Văn mẫu lớp 7: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Tuyển tập 4 bài văn mẫu hay nhất
EduTOPS mang đến Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng, một tài liệu tham khảo hữu ích dành cho học sinh.

Dưới đây là 4 bài văn mẫu chất lượng, hy vọng sẽ là nguồn tài liệu quý giá giúp các em học sinh lớp 7 khám phá sâu sắc hơn về hai tác phẩm văn học này.
Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 1
Bác Hồ, một người có tình yêu thiên nhiên sâu sắc, dù bận rộn với công việc cách mạng, vẫn dành thời gian để hòa mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên. Hai bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng giêng đều được viết trong những đêm trăng đẹp tại chiến khu Việt Bắc, thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên của Bác.
Trong thơ của Bác, ánh trăng luôn là người bạn đồng hành, từ những ngày bị giam cầm ở Trung Quốc đến những năm tháng hoạt động ở Việt Bắc. Trong cả hai bài thơ, ánh trăng xuất hiện với những nét đẹp riêng biệt. Trong Cảnh khuya, trăng không xuất hiện ngay từ đầu, mà là âm thanh của tiếng suối mở đầu bài thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Câu thơ sử dụng nghệ thuật so sánh, ví tiếng suối như tiếng hát của con người, thể hiện sự gần gũi giữa thiên nhiên và con người. Âm thanh trong trẻo của tiếng suối làm không gian trở nên sống động và tràn đầy sức sống.
Sau tiếng suối là hình ảnh ánh trăng hòa quyện với thiên nhiên: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Ánh trăng chiếu qua những tán cây cổ thụ, tạo nên những bóng hoa lung linh trên mặt đất. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh này cũng thể hiện sự hài hòa tuyệt diệu của thiên nhiên.
Trong bài Rằm tháng giêng, ánh trăng lại mang một vẻ đẹp khác. Mở đầu bài thơ là khung cảnh tràn ngập ánh trăng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, tràn ngập ánh sáng của trăng. Sự lặp lại của chữ “xuân” nhấn mạnh vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân. Trong khung cảnh đó, hình ảnh Bác hiện lên với phong thái ung dung, lạc quan, vừa lo cho đất nước vừa thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.
Cả hai bài thơ đều sử dụng hình ảnh thơ đẹp, nghệ thuật so sánh và điệp ngữ tài tình. Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc, nhịp điệu khỏe khoắn, thể hiện tâm hồn nghệ sĩ của Bác.
Qua hai bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng giêng, ta thấy được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác Hồ. Những vần thơ giản dị mà hàm súc đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của Việt Bắc, đồng thời thể hiện phong thái ung dung và tâm hồn lạc quan của Người.
Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, không chỉ mang trong mình tình yêu đất nước và đồng bào mà còn dành trọn trái tim cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong số những tác phẩm thơ ca của Người, hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” là những bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ, thể hiện tâm hồn nghệ sĩ tinh tế của Bác.
Hai bài thơ đều được viết trong bối cảnh Bác đang đối mặt với muôn vàn lo toan cho sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, giữa những nỗi lo ấy, Người vẫn giữ được tinh thần lạc quan, yêu đời, và cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Trong “Cảnh khuya”, thiên nhiên hiện lên sống động, bình dị mà đầy huyền ảo. Bằng nghệ thuật so sánh tài tình, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đầy ấn tượng ngay từ khổ thơ đầu:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Giữa không gian tĩnh lặng, con người và thiên nhiên hòa quyện làm một. Bác đã lắng nghe tiếng suối chảy róc rách, vang vọng như tiếng hát ngọt ngào, trong trẻo từ xa vọng lại. Cách so sánh này không chỉ làm sống động tiếng suối mà còn khiến cảnh rừng đêm trở nên ấm áp, gần gũi hơn với con người. Đêm khuya nơi chiến khu bỗng trở nên thân thương, mang hơi thở của sự sống.
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Cảnh vật dưới ánh trăng hiện lên thật nên thơ. Ánh trăng chiếu qua những tán cây cổ thụ, in bóng xuống mặt đất như những đóa hoa lung linh. Câu thơ vẽ nên một bức tranh đa tầng, đa sắc, nơi ánh sáng và bóng tối hòa quyện tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, sống động. Điệp từ “lồng” được sử dụng tài tình, tạo nên âm hưởng ngọt ngào, quyến rũ.
Nhà thơ như đang trò chuyện với thiên nhiên, và thiên nhiên cũng như thấu hiểu tâm sự của Người. Trong khung cảnh đêm thanh bình ấy, hình ảnh Bác “chưa ngủ” hiện lên thật đẹp. Người không ngủ vì lo cho nước nhà, nhưng cũng chính trong khoảnh khắc ấy, Người đã tìm thấy sự đồng điệu với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên. Nếu “Cảnh khuya” là bức tranh đêm với hai gam màu trắng - đen, thì “Rằm tháng giêng” lại là khung cảnh trăng vàng lồng lộng giữa dòng sông xuân mênh mang:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Bài thơ được Xuân Thủy dịch là:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Với bút pháp tả cảnh tài tình, Bác đã khắc họa vẻ đẹp của đêm trăng rằm xuân. Vầng trăng tròn vành vạnh, tỏa sáng khắp bầu trời cao rộng, trong trẻo. Dòng sông xuân, nước xuân và bầu trời xuân hòa quyện làm một, tạo nên một khung cảnh tràn đầy sức sống. Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần, mang đến cảm giác thanh bình, thảnh thơi và tràn đầy niềm vui.
Trong thơ Bác, hình ảnh con người luôn hòa quyện với thiên nhiên. Trong “Nguyên tiêu”, hình ảnh người chiến sĩ cách mạng hiện lên qua con thuyền nhỏ, nơi những người đồng chí cùng nhau bàn bạc việc quân:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Dù tả cảnh, bài thơ vẫn thể hiện rõ tâm trạng của con người. Thái độ lạc quan, yêu đời của Bác thật đáng khâm phục. Giữa nơi sâu thẳm, khói sóng mịt mù, Người vẫn đắm say trước vẻ đẹp của vầng trăng viên mãn. Cái thực và cái ảo đan xen, tạo nên chất lãng mạn, trữ tình trong thơ Bác. Sau những giờ phút bàn việc quân, con thuyền trở về, tràn ngập ánh trăng, như một biểu tượng của sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Hai bài thơ của Bác đều viết về trăng tại chiến khu Việt Bắc, nhưng mỗi bài lại mang một vẻ đẹp riêng biệt. Trong “Cảnh khuya”, ánh trăng được nhân hóa, lồng bóng qua những tán cổ thụ, tạo nên những “hoa trăng” lung linh trên mặt đất. Khung cảnh hiện lên sống động dưới ánh trăng, cùng với tiếng suối trong trẻo như tiếng hát ngân nga, khiến đêm khuya thêm phần mơ mộng. Trong khi đó, trăng trong “Rằm tháng giêng” là trăng xuân, mang hương vị và không khí của mùa xuân. Cảnh trăng trên sông, với con thuyền nhỏ chìm trong sương khói, đặc biệt là ánh trăng chan hòa, tràn ngập cả con thuyền, tạo nên một khung cảnh đẹp đẽ và đầy thi vị.
Tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác thể hiện qua hai bài thơ thật đáng ngưỡng mộ. Dù phía trước còn nhiều khó khăn, gian khổ, và bao nỗi trăn trở chưa tìm được lời giải, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Điều này không chỉ thể hiện sự quyết tâm vượt qua mọi thử thách mà còn khẳng định tinh thần chiến đấu kiên cường, quyết thắng kẻ thù của Người.
Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 3
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo tài ba, một nhà chính trị lỗi lạc mà còn là một nhà văn, nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Trong thời gian hoạt động ở Pác Bó, Bác đã sáng tác hai bài thơ về trăng đặc sắc: “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”, thể hiện tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nghệ sĩ của Người.
Cả hai bài thơ đều lấy cảm hứng từ ánh trăng, nhưng mỗi bài lại mang một sắc thái riêng biệt, tạo nên nét độc đáo riêng. Trong “Cảnh khuya”, bức tranh thiên nhiên được Bác khắc họa bằng những nét vẽ sinh động, cụ thể, mang đến một khung cảnh đa sắc màu và đầy sức hấp dẫn.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Trong câu thơ này, Bác đã so sánh tiếng suối với “tiếng hát xa”, một âm thanh dịu nhẹ, êm ái. Với tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ, Người đã cảm nhận được sự tinh tế của tiếng suối, như một giai điệu ngân vang trong đêm tĩnh lặng. “Tiếng hát xa” gợi lên sự mơ hồ, xa vời, nhưng cũng đầy quyến rũ, khiến người nghe phải lắng lòng để cảm nhận.
Tiếng suối trong đêm khuya không ồn ào mà nhẹ nhàng, róc rách, như một bản nhạc du dương. Nếu không gian không đủ yên tĩnh, người nghe khó có thể cảm nhận được. Nhưng một khi đã lắng nghe, tiếng suối sẽ trở thành một giai điệu da diết, khó quên, vương vấn mãi trong tâm trí.
Trong không gian tĩnh lặng, tiếng suối du dương tác động sâu sắc đến tâm hồn thi sĩ. Bác không chỉ cảm nhận bằng thính giác mà còn bằng thị giác, qua hình ảnh ánh trăng: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Ánh trăng chiếu qua những tán cây cổ thụ, in bóng xuống mặt đất như những đóa hoa lung linh. Sự hòa quyện giữa trăng, bóng cây và hoa tạo nên một khung cảnh đẹp đẽ, huyền ảo.
Từ ba hình ảnh tưởng chừng không liên quan, Bác đã tạo nên sự hòa hợp tuyệt diệu, đan xen giữa ánh trăng, bóng cây và hoa. Trong khi đó, bài thơ “Rằm tháng Giêng” lại mang đến một cảm nhận khác về ánh trăng:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Ánh trăng trong bài thơ này là ánh trăng của đêm Rằm mùa xuân, mang vẻ đẹp thơ mộng, gợi cảm. Từ “lồng lộng” gợi lên không gian bao la, rộng lớn của bầu trời đêm. Ánh trăng soi chiếu xuống dòng sông xuân, làm cho cảnh vật trở nên lung linh, đầy sức sống.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Trong một câu thơ, Bác đã sử dụng ba từ “xuân”, làm cho sắc xuân tràn ngập khắp không gian. Sông xuân, nước xuân và bầu trời xuân hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống và tươi mới.
Nếu trong “Cảnh khuya”, sự hòa hợp giữa trăng, bóng cây và hoa tạo nên khung cảnh thi vị, thì trong “Rằm tháng Giêng”, sự kết hợp giữa trăng, nước và bầu trời lại mang đến một vẻ đẹp mênh mông, rộng lớn. Ánh trăng trong bài thơ này không chỉ làm đẹp cảnh vật mà còn thổi hồn vào không gian, khiến mùa xuân trở nên rực rỡ hơn.
Có thể thấy, Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều tác phẩm về ánh trăng, nhưng mỗi bài thơ đều mang một vẻ đẹp riêng, không hề trùng lặp. Điều này thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận và tài năng sáng tạo không ngừng của Bác, khiến người đọc luôn bất ngờ và say mê trước những vần thơ đầy chất thi vị.
Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 4
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là một nhà thơ, nhà văn tài ba của dân tộc. Những tác phẩm của Người không chỉ chứa đựng tình yêu quê hương đất nước mà còn khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên một cách tinh tế, sâu sắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”.
Cả hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Việt Bắc dưới ánh trăng, nhưng mỗi bài lại mang một nét độc đáo riêng. Trước hết, trong “Cảnh khuya”, Bác đã vẽ nên một bức tranh đêm khuya thơ mộng:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Đêm xuống, ánh trăng càng trở nên rực rỡ, lan tỏa khắp không gian. Trong sự tĩnh lặng của núi rừng, tiếng suối chảy róc rách vang lên như tiếng hát xa, dịu êm và sâu lắng. Bác đã sử dụng nghệ thuật “lấy động tả tĩnh” để khắc họa âm thanh của tiếng suối, tạo nên một không gian vừa yên bình vừa sống động. Không chỉ dừng lại ở đó, ánh trăng trong đêm khuya cũng được Bác miêu tả một cách tinh tế:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng)
Trong “Cảnh khuya”, ánh trăng được Bác miêu tả qua câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, mang đến hai cách hiểu thú vị. Cách thứ nhất, ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua những tán cây cổ thụ, làm nổi bật những bông hoa rừng. Cách thứ hai, ánh trăng phản chiếu qua tán cây, tạo ra những bóng hoa lung linh trên mặt đất. Dù hiểu theo cách nào, ánh trăng cũng trở thành người bạn tri kỷ của Bác, đồng hành cùng Người trong những đêm khuya thanh vắng. Bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên vừa thơ mộng, vừa hoang sơ, đầy quyến rũ.
Trong khi đó, “Rằm tháng giêng” lại mang đến một khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống của mùa xuân:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Đêm rằm tháng giêng là thời điểm trăng tròn và đẹp nhất. Ánh trăng tỏa sáng khắp không gian, làm cho mọi vật đều nhuốm màu huyền ảo. Bác đã khéo léo sử dụng hình ảnh ánh trăng để tạo nên một bức tranh thiên nhiên sống động:
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bác đã sử dụng biện pháp điệp ngữ, lặp lại từ “xuân” ba lần để nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Từ “tiếp” gợi lên sự giao hòa giữa trời và đất, tạo nên một không gian rộng lớn, tràn ngập ánh trăng. Sự kết hợp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” không chỉ mở rộng không gian mà còn làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên trong đêm trăng rằm.
Cả hai bài thơ đều mang đậm phong cách sáng tác độc đáo của Bác. Thông qua những bức tranh thiên nhiên sống động, Hồ Chí Minh đã gửi gắm tâm tư về sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của một thi sĩ - chiến sĩ.
- Hướng dẫn Soạn bài Bắt nạt - Ngữ văn lớp 6 trang 27 sách Kết nối tri thức tập 1 chi tiết và sáng tạo
- Đọc hiểu: Bác sĩ của nhân dân - Bài học trong sách Tiếng Việt 4 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Phân tích nhân vật Anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa (Kèm sơ đồ tư duy) - 6 dàn ý chi tiết & 23 bài văn mẫu xuất sắc
- Soạn bài Con chào mào - Ngữ văn lớp 6 trang 75 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Soạn bài Thực hành đọc: Chiều sông Thương - Ngữ văn 7 Kết nối tri thức, trang 56, tập 1