Văn mẫu lớp 7: Phân tích cảm xúc và tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang (4 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu lớp 7
Tác phẩm Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan sẽ được khám phá sâu sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 7, mang đến những góc nhìn mới mẻ về cảm xúc và tâm trạng của tác giả.

Dưới đây, EduTOPS xin giới thiệu Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang. Các bạn học sinh có thể tham khảo ngay để nâng cao kỹ năng viết văn của mình.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 1
Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa sâu sắc nỗi nhớ quê hương và tình yêu đất nước qua những vần thơ đầy cảm xúc.
Đèo Ngang là điểm dừng chân đầu tiên trên hành trình vào Nam nhận nhiệm vụ. Xa cách quê hương, gia đình, lòng nữ sĩ không khỏi bồi hồi, xao xuyến. Tín hiệu nghệ thuật đầu tiên mà người đọc nhận ra là hình ảnh “bóng xế tà”. Mặt trời dần lặn, hoàng hôn buông xuống, vũ trụ chìm vào sự tĩnh lặng, chỉ còn lại những tia nắng yếu ớt cuối ngày. Từ “tà” gợi lên sự tàn lụi, biến mất. Buổi chiều, đặc biệt là “chiều tà”, càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhung da diết. Đây chính là khoảnh khắc thích hợp để bộc lộ tâm trạng đầy khắc khoải của nữ sĩ.
Trong tâm trạng buồn bã, từ xa xa dưới chân đèo hiện lên hình ảnh:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
Nơi đèo Ngang thưa thớt bóng người. Những bác tiều phu lom khom đốn củi, vài ngôi nhà chợ đơn sơ. Nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng tài tình, gợi lên sự so sánh với cuộc sống tẻ nhạt, tiêu điều. Khung cảnh này hoàn toàn trái ngược với sự náo nhiệt của chốn kinh kỳ. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng Đèo Ngang chỉ mang đến cho bà nỗi thất vọng. Hai câu thơ đối nhau chỉnh chu, tạo nên bức tranh tiêu điều của cuộc sống nơi đây.
Trong không gian tĩnh lặng, từ xa vọng lại tiếng kêu đều đều, man mác của chim quốc, chim gia gia. Tương truyền, sau khi vua Thục Lưu Bị thất trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và qua đời tại đó. Sau khi mất, Thục Đế hóa thành chim quốc, thể hiện nỗi đau mất nước. Tiếng chim kêu trong buổi chiều tà gợi nhớ những câu thơ:
“Đây bốn bề núi núi
Hiu hắt vắng tăm người
Đèo cao và lưng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi”
Tiếng chim quốc, gia gia phải chăng là tiếng lòng của nữ sĩ, hay là nghệ thuật ẩn dụ để diễn tả nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn bà? Đến đây, tâm trạng của thi nhân hòa cùng nỗi niềm của vua Thục, khát khao níu giữ những ký ức vàng son. Tiếng chim gợi lên nỗi nhớ nước thương nhà, khiến lòng người xao xuyến. Phải chăng, đó cũng là nỗi hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng gắn bó? Thái độ của nữ sĩ là sự phủ nhận hiện tại, tìm về quá khứ. Như Nguyễn Du từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, điều này hoàn toàn phù hợp với tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan lúc này.
Một mình đối diện với không gian mênh mông, với cuộc sống và với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm không thể chia sẻ. “Một mảnh tình riêng” giữa một khối tình rộng lớn, chỉ có thể tự nói với chính mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây không chỉ là tâm sự của tác giả mà còn là nỗi lòng của những người đau xót trước sự đổi thay của thời cuộc, của những thế hệ từng sống với quá khứ và đau đáu với hiện tại.
Nhiều nhà thơ đã mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ Bà Huyện Thanh Quan là người thành công nhất. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói là bà đã chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để diễn tả tâm sự của mình. Bài thơ chứa đựng trọn vẹn tâm hồn, tình cảm và nỗi lòng của tác giả. Lời thơ xúc động, khiến người đọc cũng bồi hồi, day dứt.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 2
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng nhất của thế kỷ XVIII. Bài thơ Qua Đèo Ngang là một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện tài năng và tâm hồn sâu sắc của bà.
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thường viết về thiên nhiên, đặc biệt là vào khoảnh khắc chiều tà, gợi lên cảm giác trầm lắng, buồn man mác. Cảnh vật trong thơ bà tựa như những bức tranh thủy mặc, được diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ, tả cảnh để gửi gắm nỗi nhớ thương da diết về một thời vàng son đã qua.
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Khi nhà thơ đặt chân đến đèo Ngang cũng là lúc chiều tà buông xuống. Hình ảnh “bóng xế tà” không chỉ gợi ra không gian đất trời khi mặt trời dần lặn, mà còn khắc họa nhịp điệu chậm rãi, lặng lẽ của những đám mây trên bầu trời. Không gian hiện lên vừa hoang vắng, vừa ẩn chứa nỗi cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Câu thơ tiếp theo, “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, với phép điệp từ “chen”, đã gợi lên sự rậm rạp, đông đúc của cỏ cây, đồng thời làm nổi bật vẻ hoang sơ, tự nhiên của núi rừng.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Từ láy “lom khom” gợi lên dáng vẻ mệt nhọc của những người tiều phu trở về nhà trong buổi chiều tà, trong khi “lác đác” lại diễn tả sự thưa thớt, trống vắng của không gian sống. Dù có sự xuất hiện của con người, bức tranh thơ vẫn không mất đi vẻ u buồn, tịch mịch. Cuộc sống nơi đây hiện lên thật tiêu điều, thê lương với những ngôi nhà chợ thưa thớt, lẻ loi.
Tầm nhìn của nhà thơ được mở rộng, nhưng càng làm sâu sắc thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một người xa quê:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Thời điểm chiều tà, với không gian vắng vẻ, thường gợi lên nỗi nhớ quê hương, đặc biệt là với những người xa xứ. Đây là lúc mọi người sum họp bên gia đình, còn Bà Huyện Thanh Quan lại một mình nơi đất khách. Tiếng chim quốc, chim gia gia như khắc sâu thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Đó là tình cảm chân thành, tha thiết của một người con xa quê, mang theo nỗi buồn khó nguôi ngoai.
Cảnh đèo Ngang hiện lên với “trời, non, nước”, gợi ra một không gian mênh mông, bao la nhưng xa lạ:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Trước không gian rộng lớn của đất trời, con người thường cảm nhận được sự nhỏ bé và cô đơn của mình. Bà Huyện Thanh Quan cũng vậy, khi xa quê hương, bà không tránh khỏi nỗi cô đơn nơi đất khách. “Dừng chân” gợi lên sự nghỉ ngơi của đôi chân, nhưng cũng mở ra những xúc cảm mãnh liệt trong tâm hồn thi sĩ. Trong không gian mênh mông ấy, bà chỉ còn biết ôm ấp “một mảnh tình riêng” cho riêng mình.
Như vậy, bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa sâu sắc nỗi buồn và nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy không chỉ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, mà còn phản ánh tình cảnh cô đơn, lẻ loi của bà trong không gian hoang vắng, rợn ngợp của đất trời.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 3
Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa tâm trạng của nhà thơ khi đối diện với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng đượm buồn nơi đèo Ngang:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
Chỉ khi thấu hiểu và yêu mến bài thơ, ta mới cảm nhận được tài năng và tấm lòng luôn hướng về quê hương, đất nước và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan. Ai dám nói rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có những tình cảm thiêng liêng ấy?
Chỉ qua hai câu đầu, ta đã cảm nhận ngay một nỗi buồn xa vắng, man mác.
Cụm từ “bóng xế tà” cùng với điệp từ “chen” và cách gieo vần lưng “lá, đá” đã tạo nên không gian cô đơn, tĩnh lặng. Từ “tà” như gợi lên sự tàn lụi, biến mất. Yếu tố thời gian càng làm tăng thêm nỗi buồn. Ca dao cũng từng viết:
“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau”
Qua đó, ta thấy rằng những tình cảm cao quý của con người dường như gặp nhau ở một điểm chung: thời gian. Và khoảnh khắc chiều tà chính là thời điểm thích hợp nhất để bộc lộ nỗi nhớ nhung khắc khoải. Trong bài thơ Qua Đèo Ngang, tác giả đã bộc lộ cảm xúc man mác khi đứng trước khung cảnh hoàng hôn bao phủ đèo Hoành Sơn. Cảnh vật vốn đã buồn lại càng trở nên trống vắng hơn bởi điệp từ “chen” trong câu thơ thứ hai. Điều này khiến người đọc cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, dù nơi đây vẫn đẹp với cỏ cây, đá, lá và hoa. Vì quá vắng vẻ, nhà thơ đã hướng tầm mắt đi xa hơn để tìm kiếm một chút sự sống. Và từ xa, hình ảnh hiện lên:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
Câu thơ gợi lên hình ảnh những người tiều phu đang lom khom đốn củi dưới ánh hoàng hôn lạnh lẽo, cùng vài ngôi nhà chợ thưa thớt bên sông. Nghệ thuật đảo ngữ đưa hai từ láy “lom khom, lác đác” lên đầu câu đã nhấn mạnh thêm sự u hoài, trống trải. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng sự sống ấy lại khiến cảnh vật càng trở nên héo hắt, buồn bã. Sự đối lập giữa hai câu thơ càng làm nổi bật sự thưa thớt, rời rạc của cảnh vật. Từ “vài, mấy” càng khắc sâu thêm sự vắng vẻ nơi đây. Trong không gian hiu quạnh ấy, bỗng vang lên tiếng kêu đều đều, man mác của chim quốc quốc, chim gia gia trong ánh chiều tà.
Từ ghép “đau lòng, mỏi miệng” khiến người đọc cảm nhận được nỗi niềm tha thiết, ray rứt. Sự song hành về ý và lời trong hai câu thơ phần luận đã nhấn mạnh tình cảm của Bà Huyện Thanh Quan đối với quê hương, gia đình. Điều này được thể hiện một cách khéo léo và tài tình. Từ hiện thực xã hội đương thời đến cảnh vật đèo Ngang đã khiến tác giả chợt nhớ về mình và bộc bạch tâm sự:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Câu kết của bài thơ khiến ta cảm nhận được tâm sự u hoài của nhà thơ về quá khứ. Dừng chân lại, bà chỉ thấy “trời, non, nước” và một mình đối diện với không gian mênh mông, hoang vu của đèo Ngang.
Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ, ghi dấu tài năng và tấm lòng yêu nước, thương nhà của một nữ sĩ tài hoa.
Phân tích tâm trạng của tác giả trong Qua Đèo Ngang - Mẫu 4
Một trong những tác phẩm xuất sắc của Bà Huyện Thanh Quan là bài thơ Qua Đèo Ngang. Tác phẩm không chỉ khắc họa nỗi nhớ quê hương mà còn thể hiện tình yêu sâu sắc của tác giả dành cho đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng việc gợi mở về thời gian, không gian và điểm nhìn. Cụm từ “bước tới” gợi lên sự ngạc nhiên khi tác giả tiếp cận con đèo. Thời gian “bóng xế tà” gợi lên khoảnh khắc ngày tàn, màn đêm dần buông xuống. Đứng trước đèo Ngang với khung cảnh hoang vu, xa lạ, những cảm xúc trong lòng tác giả trào dâng. Âm bằng của từ “tà” tạo nên giai điệu buồn man mác, trở thành điểm nhấn của ý thơ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Trong không gian và thời gian ấy, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đèo Ngang. Điệp từ “chen”, kết hợp với vần lưng “đá - lá” và vần chân “tà - hoa”, đã tạo nên nhạc điệu du dương, réo rắt. Cảnh đèo hiện lên vừa hoang vu, vừa mang chút cằn cỗi.
Giữa bức tranh thiên nhiên ấy, con người xuất hiện như một chấm buồn nhỏ bé, lặng lẽ:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Hình ảnh này càng làm tăng thêm cảm giác lạnh lẽo, cô đơn trong tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan.
Nhà thơ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ, kết hợp với cảm hứng đầy thi vị và sáng tạo.
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Tiếng chim cuốc, chim gia gia vang lên trong buổi chiều tà, gợi lên nỗi nhớ nước thương nhà da diết. Hai câu thơ đối nhau hài hòa, thể hiện tình cảm sâu nặng của tác giả đối với quê hương.
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Càng nhớ quê hương, nhà thơ càng cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Hai chữ “đứng lại” diễn tả tư thế và tâm trạng xúc động, bồi hồi. Cụm từ “ta với ta” kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong sự tương phản với “trời, non, nước”, đã làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn của con người trước không gian bao la. Điều này gợi lên một nỗi trống vắng khó tả.
Như vậy, bài thơ Qua Đèo Ngang đã diễn tả thành công tình cảm sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, đất nước.
- Văn mẫu lớp 7: Phân tích đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng qua 9 đoạn văn mẫu
- Khám phá bí quyết viết bài văn kể chuyện - Tiếng Việt 4 Kết nối tri thức, Tập 1, Bài 12
- Bài đọc: Tiếng nói của cỏ cây - Sách Tiếng Việt lớp 4 tập 1 Kết nối tri thức, Bài 10
- 35 Đề Ôn Luyện Tiếng Việt 4 - Sách Kết Nối Tri Thức Với Cuộc Sống: Bộ Đề Ôn Tập Đầy Đủ Kèm Đáp Án Chi Tiết
- Luyện từ và câu: Rèn luyện kỹ năng sử dụng động từ - Tiếng Việt 4 Kết nối tri thức - Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức tập 1 Bài 11