đã bày tỏ nỗi lòng, Kiều vẫn lo sợ Thúy Vân không chấp nhận, nên nàng tiếp tục dùng lý lẽ để thuyết phục em:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều không ngần ngại viện đến tình máu mủ và cả cái chết. Những thành ngữ như "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối" được sử dụng một cách tinh tế, thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa Kim Trọng còn quan trọng hơn cả tính mạng. Chỉ cần Vân chấp nhận kết duyên với Kim Trọng, dù có chết đi, Kiều cũng cảm thấy mãn nguyện. Sự chân thành và nỗi đau này khiến Vân không thể từ chối.
Với thể thơ lục bát điêu luyện, kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ và thành ngữ dân gian, Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi đau dằn vặt của Kiều khi phải hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Qua đó, hình tượng Kiều trở nên cao đẹp hơn trong mắt người đọc, đồng thời thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của tác giả dành cho nhân vật.
Thông qua việc miêu tả nỗi đau của Kiều khi trao duyên, "Trao duyên" đã phản ánh chân thực xã hội thời Nguyễn Du, nơi đồng tiền làm băng hoại đạo đức và đẩy con người vào bước đường cùng. Giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc của đoạn trích, cũng như toàn bộ "Truyện Kiều", đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng nhiều thế hệ độc giả.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 3
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc Việt Nam, đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học bất hủ, vượt qua mọi thử thách của thời gian. Trong số đó, "Truyện Kiều" là kiệt tác vĩ đại nhất, thể hiện tài năng xuất chúng của ông.
Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những phần đặc sắc nhất của tác phẩm, phản ánh bi kịch tinh thần của Thúy Kiều khi phải đứng giữa hai lựa chọn: hiếu với gia đình và tình yêu với Kim Trọng. Cuối cùng, nàng quyết định hy sinh bản thân để cứu cha và em trai khỏi cảnh lao tù.
Đoạn trích "Trao duyên" khắc họa nỗi đau của người phụ nữ khi tình duyên dang dở, đặc biệt là 12 câu thơ đầu tiên, nơi tâm trạng đau thương của Thúy Kiều được thể hiện một cách sâu sắc:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
……
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
12 câu thơ đầu tiên của đoạn trích "Trao duyên" thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của Thúy Kiều khi phải nhờ cậy em gái mình. Những lời tâm sự chân thành của nàng cho thấy sự đau đớn khi phải từ bỏ mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng. Để cứu gia đình, nàng buộc lòng phải bán mình, từ bỏ tình yêu và hy sinh hạnh phúc cá nhân.
Thúy Kiều lo lắng cho Kim Trọng, sợ rằng khi chàng trở về và biết tin nàng mất tích, chàng sẽ đau khổ vô cùng. Với tấm lòng sâu sắc, nàng quyết định nhờ em gái Thúy Vân thay mình chăm sóc và an ủi Kim Trọng, theo cách "tình chị duyên em".
Trong câu thơ "Cậy em em có chịu lời - Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa", Thúy Kiều thể hiện sự thành khẩn và đau đớn khi gửi gắm tâm nguyện của mình cho em gái.
Mỗi câu thơ của Thúy Kiều như đứt từng khúc ruột, thể hiện sự bất lực và đau đớn khi phải đưa ra quyết định này. Nàng dùng những từ ngữ sâu sắc như "Giữa đường đứt gánh tương tư" để diễn tả sự bế tắc, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ cậy Thúy Vân.
Dù muốn trao duyên cho em gái, nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn chất chứa nỗi đau khôn nguôi. Những kỷ niệm ngọt ngào với Kim Trọng vẫn in sâu trong tâm trí nàng. Kim Trọng là người đàn ông mà nàng yêu thương chân thành, muốn gắn bó cả đời, nhưng giờ đây nàng buộc phải từ bỏ, khiến trái tim nàng như tan nát.
12 câu thơ đầu của đoạn trích "Trao duyên" phản ánh sự bất lực và bi kịch của Thúy Kiều khi gia đình gặp tai ương. Trước cảnh cha già yếu và em trai bị giam cầm, nàng không thể đứng nhìn mà phải hy sinh hạnh phúc cá nhân để cứu người thân.
Quyết định của Thúy Kiều cho thấy nàng là người sâu sắc, hiếu thảo với cha mẹ, và luôn biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Dù tương lai phía trước mịt mờ, nàng vẫn sẵn sàng hy sinh vì gia đình.
Trong những câu thơ tiếp theo:
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề"
Thúy Kiều nhớ lại những kỷ niệm đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng. Mỗi câu thơ đều thể hiện sự hòa hợp và tình yêu sâu đậm giữa hai người. Mối tình đẹp đẽ ấy đã bị dập tắt bởi sóng gió gia đình, buộc nàng phải từ bỏ.
Thúy Kiều mong Thúy Vân, vì tình chị em ruột thịt, hãy nhận lời nhờ cậy của mình, chăm sóc và yêu thương Kim Trọng thay nàng. Điều này cho thấy tấm lòng sâu nặng và sự hy sinh cao cả của Thúy Kiều dành cho người mình yêu.
Chỉ với 12 câu thơ ngắn gọn, đại thi hào Nguyễn Du đã tài tình khắc họa nỗi đau tột cùng trong tâm hồn Thúy Kiều khi nàng buộc phải hy sinh tình yêu để bảo toàn chữ hiếu, cứu lấy gia đình và những người thân yêu. Qua đó, tác phẩm không chỉ phản ánh bi kịch đầy xót xa của một người con gái tài sắc vẹn toàn mà còn hé lộ những góc khuất đầy nghiệt ngã trong cuộc đời nàng, khiến độc giả không khỏi xúc động và suy ngẫm.
12 Câu đầu Trao duyên - Mẫu 4

Nhắc đến Nguyễn Du, người ta không thể không nhớ đến ông như một trong những đại thi hào kiệt xuất của dân tộc. Sự nghiệp văn học đồ sộ của ông để lại cho đời nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó nổi bật nhất là Truyện Kiều. Tác phẩm kể về cuộc đời đầy bi kịch và đau thương của nàng Kiều. Đoạn trích Trao duyên, với 12 câu đầu, là một trong những phân đoạn xúc động nhất, thể hiện nỗi đau đớn và sự hy sinh của Thúy Kiều khi buộc phải trao duyên lại cho em gái Thúy Vân.
Đoạn trích nằm trong phần hai của tác phẩm, kể về những ngày tháng đầy biến động và lưu lạc của Thúy Kiều. Mười hai câu thơ đầu không chỉ mở màn cho chuỗi ngày đau thương mà còn là tiếng lòng tha thiết, đầy xót xa của nàng khi gửi gắm mối duyên tình dang dở với Kim Trọng cho Thúy Vân. Thúy Kiều mong em gái sẽ thay mình viết tiếp câu chuyện tình yêu với chàng Kim.
Ngay từ những dòng đầu tiên, độc giả đã bắt gặp một nghịch cảnh trớ trêu, chưa từng có trong đời thực, khiến lòng người đau nhói. Thúy Kiều, một người chị, lại phải cúi mình “cậy nhờ” và “thưa gửi” với em gái của mình.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa
Thúy Kiều, vốn là chị, lại phải dùng những từ ngữ trang trọng, thường chỉ dành cho bề trên, để nói với em gái mình. Hai câu thơ này gợi lên một cảm giác về sự nghiêm trọng và khó nói của vấn đề mà Thúy Kiều muốn nhờ cậy. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng cặp từ hô ứng “cậy - chịu”, “ngồi lên - thưa” để thể hiện sự logic và tinh tế trong cách diễn đạt của Thúy Kiều. Nàng mong muốn Thúy Vân hiểu và chấp nhận giúp đỡ mình trong việc này.
Không chần chừ, Thúy Kiều bộc bạch nỗi lòng đau đớn của mình với Thúy Vân, kể lại sự tình và mong em gái thấu hiểu.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Hình ảnh “gánh tương tư” ám chỉ trách nhiệm tình cảm mà Thúy Kiều không thể hoàn thành. Nàng tự trách mình vì không giữ trọn lời hứa với Kim Trọng và đang đau đớn vì sự dang dở này. Thúy Kiều khéo léo sử dụng điển tích “keo loan” để diễn tả nỗi lòng và mong muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Hai chữ “mặc em” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều khi trao gửi mối duyên tình cả đời cho em gái.
Hình ảnh “gánh tương tư” không chỉ là lời hứa suông mà còn chứa đựng bao nỗi nhọc nhằn và tình cảm sâu nặng. Thúy Kiều biết rằng việc này sẽ làm khó em, nhưng nàng vẫn quyết định bày tỏ hết nỗi lòng mình.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Thúy Kiều nhớ lại những ký ức ngọt ngào với Kim Trọng, từ những lời thề nguyền đến những giây phút hạnh phúc. Nhưng sóng gió ập đến, buộc nàng phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Thúy Kiều đã hy sinh tình yêu để làm tròn đạo hiếu, nhưng trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm với Kim Trọng. Nàng mong Thúy Vân, với tuổi xuân còn dài, sẽ thay mình trả nghĩa chữ tình với chàng Kim.
Với những lý lẽ thuyết phục, Thúy Kiều mong Thúy Vân hiểu rằng em còn nhiều thời gian để vun đắp hạnh phúc. Nàng viện đến tình máu mủ ruột rà để thuyết phục em gái thay mình viết tiếp lời thề non hẹn biển với Kim Trọng. Thúy Kiều hy vọng rằng Thúy Vân sẽ vì tình chị em mà chấp nhận lời nhờ cậy này.
Nhân vật Thúy Kiều dường như đang gom nhặt từng mảnh đau đớn, xót xa đến tận cùng để có thể giãi bày cùng Thúy Vân. Nàng mong rằng em gái mình sẽ thấu hiểu và đồng cảm với nỗi lòng đầy bi kịch mà nàng đang phải gánh chịu.
Ân tình sâu nặng của Thúy Vân, Thúy Kiều chắc chắn sẽ mãi mãi khắc ghi trong tim qua hai câu thơ:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối, hãy còn thơm lây
Với hai câu thơ này, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng thành ngữ dân gian “thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối” để gợi lên hình ảnh về cái chết và nỗi đau tột cùng. Có lẽ Thúy Kiều đã phần nào linh cảm được những bão tố sắp ập đến với cuộc đời mình, nên nàng muốn sắp xếp mọi thứ ổn thỏa trước khi quá muộn. Những ân tình mà Thúy Vân nhận lời thay nàng, Thúy Kiều sẽ mãi mãi khắc ghi không bao giờ quên. Trong 12 câu đầu của đoạn trích “Trao Duyên”, tác giả đã tài tình kết hợp thể thơ lục bát với các điển tích và thành ngữ dân gian để diễn tả tâm trạng đầy bi phẫn của Thúy Kiều. Qua đó, ta thấy được một bức tranh ngôn từ giản dị nhưng đầy sức ám ảnh, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Thông qua 12 câu thơ đầu của đoạn trích “Trao Duyên”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét sự éo le và bi ai trong cuộc đời người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Chỉ với 12 câu thơ, tác giả đã lên án một xã hội thối nát, nơi sức mạnh của đồng tiền đẩy con người vào những bi kịch không lối thoát, khiến họ phải chịu đựng nỗi đau đến tận cùng.
5. Cảm nhận sâu sắc về 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên (3 Bài văn mẫu)
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc, đã để lại cho nền văn học Việt Nam những kiệt tác bất hủ. Trong số đó, “Truyện Kiều” nổi bật như một niềm tự hào, kể về số phận đầy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Mười hai câu đầu của đoạn trích “Trao Duyên” thuộc phần đầu tác phẩm, là lời tâm sự đầy nước mắt của Thúy Kiều khi buộc phải trao mối tình duyên của mình cho em gái.
Mối tình sâu nặng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đã bị xã hội phong kiến tàn nhẫn chia cắt. Để không phụ lòng chàng Kim, Thúy Kiều đành trao duyên cho em gái Thúy Vân trong mười hai câu thơ đầu. Qua đó, ta nghe thấy tiếng lòng đau đớn, van nài tha thiết của người chị đang gánh chịu bi kịch tình yêu:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Lời lẽ của Thúy Kiều chân thành và đầy tình nghĩa. Từ “cậy” được Nguyễn Du sử dụng tài tình, thể hiện sự van xin khẩn thiết nhưng cũng mang chút ép buộc. Hành động “lạy” và “thưa” của Thúy Kiều, vốn chỉ dành cho bề trên, cho thấy sự nghiêm túc và tấm lòng thành khẩn của nàng. Đây là một hành động khác thường, xuất phát từ tình thế éo le và khó nói của việc trao duyên. Thúy Kiều đã khéo léo tạo ra một không khí trang nghiêm, khiến Thúy Vân không thể từ chối. Mỗi từ ngữ, mỗi câu nói đều được nàng cân nhắc kỹ lưỡng, thể hiện sự tinh tế trong nội tâm nhân vật.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
“Gánh tương tư” là hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều với Kim Trọng, nhưng giờ đây đã “đứt gánh” không thể hàn gắn. Câu thơ là tiếng lòng xót xa cho số phận bạc mệnh của nàng, đồng thời cũng là lời van nài Thúy Vân hãy thương xót mà nhận lời. Thúy Kiều đau đớn khi nghĩ đến việc em gái phải “chắp mối tơ thừa” của mình, nhưng nàng vẫn tin tưởng giao phó trách nhiệm này cho Thúy Vân.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề
Thúy Kiều nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào với Kim Trọng, từ những lời hẹn ước đến những đêm thề nguyền. Từ “khi” được lặp lại ba lần, nhấn mạnh tình cảm sâu đậm mà nàng dành cho chàng Kim. Những kỷ niệm ấy giờ đây chỉ còn là tiếng nấc nghẹn ngào, là nỗi đau khôn nguôi về một mối tình dang dở.
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Những biến cố liên tiếp ập đến gia đình khiến Thúy Kiều phải hy sinh bản thân để cứu cha và em. Chữ “Hiếu” trong đạo Nho đã trở thành nguyên tắc sống của nàng. Giữa tình và hiếu, Thúy Kiều đã chọn hiếu, chôn vùi hạnh phúc riêng tư để làm tròn đạo làm con.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Khi quyết định bán thân chuộc cha, Thúy Kiều tự thấy mình là kẻ phản bội, không xứng đáng với Kim Trọng. Nàng sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả mạng sống, để bảo vệ gia đình. Sự hy sinh cao cả ấy thể hiện tấm lòng trọng tình trọng nghĩa của người phụ nữ Việt Nam.
“Trao Duyên” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn về nghệ thuật, với những từ ngữ đắt giá được sử dụng khéo léo. Qua đoạn trích, ta thấy được hình ảnh xã hội phong kiến thối nát và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua nhân vật Thúy Kiều: trọng tình, trọng nghĩa, và sẵn sàng hy sinh vì người thân.
Bài làm mẫu 2
Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công và thối nát. Đoạn trích “Trao duyên” thể hiện nỗi lòng đau đớn của Thúy Kiều khi buộc phải trao mối tình sâu nặng với Kim Trọng cho Thúy Vân, đồng thời mở đầu cho chuỗi ngày đầy đau khổ trong cuộc đời nàng. Đặc biệt, 12 câu thơ đầu tiên như tiếng nấc nghẹn ngào, đầy xót xa.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều dùng những lời lẽ chân thành, đầy tình nghĩa để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng một cách tinh tế, không phải là “nhờ” mà là “cậy”, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối và khó từ chối. Thúy Kiều đặt Thúy Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không người chị nào lại dùng những từ ngữ tôn kính như “thưa, lạy” với em gái mình. Kiều muốn chuẩn bị tâm lý cho Vân để đón nhận một việc hệ trọng mà nàng sắp nhờ cậy, bởi nàng hiểu rằng việc này rất khó khăn và tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Mỗi từ ngữ được Thúy Kiều cân nhắc kỹ lưỡng, chọn lọc cẩn thận. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”, thể hiện sự tinh tế trong thế giới nội tâm nhân vật. Sự chọn lọc chính xác ấy cho thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kỹ trước khi quyết định trao mối nhân duyên mà nàng từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng hy vọng sẽ bền lâu, cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị, nhưng giờ đây đã “đứt gánh” giữa đường. Tơ duyên là của chị, nhưng khi đến với em, nó đã trở thành “tơ thừa”. Chị hiểu em còn trẻ, có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao ngọt ngào của tình yêu, nhưng xin em hãy thương xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Nàng băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên, và ray rứt vì Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” ở đây không phải là mặc kệ, mà là sự phó thác, giao phó trách nhiệm cho Thúy Vân, thể hiện niềm tin tuyệt đối của Kiều vào em gái.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần, nhấn mạnh tình cảm sâu nặng mà Kiều dành cho Kim Trọng, không phải chỉ là tình cảm thoáng qua. Những kỷ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại qua những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ chứa đựng những tình cảm ngọt ngào, nhưng cũng như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, bởi những kỷ niệm ấy sẽ kết thúc, nhường chỗ cho chuỗi ngày đau khổ tiếp theo.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” xảy ra khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em nàng bị bắt. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố liên tiếp đẩy Kiều vào tình thế bế tắc. Là người chị cả, nàng phải hy sinh bản thân để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Chữ Hiếu, một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, buộc con người phải dẹp bỏ tình riêng. Đây là quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Kiều cũng không ngoại lệ, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng. Nàng tự thấy mình là kẻ phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Trong cuộc sống, con người thường sẵn sàng hi sinh mọi thứ vì tình yêu. Ai cũng khao khát được gắn bó với người mình yêu. Đối với một cô gái đa cảm như Kiều, khát vọng ấy càng mãnh liệt hơn gấp bội. Vì tình yêu, nàng đã vượt qua cả những lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Thế mà giờ đây, nàng lại phải từ bỏ, thật đau đớn biết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Chỉ có những người con gái mang trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!
Sợ rằng chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian để vun đắp cho tình cảm riêng tư. Vì vậy, hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể từ chối, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin. “Máu chảy ruột mềm”, còn gì thiêng liêng hơn tình chị em ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào vị trí của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình. Có thể cảm nhận rằng Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…
Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Thế nhưng, đối với Kiều, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng giờ chỉ còn là kỉ niệm, không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ, nhưng trong hoàn cảnh của Kim, Vân, Kiều thì đây là việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải kìm nén để nói những lời trao duyên. Thật đau xót thay! Chữ Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu, nàng như mất đi tất cả. Nói đến đây, Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái, đó là một ân nghĩa lớn. Vì vậy, lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ, lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.
Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả tuổi xuân của mình vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng hiểu được nỗi đau và sự hi sinh lớn lao của chị. Vì thế, nàng không thể từ chối và chỉ biết ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên từ đầu, chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch từ Kiều. Vân đã chấp thuận.
Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành coi như chấm dứt. Bởi lẽ, mất đi tình yêu, nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng. Linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.
Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
Kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du tồn tại như một giá trị vĩnh cửu, vượt qua mọi thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả, khiến triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều.
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Bài làm mẫu 3
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, độc giả không khỏi xót xa trước số phận đầy đau khổ và truân chuyên của nàng Kiều. Người con gái tài hoa ấy phải trải qua bao phen đoạn trường, nỗi đau chia cắt tình thân chưa nguôi thì lại phải chịu nỗi xót xa khi tình yêu tan vỡ. Đoạn trích Trao duyên là minh chứng cho nỗi đau khôn nguôi của Kiều khi tình yêu không trọn. Mười hai câu đầu đoạn trích là những lời thơ chất chứa nỗi lòng đau đớn của nàng.
Mở đầu đoạn trích là lời nhờ cậy tha thiết của Thúy Kiều với Thúy Vân:
"Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Bằng tất cả sự chân thành và mong cầu, Kiều đã ngỏ lời "cậy" nhờ Vân. Từ “cậy” đặt đầu câu thơ mang sức nặng của tiếng nhờ vả, như một lời trông mong, nguyện cầu em chấp thuận. Bao nhiêu hy vọng, niềm tin trọn vẹn, Kiều đều đặt hết nơi Vân. Tiếng "chịu" cất lên như một sự nài nỉ, mong cầu em xót thương mà chấp nhận, đồng thời như một lời báo trước về việc mà nàng sắp nói ra đây sẽ rất khó xử với Vân.
Phận làm chị, theo thứ bậc trong gia đình hay lễ giáo phong kiến, Kiều nào có thể lạy em, nhưng trong tình cảnh này, nàng đã chọn cách "lạy" và "thưa" với Vân. Hơn ai hết, Kiều hiểu những thiệt thòi của Vân khi chấp thuận lời nhờ vả. Nàng lúc này là kẻ mang ơn, một cái lạy hay câu thưa nào có sánh được sự hy sinh của em dành cho mình. Lòng đau đớn khi tình yêu không trọn, nhờ đến Thúy Vân - người em gái duy nhất mà nàng luôn yêu quý và tin tưởng - thay mình nối tiếp mối duyên cùng Kim Trọng, nàng không khỏi xót xa.
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em".
Thành ngữ “giữa đường đứt gánh” được vận dụng đầy khéo léo để chỉ mối lương duyên chìa lìa của Kim - Kiều. “Gánh tương tư” sâu nặng bao nhiêu thì đứt gánh càng khổ đau, cay đắng bấy nhiêu. Điển tích “keo loan” vốn dành cho những mối tình gắn kết, bền chặt nay lại dành nhờ người “chắp mối”. Cụm danh từ “tơ thừa” kết hợp với cụm từ “mặc em” làm nổi bật tâm trạng ngậm ngùi, chua xót của Thúy Kiều. Kiều hiểu những thiệt thòi mà Vân phải chịu khi chấp nhận mối duyên này. Nếu với Thúy Kiều, đó là duyên trăm năm, còn với Vân thì đó chỉ là mối “duyên thừa” mà thôi. Hai từ “mặc em” như một sự phó mặc, uỷ thác nơi em của Kiều, nàng tin rằng em sẽ hiểu cho nỗi khó xử và tình cảnh éo le của mình.
Lời vừa dứt cũng là lúc bao kỉ niệm tình đôi lứa chợt ùa về như thác lũ, đó là những kí ức đẹp đẽ:
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."
Ngày gặp Kim Trọng, tình yêu chớm nở, hai người "tình trong như đã mặt ngoài còn e", Kim - Kiều đã từng hạnh phúc biết bao với những lời hẹn ước, với chén rượu thề nguyền. Điệp từ "khi" càng nhấn mạnh nỗi nhớ da diết và cả nỗi tiếc thương nơi Kiều. Nàng tâm sự với em như để giãi bày nỗi lòng, cũng là mong em sẽ phần nào hiểu được những day dứt nơi nàng.
"Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là tai ương bất ngờ ập đến mà gia đình chị em Kiều phải gánh chịu. Cha và em bị oan sai, Kiều buộc phải bán mình cứu người thân. Chữ “hiếu” đã trọn mà chữ “tình” còn day dứt. Làm sao để vẹn cả hai bề? Đó là một câu hỏi luôn thường trực trong trái tim nàng. Để làm tròn chữ “hiếu”, Kiều đã bỏ lỡ mối keo loan trăm năm, trao duyên cho em để thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, cho vẹn chữ “tình” sâu nặng. Nói rồi, để thuyết phục em thêm, nàng tiếp lời:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Những lý lẽ Kiều đưa ra vừa chân thành tha thiết, lại vừa thấu tình đạt lý. Thúy Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian để tìm hiểu Kim Trọng, còn Kiều thì khác, khi nàng quyết định bán mình cứu cha cũng là khi tự do, thanh xuân khép lại, phía trước là bao tai ương, sóng gió trực chờ. Hơn thế nữa, Vân và Kiều là máu mủ ruột rà nên dễ dàng đồng cảm, thấu hiểu mà thay Kiều trả duyên cho Kim Trọng “thay lời nước non”. Thậm chí, nàng còn nói đến cái chết “ngậm cười chín suối” để mong Vân hiểu được tâm nguyện tha thiết của mình. Chắc có lẽ khi nghe những lời ấy, Vân cũng không thể đành lòng nhìn chị đau đớn mà chối từ lời nhờ cậy từ nàng.
Sự kết hợp tinh tế giữa thể thơ lục bát truyền thống và ngôn từ giàu hình ảnh đã làm nổi bật nỗi đau “đứt ruột” của Thúy Kiều khi tình duyên tan vỡ trong mười hai câu đầu đoạn thơ. Qua đó, người đọc càng thêm trân trọng vẻ đẹp của một trái tim thiết tha, chung thủy, cùng tấm lòng hiếu thảo và đức hi sinh cao cả của người con gái tài sắc ấy. Để hiểu sâu hơn về đoạn thơ, hãy tự hỏi: Liệu sự hi sinh của Kiều có phải là biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu và lòng hiếu thảo trong xã hội phong kiến? Hãy suy ngẫm và liên hệ với những giá trị nhân văn trong cuộc sống hiện đại.
- 14 mẫu tóm tắt truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng - Tổng hợp những bài văn mẫu lớp 6 hay nhất
- Tả con vẹt mà em yêu thích: 3 Dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu Tả con vật nuôi trong nhà dành cho học sinh lớp 4
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 tập 1
- Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận sâu sắc về đoạn trích 'Đánh nhau với cối xay gió' - Dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu xuất sắc
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7, sách Kết nối tri thức tập 1