Cảm nhận sâu sắc về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu - Kèm sơ đồ tư duy, 3 dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu xuất sắc
TOP 20 bài Cảm nhận sâu sắc về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu, mang đến góc nhìn chân thực về cội nguồn hình thành tình đồng chí, đồng đội cao đẹp trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Chỉ qua 7 câu thơ ngắn gọn trong bài Đồng chí, người đọc có thể thấu hiểu hoàn cảnh xuất thân và hành trình chiến đấu gian khổ của những người lính. Cùng khám phá bài viết dưới đây từ EduTOPS để hiểu rõ hơn về tác phẩm Đồng chí trong chương trình Ngữ văn 9, Bài 7 sách Kết nối tri thức Tập 2.
Cảm nhận sâu sắc về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận 7 câu thơ đầu Đồng chí
- Dàn ý cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí (3 mẫu)
- Cảm nhận 7 câu thơ đầu Đồng chí ngắn gọn
- Cảm nhận 7 câu đầu bài thơ Đồng chí
- Cảm nhận của em về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí
- Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (16 mẫu)
- Viết đoạn văn nêu cảm nhận về 7 câu thơ đầu Đồng chí
Sơ đồ tư duy Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí

Dàn ý cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí
1. Mở bài
- Khái quát về tác giả Chính Hữu với những nét tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác.
- Giới thiệu tác phẩm Đồng chí và những giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật.
- Dẫn dắt vào vấn đề chính: cảm nhận về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.
2. Thân bài
- Khám phá phong cách sáng tác độc đáo của Chính Hữu.
- Tìm hiểu bối cảnh ra đời của bài thơ Đồng chí.
- Phân tích hoàn cảnh xuất thân của những người lính trong thời kỳ kháng chiến.
- Khắc họa cuộc gặp gỡ giữa những con người từ nhiều miền quê khác nhau.
- Sự gắn kết, chia sẻ gian khổ và niềm vui giữa những người lính.
- Đánh giá giá trị tác phẩm qua việc cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.
- Nhấn mạnh giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
3. Kết bài
- Tổng kết nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Khẳng định ý nghĩa sâu sắc của 7 câu thơ đầu bài Đồng chí.
- Bày tỏ cảm xúc và suy nghĩ cá nhân về đoạn thơ.
......
Cảm nhận ngắn gọn về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí
Xuyên suốt bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, tác giả đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội. Bảy câu thơ đầu tiên đã lí giải cơ sở hình thành nên tình cảm thiêng liêng ấy. Trước hết, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, được thể hiện rõ qua hai câu thơ mở đầu:
"Quê hương anh đất mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Hai câu thơ như một lời giới thiệu chân thực về hoàn cảnh quê hương nghèo khó của những người lính. Dù là người miền biển với đất nhiễm mặn, đồng chua hay người miền núi với đất cằn sỏi đá, cả "anh" và "tôi" đều xuất thân từ những vùng quê nghèo, nơi cuộc sống đầy khắc nghiệt. Sự tương đồng về xuất thân và cảnh ngộ đã giúp họ tìm thấy điểm chung, từ đó xây dựng nên tình đồng chí bền chặt.
Tình đồng chí còn được hình thành từ sự đồng điệu trong nhận thức và niềm tin vào lí tưởng cách mạng. Họ cùng chung mục đích chiến đấu, cùng xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn và sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc. Từ những người xa lạ, họ đã trở thành đồng đội, cùng đứng trong hàng ngũ cách mạng, sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu chung: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu".
Cuối cùng, tình đồng chí càng trở nên thiêng liêng nhờ sự gắn bó keo sơn trong những năm tháng chiến đấu gian khổ. "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" – chỉ khi cùng nhau trải qua những khó khăn, họ mới thực sự trở thành đồng chí. Họ chia sẻ với nhau từng miếng cơm, manh áo, cùng vượt qua những đêm đông lạnh giá và những trận đánh ác liệt. Tình đồng chí trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, xoa dịu nỗi đau và tiếp thêm sức mạnh để họ vượt qua mọi thử thách. Hai tiếng "Đồng chí" vang lên như một lời khẳng định đầy xúc động về tình cảm gắn bó sâu nặng và thiêng liêng ấy.
Đoạn thơ khép lại nhưng âm hưởng vẫn còn vang vọng, để lại trong lòng người đọc những hình ảnh đẹp đẽ về tình đồng chí – một tình cảm giản dị mà cao quý, thiêng liêng.
Cảm nhận về 7 câu đầu bài thơ Đồng chí
Chính Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ ông đã khắc họa chân dung người lính với vẻ đẹp giản dị mà cao quý, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Bảy câu thơ đầu bài thơ Đồng chí đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về cội nguồn hình thành tình cảm cao đẹp ấy trong gian khổ chiến tranh.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác năm 1948, trong những ngày đông lạnh giá tại chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm không chỉ làm nổi bật hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ mà còn khắc họa rõ nét tình đồng chí ấm áp, thiêng liêng giữa những người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.
Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí chính là sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. Hình ảnh "quê anh" và "làng tôi" cùng với những thành ngữ như "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" đã phác họa rõ nét những miền quê nghèo khó trên khắp đất nước. Dù xuất thân từ những vùng quê khác nhau, họ đều là những người nông dân chân chất, giàu lòng yêu nước.
Sự tương đồng về giai cấp và hoàn cảnh xuất thân đã giúp những người lính thấu hiểu và gắn bó với nhau hơn. Xuất thân từ những gia đình nghèo khó, họ đã cùng nhau vượt qua mọi gian khổ trên chiến trường, cùng đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu.
Nhưng có lẽ, điều làm nên sự gắn kết sâu sắc nhất chính là sự đồng điệu trong lí tưởng cách mạng: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu". Hình ảnh chiếc súng không chỉ tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, sát cánh bên nhau của những người lính. Dù trong gian khổ, họ vẫn giữ vững niềm tin và khí thế chiến đấu.
Và rồi, từ những người xa lạ, họ đã trở thành đồng chí, đồng đội của nhau. Hai tiếng "Đồng chí" vang lên như một lời khẳng định đầy xúc động về tình cảm thiêng liêng, cao quý giữa những người lính. Tình cảm ấy không chỉ là sự gắn bó mà còn là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Thể thơ tự do cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã giúp Chính Hữu khắc họa thành công vẻ đẹp của tình đồng chí. Mỗi câu thơ như một nốt nhạc ngân vang, làm sống dậy tình cảm cao đẹp giữa những người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Bảy câu thơ đầu bài Đồng chí đã mang đến cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về cội nguồn hình thành tình đồng chí. Tình cảm ấy không chỉ tồn tại trong thời kỳ kháng chiến mà còn là biểu tượng đẹp đẽ của tình người trong những năm tháng gian khổ. Sự cao quý của tình đồng chí, đồng đội đã góp phần làm nên sức mạnh tinh thần to lớn, giúp người lính vượt qua mọi thử thách.
Cảm nhận của em về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí
Chính Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ ông giản dị, chân thành và thấm đẫm tình người, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về vẻ đẹp của người lính nơi chiến trận. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông là bài thơ "Đồng chí", khắc họa tình đồng đội, đồng chí cao đẹp. Đặc biệt, trong 7 câu thơ đầu, tác giả đã làm rõ cơ sở hình thành nên tình cảm thiêng liêng ấy.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Chính Hữu đã sử dụng thành ngữ dân gian để giới thiệu về quê hương và hoàn cảnh gặp gỡ của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Các từ ngữ như "quê hương", "làng" gắn liền với đặc điểm địa lý đã được tác giả sử dụng tinh tế để gợi lên hình ảnh những vùng quê nghèo khó. Cả "anh" và "tôi" đều xuất thân từ những người nông dân, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, nơi đồng chua nước mặn. Những hình ảnh được gợi lên từ thành ngữ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" đã phản ánh sự khó khăn, vất vả của người lao động nơi đây. Họ phải đối mặt với những thử thách của thiên nhiên, nơi cây cối khó sinh trưởng. Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân đã giúp những người lính trở nên gắn bó với nhau.
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Cách xưng hô "anh" - "tôi" tưởng chừng xa lạ nhưng khi kết hợp với từ "với" lại gợi lên sự gần gũi, thân thiết. Đó cũng là cách người lính thể hiện sự trân trọng dành cho người đồng đội của mình. Họ đến từ những miền quê khác nhau, gặp nhau khi cùng chung nhịp đập của lòng yêu nước, cùng chung mục đích chiến đấu vì Tổ quốc. Tình cảm giữa họ không chỉ dựa trên sự tương đồng về hoàn cảnh mà còn là sự đồng điệu trong lý tưởng cao đẹp.
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Những người lính rời xa ruộng đồng để đến chiến trường, sát cánh bên nhau trong nhiệm vụ. Hình ảnh "súng bên súng" không chỉ thể hiện sự đoàn kết mà còn là biểu tượng của lý tưởng chiến đấu chung. Câu thơ với nhịp điệu nhịp nhàng và hình ảnh giàu chất hội họa đã khắc họa rõ nét tình đồng chí trong gian khổ. Dù phải đối mặt với hiểm nguy và thiếu thốn, họ vẫn luôn sát cánh bên nhau.
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Khi màn đêm buông xuống, cái lạnh cắt da cắt thịt của núi rừng càng làm nổi bật sự khắc nghiệt của chiến trường. Nhưng chính trong hoàn cảnh ấy, tình đồng đội càng trở nên bền chặt. Họ chia sẻ cho nhau từng tấm chăn mỏng, không chỉ là sự sẻ chia vật chất mà còn là sự gắn kết tinh thần. Câu thơ gợi lên sự khó khăn nhưng đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí.
Câu thơ thứ 7 vang lên như một lời khẳng định đầy xúc động:
"Đồng chí!"
Từ "đôi người xa lạ", họ đã trở thành "đôi tri kỉ" và cuối cùng là "đồng chí". Hai tiếng "Đồng chí!" ngắn gọn nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng, cao đẹp. Đó là tình cảm được hình thành trong gian khổ, giữa những con người có chung xuất thân và lý tưởng. Câu thơ như một nốt nhạc ngân vang, kết tinh những giá trị cao quý nhất của tình đồng đội.
Như Bêlinxki từng nói: "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật". Chính Hữu đã tái hiện chân thực cuộc đời qua ngôn từ của mình. Đoạn thơ không chỉ thể hiện tình đồng chí trong thời chiến mà còn làm nổi bật vẻ đẹp giản dị, chân chất của người lính cách mạng.
Cảm nhận sâu sắc về 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 1
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về đề tài người lính trong thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất phát từ cảm xúc chân thực và tình yêu nước sâu sắc, tác giả đã khéo léo lí giải cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết giữa những người lính.
Trong 7 câu thơ đầu, với cấu trúc tự do, dài ngắn khác nhau, tác giả đã làm rõ cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội. Mở đầu bằng hai câu thơ đối nhau chỉn chu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu giới thiệu quê hương của “anh” và “tôi” – những người lính xuất thân từ nông dân. “Nước mặn đồng chua” gợi lên vùng đất ven biển nhiễm phèn, khó canh tác, còn “đất cày lên sỏi đá” lại là hình ảnh của vùng đồi núi, trung du đầy đá ong. Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó chính là cơ sở đầu tiên tạo nên sự đồng cảm giữa những người lính.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “tôi” chỉ hai người, kết hợp với từ “xa lạ” nhấn mạnh sự khác biệt ban đầu. Tuy nhiên, dù đến từ những phương trời xa lạ, họ đã gặp nhau khi cùng chung nhịp đập của trái tim yêu nước. Tình đồng chí giữa họ không chỉ dựa trên sự tương đồng về hoàn cảnh mà còn là sự gắn kết về lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Tình đồng chí càng trở nên bền chặt khi họ cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” không chỉ thể hiện sự thiếu thốn vật chất mà còn là biểu tượng của tình cảm gắn bó, sẻ chia. Từ “chung” ở đây mang nhiều ý nghĩa: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, và trên hết là chung một khát vọng chiến đấu vì Tổ quốc.
Nhìn lại 7 câu thơ đầu, ta thấy rõ sự vận động của tình cảm. Từ “anh” và “tôi” ban đầu là hai thế giới riêng biệt, dần trở thành “đôi người xa lạ”, rồi “đôi tri kỷ”, và cuối cùng là “đồng chí”. Sự gắn kết này không chỉ là sự hòa nhập về tình cảm mà còn là sự thống nhất về lý tưởng và mục đích.
Cơ sở hình thành tình đồng chí trước hết là sự tương đồng về xuất thân nghèo khó, bị thực dân áp bức. Thứ hai, họ có chung lòng yêu nước sâu sắc, quyết tâm không khuất phục trước kẻ thù. Thứ ba, họ là những người giàu lòng nhân ái, biết sẻ chia, nâng đỡ lẫn nhau trong gian khổ. Chính những điều này đã tạo nên ý chí chiến đấu kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ như một lời khẳng định đầy xúc động. Chỉ với hai chữ và dấu chấm cảm, câu thơ trở thành điểm tựa vững chắc, vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định chắc chắn về tình cảm thiêng liêng giữa những người lính. Nó không chỉ kết nối hai phần của bài thơ mà còn mở ra vẻ đẹp của tình đồng chí trong những câu thơ tiếp theo.
Dù không có tiếng súng, người đọc vẫn cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh. Hình tượng người lính được khắc họa qua những biểu tượng giàu sức gợi. Thành công của Chính Hữu trong “Đồng chí” chính là việc sử dụng ngôn từ giản dị để làm nổi bật vẻ đẹp phi thường của người lính. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị và sức hút đối với độc giả hôm nay.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 2
Hai câu thơ đầu với cấu trúc song hành, đối xứng đã khắc họa hình ảnh hai người lính trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, thân mật, gợi lên tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương của “anh” và “tôi” đều là những vùng đất nghèo khó, nơi “nước mặn, đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”. Bằng cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ, Chính Hữu đã làm cho lời thơ trở nên bình dị, mộc mạc, phản ánh tâm hồn chân chất của những người nông dân ra trận. Sự đồng cảnh, đồng cảm giữa họ chính là cơ sở hình thành nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo miêu tả quá trình từ “đôi người xa lạ” trở thành “đôi tri kỉ”, và cuối cùng là “đồng chí”. Câu thơ biến đổi từ dài sang ngắn, từ 7, 8 từ rút gọn lại chỉ còn 2 từ, thể hiện sự dồn nén cảm xúc. Những ngày đầu gặp gỡ: “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Tình bạn gắn bó qua những kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
“Súng bên súng” là hình ảnh giàu ý nghĩa, thể hiện sự đồng lòng, chung lý tưởng chiến đấu vì Tổ quốc. “Đầu sát bên đầu” gợi lên sự đồng điệu trong tâm hồn. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là một trong những câu thơ xúc động nhất, đầy ắp kỉ niệm về những ngày gian khổ. Chia sẻ từng tấm chăn mỏng, họ đã trở thành tri kỉ, và cuối cùng là đồng chí. Hai từ “đồng chí” vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào và xúc động, thể hiện tình cảm thiêng liêng giữa những người lính cùng chung lý tưởng chiến đấu.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 3
Tình đồng chí, đồng đội cao quý và thiêng liêng của những người lính được Chính Hữu khắc họa sinh động trong bài thơ Đồng chí. Trong 7 câu thơ mở đầu, tác giả đã làm rõ nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ vốn là những con người xa lạ, nhưng đã gắn kết với nhau qua chiến tranh, cùng chung lý tưởng đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua”
“Nước mặn đồng chua” là hình ảnh của những vùng đất ven biển bị nhiễm mặn và vùng đất phèn chua, nơi canh tác khó khăn. Điều này cho thấy những người lính này xuất thân từ miền Trung hoặc miền Nam của đất nước.
“Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
“Đất cày lên sỏi đá” gợi lên hình ảnh những vùng đất cằn cỗi, khô khốc, thường thấy ở vùng trung du và miền núi phía Bắc. Đây là những nơi có điều kiện canh tác vô cùng khó khăn.
Điểm chung của những người lính là họ đều đến từ những vùng quê nghèo khó trên khắp đất nước. Trước khi trở thành đồng đội, họ hoàn toàn xa lạ, không hề quen biết. Nhưng họ đã gặp nhau khi cùng chung lý tưởng chiến đấu vì Tổ quốc. Họ trở thành những người tri kỉ, những người bạn thân thiết, và theo cách định nghĩa của Chính Hữu, họ đã trở thành “đồng chí”.
Những người lính đã sát cánh bên nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, gian khổ. Hai tiếng “Đồng chí” vang lên cuối khổ thơ như một lời khẳng định về sự gắn bó thiêng liêng giữa họ. Đó không chỉ là tình cảm mà còn là sự đồng lòng, đồng chí hướng.
Qua 7 câu thơ đầu, Chính Hữu đã xác lập cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội, làm nền tảng cho sự phát triển của tình cảm cao đẹp này trong những khổ thơ tiếp theo.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 4
Chính Hữu, quê ở Hà Tĩnh, là nhà thơ chiến sĩ nổi tiếng với những tác phẩm viết về người lính và hai cuộc chiến tranh. Ông đặc biệt khắc họa tình đồng chí, đồng đội và tình yêu quê hương. Bài thơ “Đồng Chí”, sáng tác năm 1948, in trong tập “Đầu súng trăng treo”, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong 7 câu thơ đầu, tác giả đã làm rõ cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !”
Trước hết, tác giả cho thấy tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối ứng với nhau: “quê hương anh - làng tôi”, “nước mặn đồng chua - đất cày lên sỏi đá”. Cách giới thiệu giản dị, chân thật về xuất thân của hai người lính - họ đều là những người nông dân nghèo. Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” gợi lên sự nghèo khó của những vùng đất ven biển bị nhiễm mặn, đất khô cằn, khó canh tác. Qua đó, ta thấy được cuộc sống khó khăn của người nông dân trong thời kỳ đất nước bị nô lệ và chiến tranh. Từ hai miền đất xa lạ, họ gặp nhau trong sự tương đồng về hoàn cảnh:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “đôi” gợi lên sự thân thiết, gắn bó, dù ban đầu họ là những người xa lạ. Tuy nói là “chẳng hẹn”, nhưng thực chất họ đã có một “hẹn ước” ngầm - đó là lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí chiến đấu vì độc lập dân tộc. Họ tự nguyện gia nhập quân đội, và từ đó, họ “quen nhau”. Đó chính là cái hẹn không lời, nhưng mang ý nghĩa sâu sắc từ tận đáy lòng những người lính.
Tình đồng chí còn được hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ và lý tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Câu thơ là bức tranh chân thực về tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính. Hình ảnh “súng bên súng, đầu sát bên đầu” thể hiện sự đoàn kết, cùng chung nhiệm vụ và lý tưởng. “Súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” tượng trưng cho lý trí và ý chí. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nhịp điệu mạnh mẽ, nhấn mạnh sự gắn kết giữa những người lính. Tình đồng chí càng trở nên bền chặt khi họ cùng nhau vượt qua khó khăn, thiếu thốn nơi chiến trường:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Núi rừng Việt Bắc với cái lạnh cắt da cắt thịt đã thử thách những người lính. Nhưng chính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, họ đã chia sẻ cho nhau từng tấm chăn mỏng để giữ ấm. Hình ảnh “chung chăn” không chỉ là sự sẻ chia vật chất mà còn là biểu tượng của tình cảm gắn bó, thân thiết. Họ trở thành “đôi tri kỷ” - những người bạn thân thiết, hiểu nhau sâu sắc. Câu thơ vừa thể hiện sự khắc nghiệt của chiến tranh, vừa làm nổi bật vẻ đẹp ấm áp của tình đồng chí.
Câu thơ cuối cùng, chỉ với hai tiếng “Đồng chí”, vang lên như một lời khẳng định đầy xúc động. Dấu chấm cảm tạo điểm nhấn, như một lời tuyên bố về tình cảm thiêng liêng giữa những người lính. Câu thơ như một bản lề, kết nối hai phần của bài thơ, khẳng định rằng cùng hoàn cảnh xuất thân và lý tưởng, họ đã trở thành đồng chí của nhau.
Tình đồng chí của những người lính cách mạng được xây dựng trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu. Điều này được thể hiện một cách tự nhiên, giản dị mà sâu sắc, góp phần tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 5
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu khắc họa hình tượng người lính cách mạng và tình đồng đội keo sơn thông qua ngôn ngữ giản dị, hình ảnh chân thực, cô đọng và giàu sức biểu cảm.
Ngay từ những dòng đầu tiên của bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã lý giải nguồn gốc hình thành tình đồng chí sâu nặng giữa “anh” và “tôi” – những người lính cách mạng:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” kết hợp với giọng điệu tâm tình, nhẹ nhàng như lời kể chuyện, cùng nghệ thuật sóng đôi, tác giả đã khéo léo thể hiện tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng trong cảnh ngộ. Họ là những người nông dân áo vải, xuất thân từ những miền quê nghèo khó – nơi miền biển nước mặn, vùng đồi núi trung du. Không hẹn mà gặp, họ cùng chung một lý tưởng: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình và nghĩa vụ công dân đã thôi thúc họ lên đường chiến đấu. Vì thế, từ những phương trời xa lạ, họ “chẳng hẹn mà quen nhau”. Điều này gợi nhớ đến hình ảnh những người lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ - Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ - Quen nhau từ buổi “một, hai” - Súng bắn chưa quen - Quân sự mươi bài - Lòng vẫn cười vui kháng chiến”.
Trong môi trường quân ngũ, đơn vị trở thành mái ấm gia đình, tình đồng đội thay thế tình máu mủ. Sự xa lạ ban đầu nhanh chóng tan biến. Sát cánh bên nhau trong chiến đấu, họ càng thấm thía sự gắn kết, hòa hợp giữa những người cùng chung nhiệm vụ và lý tưởng cao đẹp: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh sóng đôi, điệp từ “súng”, “đầu”, cùng giọng thơ tha thiết, trầm lắng nhấn mạnh tình cảm gắn bó của người lính trong cuộc chiến. Họ đồng lòng, đồng sức, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn nền độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc - “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính sự đồng cảnh, đồng cảm và thấu hiểu đã giúp họ gắn bó, sẻ chia mọi gian lao, thiếu thốn: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Từ những khó khăn, hiểm nguy, tình cảm giữa họ nảy nở, trở thành tình bạn tri kỷ, đồng chí sâu sắc. Hai tiếng “Đồng chí” kết thúc khổ thơ như một nốt nhạc vang lên, làm bừng sáng cả đoạn thơ, là điểm hội tụ của tình giai cấp, tình đồng đội và tình bạn bè trong thời đại mới.
Tóm lại, qua đoạn thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, người đọc nhận thấy cơ sở hình thành tình đồng chí và sự biến đổi kỳ diệu: từ những người nông dân xa lạ, họ trở thành những đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 6
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu luôn để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu sắc về tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng. Điều này được thể hiện rõ nét ngay từ bảy câu thơ đầu tiên:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Ngay từ những dòng đầu, Chính Hữu đã khéo léo phác họa xuất thân của những người lính. Họ đều xuất thân từ những miền quê nghèo khó, nơi thiên nhiên khắc nghiệt đã in hằn lên cuộc sống của họ. Nếu “anh” đến từ vùng “nước mặn đồng chua”, thì “tôi” lại sinh ra nơi “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền quê xa lạ nhưng cùng chung một nỗi vất vả, nghèo khó.
Những người lính ấy, từ khắp các phương trời, chẳng hẹn mà gặp nhau. Họ mang trong mình một lý tưởng chung, một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Điều đó đã kết nối họ, biến họ từ những người xa lạ trở thành đồng đội, đồng chí thân thiết. Thật kỳ diệu khi những con người từ những miền đất khác nhau lại có thể gắn bó như anh em một nhà.
Chính Hữu đã sử dụng hình ảnh giàu tính biểu tượng: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Trong những ngày tháng chiến đấu gian khổ, họ cùng nhau vượt qua mọi khó khăn. “Súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, còn “đầu” là biểu tượng của lý tưởng cao đẹp. Phép điệp ngữ được sử dụng tài tình, nhấn mạnh sự đồng lòng, đồng chí của những người lính. Họ cùng chung mục tiêu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.
Tình đồng chí còn được thể hiện qua sự sẻ chia trong những đêm lạnh giá: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Những người lính phải đối mặt với cái lạnh cắt da của rừng sâu, nhưng chính trong hoàn cảnh ấy, họ đã trở thành tri kỷ, thấu hiểu và chia sẻ với nhau từng hơi ấm.
Hai tiếng “đồng chí” vang lên ở cuối đoạn thơ như một lời khẳng định đầy tự hào và trân trọng về tình cảm thiêng liêng giữa những người lính.
Chỉ với bảy câu thơ ngắn gọn, Chính Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính và tình đồng chí keo sơn, gắn bó của họ. Đó là một bức tranh chân thực và đầy cảm xúc về tình người trong chiến tranh.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 7
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc tình đồng đội, đồng chí. Bảy câu thơ đầu tiên đã phác họa rõ nét xuất thân và quá trình hình thành tình cảm thiêng liêng ấy.
Những người lính trong bài thơ đều xuất thân từ những người nông dân nghèo khó, lam lũ.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Nếu “anh” đến từ vùng quê “nước mặn đồng chua”, thì “tôi” cũng sinh ra từ làng quê “đất cày lên sỏi đá”. Những hình ảnh này gợi lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên, nơi cuộc sống con người phải đối mặt với muôn vàn khó khăn.
Những con người từ những miền đất xa lạ ấy, tưởng chừng không thể gặp gỡ, nhưng họ đã “tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đó là một cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng cũng là tất yếu, bởi họ cùng chung một lý tưởng: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh “súng bên súng” tượng trưng cho những ngày tháng cùng nhau chiến đấu, còn “đầu sát bên đầu” thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn và lý tưởng. Họ cùng nhau chiến đấu vì mục tiêu cao cả: bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.
Không chỉ chia sẻ lý tưởng, họ còn cùng nhau vượt qua những khó khăn, gian khổ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chỉ những ai đã từng trải qua cái lạnh cắt da của rừng sâu mới thấu hiểu được sự khắc nghiệt ấy. Những người lính không chỉ đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt mà còn thiếu thốn về vật chất, đến mức phải chia sẻ từng tấm chăn mỏng manh. Chính trong hoàn cảnh ấy, tình đồng chí càng trở nên sâu sắc, họ trở thành “đôi tri kỷ” thấu hiểu và sẻ chia. Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào và trân trọng về tình cảm thiêng liêng giữa những người lính.
Tóm lại, bảy câu thơ đầu bài thơ “Đồng chí” đã xây dựng nền tảng vững chắc cho tình đồng đội, đồng chí. Qua đó, hình ảnh người lính hiện lên thật giản dị mà cao đẹp, gần gũi mà đáng trân trọng.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 8
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Bảy câu thơ đầu trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã khắc họa rõ nét cơ sở hình thành tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng giữa những người lính.
Hai câu thơ mở đầu với cấu trúc song hành, đối xứng, như một cuộc đối thoại thân tình giữa hai người lính. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo khó, cằn cỗi. Một bên là vùng “nước mặn đồng chua” – nơi đồng bằng ven biển khắc nghiệt, một bên là “đất cày lên sỏi đá” – vùng trung du khô cằn. Dù xa cách về địa lý, họ đều chung một xuất thân lam lũ, vất vả. Chính Hữu đã khéo léo sử dụng thành ngữ, tục ngữ để tô đậm chất chân quê, dân dã trong lời thơ. Đó cũng là cơ sở đầu tiên để tình đồng chí nảy nở.
Từ những miền quê xa lạ, họ gặp nhau trong quân ngũ. Hình ảnh “Súng bên súng” tượng trưng cho sự đồng lòng chiến đấu, cùng nhau bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Còn “đầu sát bên đầu” lại thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn và lý tưởng. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” gợi lên những kỷ niệm gian khổ, khi họ cùng nhau chia sẻ từng hơi ấm trong những đêm lạnh giá. Họ trở thành tri kỷ, thấu hiểu và sẻ chia mọi khó khăn. Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào và trân trọng về tình cảm thiêng liêng ấy.
Như vậy, bảy câu thơ đầu không chỉ giải thích cơ sở hình thành tình đồng chí mà còn cho thấy sự biến đổi kỳ diệu: từ những người nông dân xa lạ, họ trở thành đồng đội, đồng chí, sẵn sàng sống chết vì nhau.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 9
Bảy câu thơ đầu trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã lý giải một cách sâu sắc cơ sở hình thành tình đồng chí thiêng liêng giữa những người lính:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
Chính Hữu đã khéo léo sử dụng thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” kết hợp với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ. Qua đó, tác giả cho thấy tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng trong cảnh ngộ. Họ đều là những người nông dân nghèo khó, xuất thân từ những vùng quê lam lũ. Cuộc sống vất vả, gắn bó với đồng ruộng đã trở thành một phần máu thịt của họ. Không hẹn mà gặp, họ cùng nhau lên đường ra trận vì lòng yêu nước và nghĩa vụ công dân. Từ những phương trời xa lạ, họ “chẳng hẹn mà quen nhau”, giống như những người lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên:
Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến.
Trong môi trường quân ngũ, đơn vị trở thành mái ấm gia đình, tình đồng đội thay thế tình thân ruột thịt. Sự xa lạ ban đầu nhanh chóng tan biến, nhường chỗ cho sự gắn bó, sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
Theo thời gian, họ càng thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc sự hòa hợp, gắn bó giữa những người đồng đội. Hình ảnh “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” không chỉ thể hiện sự đồng lòng chiến đấu mà còn là sự đồng điệu trong tâm hồn và lý tưởng. Điệp từ “súng” và “đầu” cùng giọng thơ tha thiết nhấn mạnh tình cảm keo sơn giữa những người lính. Họ cùng nhau chiến đấu vì mục tiêu cao cả: bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn nền độc lập tự do. Sự đồng cảm và hiểu nhau đã biến họ thành những người bạn tri kỷ, cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Hai tiếng “Đồng chí” vang lên như một nốt nhạc đầy xúc động, kết tinh bao tình cảm đẹp đẽ của thời đại mới: tình giai cấp, tình đồng đội, và tình bạn bè trong chiến tranh.
Tóm lại, bảy câu thơ đầu đã khái quát một cách chân thực và sâu sắc cơ sở hình thành tình đồng chí giữa những người lính.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 10
“Đồng chí” là một tác phẩm xuất sắc viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bảy câu thơ đầu tiên đã khắc họa rõ nét cơ sở hình thành tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng giữa những người lính.
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
“Anh” và “tôi” vốn là những con người xa lạ, đến từ những miền quê khác nhau trên dải đất hình chữ S. Tuy nhiên, họ có chung một điểm tương đồng: xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, nơi thiên nhiên khắc nghiệt đã in hằn lên cuộc sống của họ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” đã phác họa rõ nét hoàn cảnh sống vất vả của những người lính. Họ là những người nông dân chân chất, cần cù lao động. Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy, họ đã từ biệt quê hương, lên đường chiến đấu. Những con người từ những phương trời xa lạ ấy, chẳng hẹn mà gặp nhau, tạo nên một sự gặp gỡ tình cờ nhưng đầy ý nghĩa.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Sự gặp gỡ ấy không phải ngẫu nhiên mà là tất yếu, bởi họ cùng chung một lý tưởng cao đẹp: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh “súng bên súng” tượng trưng cho sự đồng lòng chiến đấu, còn “đầu sát bên đầu” thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn và lý tưởng. Họ cùng nhau chiến đấu vì mục tiêu chung: bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.
Không chỉ chia sẻ lý tưởng, họ còn cùng nhau vượt qua những khó khăn, gian khổ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chỉ những ai đã từng trải qua cái lạnh cắt da của rừng sâu mới thấu hiểu được sự khắc nghiệt ấy. Những người lính không chỉ đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt mà còn thiếu thốn về vật chất, đến mức phải chia sẻ từng tấm chăn mỏng manh. Chính trong hoàn cảnh ấy, tình đồng chí càng trở nên sâu sắc, họ trở thành “đôi tri kỷ” thấu hiểu và sẻ chia. Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào và trân trọng về tình cảm thiêng liêng giữa những người lính.
Như vậy, bảy câu thơ đầu của bài thơ “Đồng chí” đã khắc họa rõ nét cơ sở hình thành tình đồng đội, đồng chí vững chắc giữa những người lính. Đó là tình cảm được xây dựng từ sự đồng cảm, đồng lòng và sẻ chia trong gian khổ.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 11
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
“Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tình đồng đội, đồng chí. Bảy câu thơ đầu tiên đã khắc họa rõ nét cơ sở hình thành tình cảm thiêng liêng ấy.
Trước hết, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Nếu “anh” đến từ vùng “nước mặn đồng chua”, thì “tôi” lại sinh ra từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa cách nhưng cùng chung một cảnh ngộ: cái nghèo, cái khó. Hai câu thơ giản dị nhưng đã phác họa rõ nét xuất thân của những người lính. Họ là những người nông dân nghèo, vì nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc mà lên đường chiến đấu.
Tiếp đến, tình đồng chí được hình thành từ sự đồng lòng, chung lý tưởng và sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Những người lính vốn “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại. Hình ảnh “súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, còn “đầu” là biểu tượng của lý tưởng và tâm hồn. Phép điệp từ “súng”, “đầu” và “bên” tạo nên âm điệu mạnh mẽ, nhấn mạnh sự gắn kết và đồng lòng của những người lính.
Cuối cùng, tình đồng chí được thắt chặt qua sự sẻ chia gian khổ và niềm vui:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Khó khăn, thiếu thốn trong đời sống người lính được thể hiện qua hình ảnh “đêm rét, chăn không đủ đắp”. Nhưng chính sự chia sẻ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm giữa những người đồng đội. Họ trở thành “đôi tri kỷ” - những người bạn tâm giao, thấu hiểu và sẻ chia mọi điều trong cuộc sống. Sáu câu thơ đầu đã giải thích một cách thuyết phục cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí.
Câu thơ cuối cùng được rút gọn: “Đồng chí!” - như một lời khẳng định đầy xúc động. Tất cả những cơ sở trên đã tạo nên tình cảm bền chặt, thiêng liêng giữa những người lính cách mạng.
Với hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng giàu tính biểu tượng, Chính Hữu đã khắc họa thành công cơ sở hình thành tình đồng đội, đồng chí. “Đồng chí” xứng đáng là một bài thơ hay viết về tình cảm cao đẹp của người lính cách mạng.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 12
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác năm 1948 khi Chính Hữu cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bảy câu thơ đầu tiên đã cho thấy cơ sở vững chắc của tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp đều có chung xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, nơi thiên nhiên khắc nghiệt. Dù đến từ nhiều miền đất khác nhau, họ đều chung một hoàn cảnh sống vất vả. Nếu “anh” đến từ vùng “nước mặn đồng chua”, thì “tôi” cũng sinh ra từ làng quê “đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” phản ánh sự khắc nghiệt của thiên nhiên, nơi cuộc sống con người phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Khi Tổ quốc lâm nguy, họ đã từ biệt quê hương, lên đường chiến đấu.
Những người lính gia nhập quân ngũ với quyết tâm giành lại độc lập cho đất nước. Họ vốn là những người xa lạ, nhưng đã trở thành đồng đội của nhau - những con người cùng chung lý tưởng cao đẹp. Hình ảnh “súng bên súng” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu, còn “đầu sát bên đầu” thể hiện sự đồng điệu trong tâm hồn và lý tưởng. Họ không chỉ cùng chung lý tưởng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn chung một tấm lòng yêu nước sâu nặng.
Tình đồng chí còn được hình thành từ những năm tháng cùng nhau trải qua gian khổ, chia sẻ khó khăn nơi chiến trường:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Khó khăn, thiếu thốn trong đời sống người lính được thể hiện qua hình ảnh “đêm rét chung chăn”. Nhưng chính sự chia sẻ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm giữa những người đồng đội. Họ trở thành “đôi tri kỷ” - những người bạn tâm giao, thấu hiểu và sẻ chia mọi điều trong cuộc sống. Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng từng viết:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Qua đó, ta thấy tình đồng chí, đồng đội gắn bó như tình cảm gia đình, thân thiết và đầy yêu thương.
Câu thơ cuối cùng đột ngột ngắn lại, chỉ còn hai chữ: “Đồng chí!”. Đó là tiếng gọi thân thương, xuất phát từ sâu thẳm trái tim người lính. Hai tiếng ấy vang lên đầy trân trọng và tha thiết, như một lời khẳng định về tình cảm thiêng liêng giữa những người đồng đội. Câu thơ cuối giống như một nốt nhạc làm bừng sáng cả đoạn thơ, kết tinh bao tình cảm đẹp đẽ của thời đại: tình giai cấp, tình đồng đội, và tình bạn bè trong chiến tranh.
Qua bảy câu thơ đầu bài thơ “Đồng chí”, người đọc hiểu rõ hơn về cơ sở hình thành tình đồng chí. Từ đó, chúng ta càng thêm tự hào, yêu mến và kính trọng những người lính đã hy sinh để bảo vệ nền hòa bình của đất nước.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 13
“Đồng chí” - hai tiếng gọi thân thương, tha thiết, thể hiện trọn vẹn tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ ấy, Chính Hữu - một nhà thơ chiến sĩ - đã xúc động viết nên bài thơ “Đồng chí”. Với lời thơ chân chất, tràn đầy cảm xúc, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !
Đọc “Đồng chí”, ta nhận thấy người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đều xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu khắc họa chân thực, giản dị mà cao đẹp. Bảy câu thơ đầu được chia thành ba cặp, cuối cùng kết lại bằng một từ: “Đồng chí”. Đó là sự lý giải về cội nguồn của tình đồng chí giữa những người lính.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ đối nhau rất chỉnh:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ giới thiệu quê hương của “anh” và “tôi” - những người lính xuất thân từ nông dân. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỷ niệm về những ngày đầu gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với bao nỗi gian lao, vất vả. Thành ngữ dân gian được tác giả sử dụng một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn, giúp người đọc dễ dàng hình dung về những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng lên đường, gia nhập đoàn quân chiến đấu bảo vệ đất nước. Hai câu thơ với cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh - làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Chính sự tương đồng ấy đã trở thành cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn là những người xa lạ:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, như một lời thăm hỏi chân thành. Họ hiểu nhau, thương nhau, trở thành tri kỷ nhờ tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao động. Nhưng họ về đây không phải vì cái nghèo xô đẩy, mà vì họ có chung một lý tưởng, một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh “anh - tôi” riêng biệt đã mờ nhòa, thay vào đó là sự gắn bó, đồng lòng trong nhiệm vụ và lý tưởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần, nhấn mạnh tình cảm gắn bó giữa những người đồng chí.
Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự sẻ chia gian lao, niềm vui, đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt. Tác giả đã thể hiện điều này qua hình ảnh giản dị mà đầy gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc lạnh giá, chăn thì quá nhỏ, không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy, từ “xa lạ”, họ đã trở thành tri kỷ của nhau. “Tri kỷ” là người bạn thân thiết, hiểu rất rõ về ta. Gian khổ, nguy nan đã gắn kết những người đồng chí, biến họ thành những người bạn tâm giao. Những câu thơ giản dị mà sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính đầy gian khổ. Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa hàm súc ấy. Chính Hữu, từng là một người lính, đã thổi hồn vào câu thơ, khiến chúng bình dị mà đầy sức nặng, tràn đầy tình cảm yêu thương đồng đội.
Từ sâu thẳm trái tim, họ bật lên hai tiếng “đồng chí”. Từ “đồng chí” được đặt thành một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Dấu chấm cảm như một nút nhấn, nhấn mạnh sự thiêng liêng, cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy, khi có cái lõi là “tình tri kỷ”, được thử thách và tôi luyện trong gian khổ, nó mới thực sự vững bền. Không còn “anh”, cũng chẳng còn “tôi”, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỷ và sự gắn bó giữa những con người cùng chung lý tưởng, mục đích chiến đấu. Khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí”, họ không chỉ là những người nông dân nghèo khó, mà đã trở thành anh em trong một cộng đồng với lý tưởng cao cả: vì đất nước, quên thân mình để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn hai chữ nhưng chất chứa bao cảm xúc sâu xa, khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật, ngôn từ của Chính Hữu vô cùng hàm súc.
Với ngôn ngữ thơ cô đọng, hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao, Chính Hữu đã diễn tả quá trình hình thành và phát triển của một tình cảm cách mạng thiêng liêng: tình đồng chí. Đó là tình cảm chân thực, không phô trương, nhưng vô cùng lãng mạn và thi vị. Trong muôn vàn cung bậc tình cảm của con người, có lẽ tình đồng chí là cung bậc cao đẹp nhất, lý tưởng nhất. Chính Hữu đã thổi hồn vào bài thơ, khiến nó trở thành một phần đẹp đẽ nhất trong sự nghiệp thơ ca của ông.
Cảm nhận 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí - Mẫu 14
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về tình đồng đội, đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với cảm nhận tinh tế, Chính Hữu - một nhà thơ, chiến sĩ - đã xúc động sáng tác nên bài thơ. Tình đồng chí, đồng đội sâu nặng, dù trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn, được thể hiện rõ nét nhất qua bảy câu thơ đầu.
Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã khắc họa rõ nét xuất thân của những người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ là những người xuất thân từ nông dân, hình ảnh đó được tác giả miêu tả chân thực, giản dị mà đầy cao đẹp. Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể chuyện, tác giả giới thiệu về quê hương của “anh” và “tôi”. Họ đều là những người con của vùng quê nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc sống quê nhà còn nhiều khó khăn, đói nghèo, nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu. Đó là sự đồng cảnh ngộ, là niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người lính ngày đầu gặp mặt.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ vốn là những người xa lạ. Nhưng họ đã về đây, đứng chung hàng ngũ, cùng chung lý tưởng và mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự sẻ chia những gian khổ của cuộc sống chiến trường. Tác giả đã sử dụng hình ảnh cụ thể, giản dị mà đầy gợi cảm để thể hiện tình cảm gắn bó ấy:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hoàn cảnh chiến đấu nơi rừng Việt Bắc vô cùng khắc nghiệt, đêm trong rừng rét đến thấu xương. Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm. Chính từ hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy, họ đã trở thành tri kỷ của nhau. Những vất vả, khắc nghiệt và nguy nan đã gắn kết họ lại, biến những người đồng chí thành người bạn tâm giao gắn bó. Chính Hữu, từng là một người lính, đã thổi hồn vào câu thơ, khiến chúng tràn đầy tình cảm yêu thương đồng đội.
Câu thơ cuối cùng, chỉ với hai tiếng “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn gọn nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí hướng, cùng mục đích, mà hơn hết, đó là tình tri kỷ được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn. Không còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở thành một khối thống nhất, đoàn kết và gắn bó.
Chỉ với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao để thể hiện tình đồng chí chân thực, không phô trương nhưng vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỷ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn người lính cũng như con người Việt Nam.
Viết đoạn văn nêu cảm nhận về 7 câu thơ đầu Đồng chí
“Đồng chí” là một trong những bài thơ đặc sắc của Chính Hữu khi viết về người chiến sĩ. Bảy câu thơ đầu đã khắc họa rõ nét hoàn cảnh xuất thân và chiến đấu của người lính Cụ Hồ. Họ là những người đến từ những miền quê nghèo khó, lam lũ, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Cùng chung cảnh ngộ khó khăn, họ nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, gặp gỡ nhau nơi chiến trường ác liệt. Tại đó, họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” để nhấn mạnh sự gắn bó khăng khít giữa những người lính trong chiến đấu. Những đêm lạnh giá, chỉ với tấm chăn mỏng, họ cùng nhau “đắp chung chăn” để sẻ chia hơi ấm. Giữa chiến trường mưa bom bão đạn, luôn đối mặt với tử thần, tình đồng chí chính là điểm tựa tinh thần để họ vững vàng cầm chắc tay súng. Hai tiếng “Đồng chí” vang lên ngắn gọn nhưng như một lời khẳng định về tình nghĩa keo sơn, không gì có thể lay chuyển. Chỉ với bảy câu thơ đầu, Chính Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính Cụ Hồ với tình đồng đội, đồng chí gắn bó, thiêng liêng.
**Lời khuyên dành cho học sinh:** Để cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ “Đồng chí”, các em nên đọc kỹ từng câu thơ, phân tích các biện pháp tu từ và hình ảnh được sử dụng. Hãy liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của thời kỳ kháng chiến để hiểu rõ hơn về tình đồng chí, đồng đội. Khi viết bài, các em nên sắp xếp ý tưởng logic, sử dụng từ ngữ phong phú và đừng quên đưa ra những cảm nhận cá nhân để bài viết thêm sinh động và sâu sắc.
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt tác phẩm Trái Đất - nguồn cội của sự sống (3 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu lớp 6
- Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ 4, 5 bài Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải (Kèm sơ đồ tư duy) - 4 Dàn ý & 11 bài văn mẫu xuất sắc
- Kể lại một kỷ niệm sâu sắc về tình bạn - 5 dàn ý chi tiết và 35 bài văn mẫu lớp 5 đặc sắc
- Luyện từ và câu: Khám phá sâu hơn về dấu ngoặc kép - Bài 19 Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức Tập 2
- Soạn bài Nguyệt cầm - Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn 11 trang 60 sách Chân trời sáng tạo tập 2