Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà qua sơ đồ tư duy, dàn ý chi tiết và 26 bài văn mẫu đặc sắc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lái đò, một tài liệu học tập quý giá được EduTOPS biên soạn, mang đến những góc nhìn sâu sắc và đa chiều.

Nội dung bao gồm dàn ý chi tiết và 26 bài văn mẫu xuất sắc, được trình bày một cách khoa học và dễ hiểu. Bạn đọc có thể tham khảo ngay những phân tích sâu sắc được chia sẻ dưới đây.
Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà
I. Mở bài
- Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa và uyên bác, luôn đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, sau cách mạng, ông phát hiện vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. 'Người lái đò sông Đà' là một tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau cách mạng của ông.
- Ông lái đò được ví như 'chất vàng mười' đã qua thử lửa, một người anh hùng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể liên hệ với hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng, như Huấn Cao trong 'Chữ người tử tù'.
II. Thân bài
- Công việc của ông lái đò là chinh phục dòng sông Đà hung dữ, hàng ngày đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt.
- Về lai lịch, tác giả không đề cập nhiều đến xuất thân mà tập trung miêu tả ngoại hình để ca ngợi những con người vô danh nhưng đầy cống hiến: 'tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun', thể hiện vẻ ngoài khỏe khoắn của người lao động gắn bó với nghề.
- Ông là người dũng cảm, yêu nghề: 'giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái'.
- Có thể liên hệ hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng, để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
- Công việc: lái đò trên sông Đà, hàng ngày đối mặt với con thủy quái hung bạo.
- Ông là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: 'trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần', 'nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước', 'sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ... xuống dòng', ...
- Ông là người mưu trí, dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
- Ung dung đối đầu với thác dữ 'nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...' để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
- Ông lái đò 'không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông 'nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước', động tác điêu luyện 'cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...'
- Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng 'con thủy quái' là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
III. Kết bài
- Hình tượng ông lái đò hiện lên như một biểu tượng của người lao động Tây Bắc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông không chỉ mang trong mình phẩm chất anh hùng mà còn toát lên vẻ tài hoa nghệ sĩ, tựa như 'chất vàng mười' đã được tôi luyện qua thử thách.
- 'Người lái đò sông Đà' là một tác phẩm tùy bút xuất sắc, khắc họa chân thực vẻ đẹp vừa dữ dội vừa thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, nổi bật lên hình ảnh của những con người lao động bình dị nhưng đầy sức sống.
Sơ đồ tư duy hình tượng người lái đò sông Đà: Hành trình chinh phục thiên nhiên và con người

Phân tích hình tượng người lái đò ngắn gọn
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một kiệt tác văn học, khắc họa hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến chinh phục thiên nhiên hung dữ. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc qua cảnh vượt thác đầy kịch tính.
Ông lái đò, một người lao động bình dị nhưng mang vẻ đẹp phi thường. Ngoại hình ông được miêu tả với những nét đặc trưng: thân hình rắn chắc như tượng đá, ngực đầy những vết sẹo - “huân chương lao động siêu hạng” theo cách gọi của Nguyễn Tuân. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh, ánh mắt cao vời vợi, giọng nói ồ ồ như tiếng thác đổ.”
Ông không chỉ là người lao động bình thường mà còn là một nghệ sĩ tài hoa. Điều này được thể hiện rõ qua cảnh vượt thác. Trùng vi thạch trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh” hiện lên như một trận địa đầy thách thức. Nước và đá phối hợp reo hò, những hòn đá bệ vệ, oai phong, thách thức thuyền phải xưng danh trước khi giao chiến. Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ sống động: reo hò, bệ vệ, oai phong, hất hàm, thách thức… để tạo nên không khí căng thẳng, kịch tính. Sông Đà không chỉ đánh bằng sức mạnh mà còn dùng nghệ thuật tâm lý chiến, khiêu khích bằng âm thanh “giọng gằn mà chế nhạo”. Những đòn thế hiểm hóc của sông Đà được miêu tả qua hàng loạt động từ: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội… khiến người đọc không khỏi rùng mình.
Dù bị tấn công bất ngờ, ông lái đò vẫn giữ vững bình tĩnh. Ông dùng chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức, “hai tay giữ chặt mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Sông Đà tiếp tục dùng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa thuyền”. Đòn hiểm nhất là khi “luồng nước bóp chặt hạ bộ người lái đò”. Mắt ông hoa lên, tưởng như “đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đau đớn khiến mặt ông “méo bệch”, nhưng ông vẫn nén đau, giọng điệu tỉnh táo, chỉ huy sáu tay chèo vượt qua cửa tử vào cửa sinh.
Trùng vi thứ hai, sông Đà tăng cường “tập đoàn cửa tử” và bố trí cửa sinh lệch sang hữu ngạn. Khó khăn hơn trùng vi trước, nhưng ông đò không nao núng. Với kinh nghiệm dày dạn, ông “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, tự nhủ “cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ”. Ông đánh nhanh thắng nhanh, “nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, lái miết”. Sông Đà cố níu thuyền vào cửa tử, nhưng ông đò “tránh né, đè sấn, chặt đôi” để mở đường. Hàng loạt động từ: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, đè, chặt… khắc họa sự mưu trí và tài năng của ông. Kết thúc trận chiến, đá thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Trùng vi cuối cùng, sông Đà dùng thế “trên đe dưới búa” khiến ông đò rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”. Nhưng ông đã biến thuyền thành “mũi tên”, phóng thẳng vào cửa giữa. “Thuyền vút qua cửa đá, cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong cùng.” Thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, tự động lái lượn. Hàng loạt động từ: phóng, chọc thủng, xuyên qua, lái, lượn… khắc họa sự thần tốc và tài năng phi thường của ông đò.
Tóm lại, hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa qua cảnh vượt thác đầy kịch tính, toát lên vẻ đẹp tài hoa, trí dũng song toàn.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 1
Tố Hữu đã từng viết:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng, hàng loạt thanh niên tình nguyện lên đường đến những vùng xa xôi của Tổ quốc, đặc biệt là Tây Bắc, để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh. Những con người mới của thời đại đã mang theo tiếng hát và niềm tin đến miền đất hứa. Văn học, với tư cách là thư ký trung thành của thời đại, đã phản ánh chân thực cuộc sống ấy. Nếu Nguyễn Khải có "Mùa lạc", Nguyễn Huy Tưởng có "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có "Tiếng hát con tàu", thì Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn với tập tùy bút "Sông Đà", sáng tác trong giai đoạn 1958-1960. Trong đó, "Người lái đò sông Đà" là linh hồn của tập tùy bút, được coi là một kiệt tác văn học, khắc họa hình tượng người lao động mới trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình, nhưng đó chỉ là nền cảnh để làm nổi bật lên hình tượng ông lái đò Lai Châu - đại diện tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Ông lái đò không chỉ làm chủ thiên nhiên mà còn làm chủ cuộc đời mình, thể hiện tinh thần lạc quan và bản lĩnh kiên cường. Nguyễn Tuân, dưới ánh sáng của Đảng, đã khắc họa nhân vật này với sự trân trọng và ngưỡng mộ.
Nguyễn Tuân, một nhà văn duy mỹ, luôn tìm kiếm cái đẹp trong mọi thứ. Nhân vật của ông, dù làm nghề gì, cũng đều là những nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò Lai Châu cũng không ngoại lệ. Dù đã ngoài bảy mươi, ông vẫn làm chủ dòng sông Đà hung dữ, vượt qua những thác ghềnh hiểm trở với sự điêu luyện của một nghệ sĩ. Ông không chỉ là người lao động bình thường mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trên sông nước.
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã chuyển từ cái "Tôi" cô đơn sang cái "Ta" của cộng đồng. Ông tìm thấy vẻ đẹp anh hùng trong những con người bình dị, như ông lái đò Lai Châu. Nhân vật này không có tên tuổi cụ thể, nhưng chính sự bình dị ấy lại làm nên sự vĩ đại. Như Tố Hữu đã viết:
"Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên"
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân thường viết về những nhân vật kỳ vĩ, như Huấn Cao trong "Chữ người tử tù". Sau cách mạng, ông hướng ngòi bút vào những con người bình thường nhưng anh hùng. Ông lái đò Lai Châu là một điển hình, một người lao động vô danh nhưng lại làm nên lịch sử. Như Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Tập tùy bút "Sông Đà" được sáng tác trong giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm thấy hình ảnh con người mới trong những người lao động bình dị như ông lái đò Lai Châu. Họ là những bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa, góp phần làm nên diện mạo mới của đất nước.
Ông lái đò Lai Châu là một nhân vật khuyết danh, không phải là điển hình văn học theo nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, ông lại có vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Mười năm gắn bó với sông nước, đối mặt với những hiểm nguy, ông đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và tài hoa.
Nguyễn Tuân đã khắc họa ông lái đò với những nét riêng biệt: tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh, đôi mắt luôn hướng về phía xa xăm. Dù đã ngoài bảy mươi, ông vẫn tràn đầy sức sống, với khuôn mặt "he hé nửa miệng cười". Đó là hình ảnh của một con người làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời mình.
Nguyễn Tuân còn đi sâu vào khắc họa tính cách của ông lái đò. Sông Đà, với sự hung bạo và trữ tình, là nơi thử thách và tôn vinh tài năng của ông. Như Nguyễn Quang Bích đã viết:
"Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Sự độc đáo của Đà giang đã tạo nên sự hung bạo của nó. Để chinh phục được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có tính cách phi thường như "chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ". Ông chỉ thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn "thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông cũng đã từng tâm sự "Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và rất dễ buồn ngủ." Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh, ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường. Nhìn rộng ra, đây là sự hóa thân của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ông không thích những gì là bình thường, là quen nhàm bởi "cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật". Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị trí của mình trên tao đàn bằng những đề tài khá gai góc để bộc lộ sở trường, phong cách của một người nghệ sĩ đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đóng đanh trong một chữ "ngông".
Bên cạnh đó, ông đò Lai Châu còn là một người có trí nhớ rất tuyệt vời. Trí nhớ của ông chẳng khác nào cuốn thủy văn sông Đà. Ông nhờ đến tường tận như đóng đanh vào trong lòng từng con thác. Tuy bỏ nghề đã đôi chục năm nay nhưng khi Nguyễn Tuân đi khảo sát dòng sông, ông vẫn kể vanh vách năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ tính cách qui luật của từng con thác dữ, của từng tướng đá nơi đây từ cách bày binh bố trận của nó. Đây không chỉ là biểu hiện trí nhớ đơn thuần của một con người mà nó còn là biểu hiện của lòng yêu nghề, coi "nghề" như "nghiệp". Ông gắn bó với nghề nghiệp của mình như con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời. Nhìn rộng ra, đây cũng là biểu hiện phong cách của Nguyễn Tuân. Ông cả đời chăm chỉ cần mẫn như con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn của con ong, nhụy hoa không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định, nếu coi ông lái đò thuộc những con thác ở Đà giang như người nghệ sĩ thuộc tác phẩm của mình, coi con sông Đà là một thiên anh hùng ca của thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, khác thường, nên họa, nên thơ thì ông đò Lai Châu thuộc bản anh hùng ca ấy đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, có tính cách phi thường, ông đò còn là một con người rất khỏe mạnh. Ngày nào lái thuyền trên dòng sông Đà, ông luôn phải tập trung cao độ, người luôn phải dựng đứng. Ông phải luôn mắt, luôn chân, luôn tay, luôn gân và cả luôn tim. Chỉ cần khinh suất một chút là cả người và thuyền sẽ bị lật úp dưới dòng sông Đà mà như có lần Nguyễn Tuân đã mô tả: "Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới." Thế nhưng ông đò Lai Châu vẫn chiến thắng những đoạn sông hung bạo vì ông là một người trí dũng. Gặp những cái hút nước, người khác phải run tay thì ông lại bơi dẻo tay chèo, nắm chặt lấy bờ sóng để phóng qua. Cũng đã có những lúc thuyền của ông đò bị sóng nước ùa vào bẻ gãy cán chèo, tóm lấy thắt lưng, dùng đòn tỉa, đòn âm làm ông đuối sức, mắt hoa lên, nhìn cửa sông ngỡ là cửa biển, cả một rừng đom đóm ùa xuống châm lửa xuống đầu sóng... Mặc dù vậy, ông đò vẫn không hề buông tay, tiếng chỉ huy tay chèo vẫn vô cùng ngắn gọn và đầy tỉnh táo vì ông là một người trí dũng hơn người.
Ngoài ra, ông đò Lai Châu còn là một con người rất khéo léo. Lái thuyền trên dòng sông Đà thực sự là một nghệ thuật. Ông đò Lai Châu vốn là một nghệ sĩ trên sông nước vậy nên tất cả những nhịp chèo của ông khi thì khoan thai, khi thì mạnh khỏe, dứt khoát. Ông nhớ rất rõ từng con thác, từng tướng đá và biết rất rõ lúc lui lúc tiến vô cùng nhịp nhàng. Có những tướng đá ông tránh ra để giảm tay chèo, nhưng có những con thác ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến. Nhiều lúc thuyền của ông đò như một cái tên tre xuyên qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Sau khi vượt qua ba trùng vi thạch trận, thuyền của người nghệ sĩ lái thuyền trên dòng sông Đà ấy lại trôi vào một quãng sông lặng tờ, yên ả, nhịp chèo trở nên khoan thai như thuyền tôi trôi trên sông Đà. Rồi cứ thế, qua cái quãng sông đầy nên thơ, người nghệ sĩ lúc này ngồi thản nhiên như để ung dung ngắm cảnh ở nơi đây. Tối đến, nhà đò lại neo đậu trong một cái hang lạnh thổi lửa nướng cơm lam và kể về việc nhà cửa, về cách làm ăn, kể về những loài cá quý hiếm chỉ có ở sông Đà. Tuyệt nhiên Nguyễn Tuân không thấy những con người nơi đây kể về chiến công của mình sau một trận vượt thác. Đó là bởi đức tính anh hùng là một phần cố hữu trong tâm hồn của người lái đò nơi đây, trở thành một phần bản chất của người dân Tây Bắc. Đứng trước đức tính khiêm nhường của người Tây Bắc, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân co cụm lại, câu văn trở nên đầy tế nhị, không phô trương, kéo dài, ngồn ngộn ngôn ngữ như ở những đoạn văn trên nữa. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám mà thôi.
Như vậy rõ ràng, thông qua "Người lái đò sông Đà", với khoảng vài trang sách, vài trang tùy bút, Nguyễn Tuân đã dựng lên trước mắt chúng ta một bức chân dung của người nghệ sĩ lái đò. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa, những con người sống rất âm thầm, giản dị, sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nhưng nói một cách khách quan, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa chuộng, nhất là những bài tùy bút bởi Nguyễn Tuân hay viết những câu văn rất dài cùng những tư liệu khá khô khan, khó hiểu. Bài kí "Người lái đò sông Đà" cũng không tránh khỏi những tì vết kể trên. Tuy nhiên, với bức chân dung của ông đò Lai Châu cùng tất cả những gì Nguyễn Tuân đã cống hiến trên thi đàn văn chương, Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ."
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 2
Với "Sông Đà", Nguyễn Tuân đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên và con người Tây Bắc đầy chất thơ. Trong đó, "Người lái đò Sông Đà" nổi bật như một đóa hoa lan tỏa hương sắc giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng chính - con sông Đà và người lái đò - được tác giả miêu tả một cách sống động, hài hòa, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ.
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", Nguyễn Tuân đã dành hơn 20 năm để đi tìm kiếm "vàng mười" ẩn sâu trong tâm hồn con người. Qua "Người lái đò Sông Đà", độc giả càng thấm thía hơn phong cách nghệ thuật độc đáo của ông: khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Điều này được thể hiện rõ nét qua hình tượng ông lái đò - một người lao động bình dị nhưng mang vẻ đẹp phi thường.
Nhân vật trong văn chương Nguyễn Tuân luôn toát lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Từ cụ Kép trong "Hương Cuội" với tình yêu hoa thơm cỏ quý, đến cụ Ấm trong "Chén trà sương" với phong thái triết nhân, hay Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" với tài viết chữ như rồng bay phượng múa. Và giờ đây, ông lái đò sông Đà hiện lên với "tay lái ra hoa", một nghệ sĩ thực thụ trên sông nước.
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên như một người lao động bình dị mà phi thường, mang cốt cách của một nghệ sĩ tài ba. Ông đã vượt qua bao trùng vây thạch trận, đối mặt với "lũ đá nơi ải nước" một cách dũng cảm và điêu luyện.
Với hơn mười năm chèo đò, ông lái đò đã thuộc lòng từng con thác, từng ghềnh đá trên sông Đà. Ở tuổi 70, thân hình ông vẫn rắn chắc như tượng đá cẩm thạch, nước da ánh lên màu sừng mun. Cặp mắt tinh anh, nhìn xa vời vợi. Trên ngực ông in hằn những vết sẹo - "huân chương lao động siêu hạng" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ.
Vẻ đẹp tài hoa của ông lái đò thể hiện qua bản lĩnh và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác là một cuộc chiến đầy cam go. Ở trùng vây thứ nhất, ông bình tĩnh đối mặt với những hòn đá "bệ vệ oai phong", giữ chắc mái chèo trước những đòn tấn công dữ dội của sóng thác. Dù bị thương, ông vẫn kiên cường chỉ huy con thuyền vượt qua hiểm nguy.
Trùng vây thứ hai càng hiểm trở hơn với nhiều cửa tử. Ông lái đò nhanh trí nắm chặt bờm sóng, điều khiển con thuyền phóng nhanh vào cửa sinh. Những tướng đá hung dữ bị ông đè sấn, chặt đôi để mở đường. Kẻ thù thất bại với bộ mặt "tiu nghỉu, xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba, ông lái đò mưu trí phóng thẳng con thuyền, chọc thủng trùng vây và vút qua cổng đá. Chiếc thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, kết thúc cuộc chiến đầy kịch tính. Qua đó, ông hiện lên như một vị danh tướng trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng.
Cảnh vượt thác là một bản anh hùng ca hào hùng. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, và cả quân sự để tạo nên một bức tranh sống động, đầy ấn tượng.
Vẻ đẹp tài hoa của ông lái đò còn thể hiện trong những khoảnh khắc bình yên. Sau cuộc chiến, ông và đồng đội nghỉ ngơi trong hang đá, nướng cơm lam và kể chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh. Những câu chuyện đời thường ấy phản ánh một tâm hồn gắn bó với sông nước, vừa dung dị vừa tài hoa.
"Người lái đò Sông Đà" là một kiệt tác nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên và con người, nhìn sự vật qua lăng kính văn hóa nghệ thuật. Ông lái đò hiện lên như một biểu tượng của lao động và sự sống, một vẻ đẹp Tây Bắc được khắc họa sống động trên nền sông nước Đà Giang.
Trên dòng sông Đà mênh mang, giữa những trùng vây thạch trận dữ dội, hình ảnh ông lái đò và con thuyền 6 tay chèo hiện lên như một bài ca về sức mạnh và nghị lực con người. Ông lái đò không chỉ là người chèo đò mà còn là một nghệ sĩ, một người anh hùng thầm lặng của Tây Bắc.
Qua "Người lái đò Sông Đà", Nguyễn Tuân đã khẳng định tài năng và phong cách độc đáo của mình. Ông không chỉ là nhà văn của cái đẹp mà còn là người nghệ sĩ luôn tìm kiếm và tôn vinh vẻ đẹp trong cuộc sống. Hình tượng ông lái đò mãi mãi là một biểu tượng đẹp đẽ, một nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương Việt Nam.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 3
Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác văn học, thể hiện tài năng xuất chúng của Nguyễn Tuân và sự am hiểu sâu sắc của ông về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Tác phẩm không chỉ ca ngợi sự kiên cường của con người trong cuộc chiến chinh phục thiên nhiên mà còn khắc họa vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà.
Bên cạnh hình ảnh con sông Đà hung bạo với địa hình hiểm trở và dòng nước chảy xiết, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh người lái đò - một con người nhỏ bé nhưng kiên cường, làm chủ công việc của mình. Ông lái đò, một lão ông ngoài bảy mươi tuổi, không được miêu tả khuôn mặt nhưng lại hiện lên qua dáng vẻ đậm chất lao động: cánh tay rắn chắc như trai trẻ, “tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cuống lái tưởng tượng”, cùng đôi mắt tinh anh nhìn xa vời vợi. Với hơn mười năm gắn bó với nghề, ông đã vượt sông Đà hơn một trăm lần, thuộc lòng từng con thác, từng luồng nước, như thể “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.
Trùng vi thạch trận thứ nhất mở ra với sự hung dữ của dòng sông. Sóng nước cuồn cuộn, đá sông bày trận đánh vào mạn thuyền, bẻ gãy cán chèo, đâm thẳng vào bụng và hông thuyền. Dòng nước như một đô vật khổng lồ, túm lấy ông lái đò, cố vật ngã người chỉ huy. Dù bị thương, ông vẫn kiên cường nén đau, hai chân kẹp chặt cuống lái, giữ vững tinh thần tỉnh táo để đưa con thuyền vượt qua hiểm nguy.
Trùng vi thạch trận thứ hai càng hiểm trở hơn với nhiều cửa tử. Sông Đà thay đổi thế trận, bố trí cửa sinh lệch sang tả ngạn, đầy bí ẩn và nguy hiểm. Nhưng với kinh nghiệm dày dạn, ông lái đò như một kỵ sĩ cưỡi trên lưng hổ, nắm chặt bờm sóng, điều khiển con thuyền lách vào cửa sinh. Ông hiểu rõ quy luật phục kích của đá, thuộc lòng binh pháp của dòng sông, khiến kẻ thù không kịp trở tay.
Trùng vi thạch trận cuối cùng là thử thách khốc liệt nhất. Cửa sinh duy nhất nằm giữa trung tâm con thác, bao quanh là cửa tử. Với sự quyết đoán và kinh nghiệm, ông lái đò chỉ huy con thuyền lao thẳng vào giữa cửa thác. “Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Đây là đỉnh điểm của cuộc chiến, nơi con người chứng tỏ sự làm chủ thiên nhiên.
Hình ảnh người lái đò hiện lên như một biểu tượng của sự kiên cường và tài ba. Dù thiên nhiên hung dữ, con người vẫn làm chủ, vẫn chiến thắng. Ông lái đò không có tên, đại diện cho bao người lao động thầm lặng, ngày ngày đối mặt với hiểm nguy. Những vết hằn thời gian trên cơ thể ông là minh chứng cho sự cống hiến không mệt mỏi.
Nguyễn Tuân đã tái hiện một bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Qua kiến thức địa lý, lịch sử và trải nghiệm thực tế, ông đã mang đến cho người đọc một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và nhân văn.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 4
Nhà văn Nga Tolstoi từng nói: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Tình yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người chính là động lực thúc đẩy người nghệ sĩ tìm kiếm "chất vàng mười" trong văn chương. Qua tùy bút "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu sâu sắc của mình đối với những người lao động và thiên nhiên đất nước. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc từ năm 1958 đến 1960, nơi vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được khắc họa một cách chân thực và sống động.
Nguyễn Tuân không ngẫu nhiên đặt tên tác phẩm là "Người lái đò sông Đà". Song song với hình tượng con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình là hình ảnh người lái đò kiên cường, dũng cảm, đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt. Nhà văn miêu tả sự hùng vĩ của dòng sông để tôn vinh vẻ đẹp con người - một bản anh hùng ca của Tây Bắc. Nguyễn Tuân nhận xét: "Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một". Qua cuộc chiến ấy, ông lái đò bộc lộ tài năng và kinh nghiệm dày dạn sau mười năm gắn bó với sông Đà. Ông đã xuôi ngược trên dòng sông hơn trăm lần, trong đó có hơn sáu mươi lần cầm lái. Những con số này là minh chứng cho sự am hiểu và kỹ năng điêu luyện của ông.
Ở tuổi bảy mươi, hình ảnh ông lái đò hiện lên với vẻ ngoài đầy phong sương, in hằn dấu vết của sông nước. Tay ông "lêu nghêu như cái sào", chân khuỳnh ra như kẹp lấy cuống lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ, và đôi mắt tinh anh nhìn xa vời vợi. Thân hình ông như một pho tượng đá cẩm thạch, nước da ánh lên màu sừng mun, phản chiếu nắng mưa, sương gió của Tây Bắc. Trên ngực ông là những "củ nâu" - vết tích của những trận chiến với sông Đà, mà Nguyễn Tuân gọi là "huân chương lao động siêu hạng".
Nguyễn Minh Châu từng nói: "Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người". Nguyễn Tuân, với tình yêu cái đẹp, luôn tìm kiếm những giá trị ẩn sâu trong tâm hồn người lao động. Ông lái đò sông Đà là minh chứng cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Trong tác phẩm, hình tượng sông Đà và người lái đò được miêu tả bằng bút lực tài hoa, kết hợp kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hội họa, lịch sử, địa lý. Ông lái đò hiểu sông Đà như thuộc lòng một bản trường ca, từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than. Ông nắm vững "binh pháp của thần sông, thần đá", thuộc lòng quy luật phục kích của lũ đá. Ông không phải thần thánh, mà là một người lao động bình thường, nhưng với trí dũng song toàn, ông đã chiến thắng thiên nhiên hung dữ.
Trong cuộc chiến không cân sức, ông lái đò như một chiến binh cưỡi ngựa, vung gươm phá vòng vây quân thù. Mặt trận của ông là mênh mông sóng nước, nơi đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh tuyệt đối. Nguyễn Tuân gọi những thử thách mà ông lái đò phải vượt qua là "trùng vi thạch trận", một cách gọi đầy tính nghệ thuật và quân sự.
Ở trùng vi thứ nhất, sự dũng cảm của ông lái đò được thể hiện rõ nét. Dù thiên nhiên hung dữ, ông vẫn kiên cường đối mặt, khiến thiên nhiên phải kinh ngạc. Sự quyết tâm của ông đã làm nên chiến thắng.
Cảnh hỗn chiến diễn ra ác liệt. Những hòn đá "bệ vệ oai phong" được nước thác "reo hò làm thanh viện", tấn công dữ dội vào con thuyền. Sông Đà tung ra những đòn hiểm, nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ chắc mái chèo, vượt qua cửa tử vào cửa sinh. Dù bị thương, ông vẫn kiên cường, không để con thuyền bị lật.
Trùng vi thứ hai càng hiểm trở hơn, với nhiều cửa tử và cửa sinh được bố trí lệch sang bờ hữu ngạn. Nhưng ông lái đò, với kinh nghiệm dày dạn, đã nắm chắc quy luật phục kích của đá. Ông ví việc lái đò như "cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng", nắm chắc bờm sóng và phóng nhanh vào cửa sinh. Những tảng đá định lôi con thuyền vào cửa tử đều bị ông đè sấn, chặt đôi để mở đường.
Trùng vi thứ ba là thử thách cuối cùng, với ít cửa hơn nhưng cửa tử bao quanh cửa sinh. Ông lái đò mạnh dạn phóng thẳng thuyền vào giữa cửa thác, "thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Vượt qua ba trùng vi thạch trận, ông đã chứng tỏ sự làm chủ thiên nhiên.
Qua cảnh vượt thác, hình ảnh người lái đò hiện lên như một người anh hùng, chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Ông là biểu tượng của sức mạnh và vẻ đẹp con người trước thiên nhiên hùng vĩ.
Sau những giờ lao động vất vả, ông lái đò tìm thấy niềm vui trong những câu chuyện về cá dầm xanh, cá anh vũ, hay việc nướng cơm lam trong hang đá. Những khoảnh khắc bình yên ấy phản ánh một tâm hồn lãng mạn, đậm chất thơ.
Khi gác mái chèo, ông lái đò không còn là vị tướng chỉ huy, mà trở thành một người anh hùng trong cuộc sống đời thường. Ông xem mọi chuyện nhẹ nhàng như mây trôi, một phẩm chất đáng quý của người lao động thời kỳ xây dựng đất nước.
Nguyễn Tuân là người đầu tiên kể chính xác năm mươi con thác dữ trên sông Đà, từ ngã ba biên giới Việt - Trung đến chợ Bờ. Tác phẩm của ông là một đóng góp lớn cho văn học Việt Nam, khẳng định vẻ đẹp của Tây Bắc và con người nơi đây. Qua đó, ông gửi gắm ước mơ về một Tây Bắc phát triển, nơi sông Đà từ thủy quái trở thành người bạn đồng hành của con người.
Vẻ đẹp tài hoa của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa qua những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, tạo nên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là một bản anh hùng ca, một bức tranh hoành tráng về người dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi tài năng, tâm huyết và trí tuệ uyên bác của Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo, không chỉ so với chính mình mà còn so với người khác. Đọc "Người lái đò sông Đà", ta nhận thấy sự đổi mới trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân. Từ nhân vật Huấn Cao đến người lái đò sông Đà, không chỉ thấy được những nét phong cách đặc trưng được bảo tồn mà còn thấy rõ sự chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn giữ được sự thống nhất trong phong cách, nhưng nếu trước đây ông hướng đến vẻ đẹp "Vang bóng một thời", thì sau Cách mạng, ngòi bút của ông hướng về con người lao động. Ông không còn tìm kiếm vẻ đẹp ở những nhân vật xa vời mà khám phá vẻ đẹp trong chính những con người bình dị, trong cuộc sống thường nhật. Đây chính là bước chuyển mình lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Những con người lao động ấy đã góp phần xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài tử, đam mê cái đẹp cao sang và thích chơi ngông. Sau Cách mạng, ông trở nên nhạy cảm hơn với con người mới và cuộc sống mới từ góc độ lao động. Ông nhìn nhận cái đẹp của con người gắn liền với nhân dân lao động, với cuộc sống sôi động đang hình thành. Theo ông, vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ không chỉ bộc lộ trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn hiện hữu trong mọi khía cạnh của đời sống. Khi con người đạt đến sự điêu luyện trong công việc, vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 5
Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng. Trước năm 1945, ông nổi tiếng với các tác phẩm như "Vang bóng một thời", "Một chuyến đi". Sau năm 1945, ông chuyển sang thể loại tùy bút với các tác phẩm tiêu biểu như "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", "Tùy bút Sông Đà". "Người lái đò sông Đà" là tác phẩm trích từ tập "Tùy bút Sông Đà", được viết sau chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm không chỉ khắc họa hình ảnh con sông Đà "hung bạo, trữ tình" mà còn làm nổi bật hình tượng người lái đò kiên cường, tài hoa trên dòng thác dữ.
Nhân vật trong văn chương Nguyễn Tuân luôn toát lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Từ cụ Kép trong "Hương Cuội" với tình yêu hoa thơm cỏ quý, đến cụ Ấm trong "Chén trà sương" với phong thái triết nhân, hay Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" với tài viết chữ như rồng bay phượng múa. Và giờ đây, ông lái đò sông Đà hiện lên với "tay lái ra hoa", một nghệ sĩ thực thụ trên sông nước.
Trên dòng sông Đà hung dữ, giữa những thác ghềnh hiểm trở, hình ảnh ông lái đò hiện lên như một bức tượng đá cẩm thạch. Ở tuổi bảy mươi, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông vẫn rắn chắc, nước da ánh lên màu sừng mun. Cánh tay ông "lêu nghêu như cái sào", chân khuỳnh ra như kẹp lấy cuống lái tưởng tượng.
Đôi mắt ông tinh anh, nhìn xa vời vợi. Trên ngực ông là những vết sẹo - "huân chương lao động siêu hạng" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ. Ông lái đò đã vượt qua bao trùng vây thạch trận, đối mặt với "lũ đá nơi ải nước". Với hơn mười năm chèo đò, ông thuộc lòng từng con thác, từng ghềnh đá, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá.
Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn liền với lao động sông nước, ông lái đò còn toát lên vẻ đẹp tâm hồn và tính cách đáng quý.
Thứ nhất, ông là người từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà. Trí nhớ của ông được rèn luyện qua hàng trăm lần vượt thác, thuộc lòng từng con thác, từng luồng nước. Sông Đà đối với ông như một bản trường ca mà ông đã thuộc đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Ông nắm vững binh pháp của thần sông, thần đá, hiểu rõ quy luật phục kích của lũ đá. Đó là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước.
Thứ hai, ông là người thông minh, linh hoạt, dũng cảm như một vị tướng tài ba, một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác. Cuộc sống của ông là cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên hung dữ. Vẻ đẹp tài hoa của ông được thể hiện qua cảnh vượt thác đầy kịch tính, nơi ông bộc lộ bản lĩnh và tinh thần dũng cảm phi thường.
Ở trùng vi thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế quyết thắng. Những hòn đá "bệ vệ oai phong" được nước thác "reo hò làm thanh viện", tấn công dữ dội vào con thuyền. Dù bị thương, ông vẫn bình tĩnh giữ chắc mái chèo, vượt qua cửa tử vào cửa sinh.
Trùng vi thứ hai càng hiểm trở hơn, với nhiều cửa tử và cửa sinh được bố trí lệch sang bờ hữu ngạn. Nhưng ông lái đò, với kinh nghiệm dày dạn, đã nắm chắc quy luật phục kích của đá. Ông ví việc lái đò như "cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng", nắm chắc bờm sóng và phóng nhanh vào cửa sinh. Những tảng đá định lôi con thuyền vào cửa tử đều bị ông đè sấn, chặt đôi để mở đường.
Trùng vi thứ ba là thử thách cuối cùng, với ít cửa hơn nhưng cửa tử bao quanh cửa sinh. Ông lái đò mạnh dạn phóng thẳng thuyền vào giữa cửa thác, "thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Vượt qua ba trùng vi thạch trận, ông đã chứng tỏ sự làm chủ thiên nhiên.
Qua cảnh vượt thác, hình ảnh ông lái đò hiện lên như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Nguyễn Tuân đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa để khắc họa vẻ đẹp tài hoa của ông lái đò. Cảnh vượt thác là một bản anh hùng ca hào hùng.
Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực như hội họa, điện ảnh, âm nhạc, và cả quân sự để tạo nên một bức tranh sống động, đầy ấn tượng. Cuộc chiến giữa ông lái đò và dòng sông tưởng chừng không cân sức, nhưng cuối cùng, phần thắng thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm.
Thứ ba, ông lái đò còn toát lên vẻ đẹp của sự khiêm nhường, bình dị, mang phong thái ung dung của một nghệ sĩ.
Đối với ông lái đò, hiểm nguy trên sông Đà chỉ là một phần của cuộc sống. Sau khi vượt thác, ông và đồng đội ngồi lại trong hang đá, nướng cơm lam, kể chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh. Không ai nhắc đến cuộc chiến vừa qua, bởi với họ, đó là chuyện thường ngày.
Nhà văn dường như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đối mặt với thiên nhiên hung dữ. Qua giọng văn nhẹ nhàng, ta cảm nhận được vẻ đẹp khiêm nhường, bình dị và ung dung của người lái đò. Đối với ông, việc "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác" đã trở thành chuyện thường ngày, không còn gì đáng để hồi hộp hay ghi nhớ. Cái phi thường đã hòa vào cuộc sống bình thường, phẩm chất chiến sĩ kết hợp hài hòa với phong thái tài tử, nghệ sĩ.
Có thể nói, người lái đò sông Đà được khắc họa vừa mang dáng dấp của một người lao động trí dũng, vừa toát lên phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng này thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng Tám: ngay cả những người lao động bình dị cũng hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ. Để miêu tả vẻ đẹp ấy, nhà văn đã vận dụng kiến thức đa ngành, cùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và sinh động.
Qua hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân bày tỏ lòng yêu mến, tự hào và ngưỡng mộ trước những con người lao động bình dị của vùng Tây Bắc - những "chất vàng mười" quý giá của Tổ quốc. Ông khẳng định rằng chủ nghĩa anh hùng không cần tìm kiếm đâu xa, mà nó hiện hữu ngay trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày của nhân dân. Những con người bình dị ấy, với trí dũng và tài năng, đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ thuật.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 6
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà (1960), là một tác phẩm xuất sắc. Tác giả coi mình như người đi tìm “vàng mười” – vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đặc biệt, ông nhấn mạnh “vàng mười” trong tâm hồn những người gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương. Hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, vừa là anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài ba trong nghề nghiệp.
Sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, người lái đò coi dòng sông như máu thịt của mình. Sông Đà không chỉ là quê hương mà còn là một phần tâm hồn, thấm sâu vào trái tim và khối óc của ông. Sự gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận về dòng sông đã làm nên một con người đặc biệt.
Khi Nguyễn Tuân gặp gỡ người lái đò, ông đã ở tuổi 70 – tuổi xế chiều của cuộc đời. Dù đã nghỉ nghề hàng chục năm, nhưng ngoại hình của ông vẫn cường tráng, khỏe mạnh như một thanh niên. Thân hình quắc thước, da sạm màu sừng mun, tay dài như sào, chân luôn khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cuống lái. Giọng nói ào ào như tiếng nước chảy, đôi mắt luôn hướng về phía xa xăm. Những vết sẹo trên vai là minh chứng cho hàng chục năm vật lộn với sóng nước, được Nguyễn Tuân ví như “huân chương siêu hạng”.
Chỉ bằng vài nét phác họa, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình ảnh người lái đò – một con người gắn bó máu thịt với sông nước. Ông là hiện thân của sự kiên cường, dũng cảm, suốt đời chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại và xây dựng quê hương. Qua đó, nhà văn không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn ca ngợi tình yêu nghề, sự gắn bó với công việc của người lái đò.
Người lái đò không chỉ là người từng trải mà còn là linh hồn của sông nước. Với hơn mười năm kinh nghiệm, ông đã xuôi ngược sông Đà hàng trăm lần, tự tay lái qua sáu chục chuyến. Sự hung bạo của dòng sông với thác ghềnh, sóng dữ, đá ngầm đã trở thành thử thách lớn trong cuộc đời ông.
Sự am hiểu của người lái đò về sông Đà được thể hiện qua việc ông thuộc lòng từng con thác, từng luồng nước. Dòng sông như một bản trường ca anh hùng mà ông nắm rõ từng câu chữ, dấu chấm, dấu phẩy. Nguyễn Tuân đã khéo léo miêu tả sự gắn bó kỳ lạ của ông với nghề, như thể ông được sinh ra từ chính những con sóng và ngọn thác hung dữ của sông Đà.
Người lái đò không chỉ là một con người bình thường mà còn là một vị thần sông nước, am tường binh pháp của thần sông, thần đá. Ông mưu trí, dũng cảm vượt qua mọi thử thách để tồn tại và lao động. Hình ảnh ông hiện lên như một vị thần Thủy Tinh trong thần thoại, nhưng không có phép tiên, chỉ có sự kiên cường và trí tuệ của người lao động bình dị.
Để chế ngự sông Đà, người lái đò cần lòng dũng cảm, sự nhanh nhẹn, mưu trí và quyết đoán. Nguyễn Tuân đặt nhân vật vào những tình huống khốc liệt, nơi mọi phẩm chất được thử thách đến giới hạn. Cuộc chiến giữa người lái đò và dòng sông được miêu tả như một trận đánh sinh tử, nơi mỗi sai lầm đều phải trả giá bằng mạng sống.
Vẻ đẹp trí dũng của người lái đò được thể hiện rõ nhất trong cuộc đối đầu với đám đá bày binh bố trận trên sông. Những hòn đá với đủ hình thù kỳ dị, hung tợn, như những kẻ thù nham hiểm luôn rình rập tấn công. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ sống động để miêu tả sự hung dữ của thiên nhiên, qua đó làm nổi bật sự kiên cường của người lái đò.
Thạch trận đá trên sông Đà được miêu tả như một trận địa chiến đấu, nơi mỗi hòn đá có nhiệm vụ riêng. Sông Đà đã bày ra một trận đồ bát quái, với đá tiền vệ, hậu vệ, và những đòn đánh hiểm hóc. Nhưng người lái đò, với kinh nghiệm và trí tuệ, đã vượt qua mọi thử thách, chứng tỏ sự dũng cảm và tài năng của mình.
Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt động từ mạnh để diễn tả sự hung dữ của sông Đà, nhưng càng hung dữ, càng tôn lên vẻ đẹp của người lái đò. Ông hiện lên như một anh hùng kiên cường, đầy hiên ngang, tìm sự sống giữa dòng sông chết. Đó là nghệ thuật “vẽ mây nảy trăng”, lấy bóng tối để làm nổi bật ánh sáng.
Trong thạch trận đá, người lái đò hai tay giữ chặt mái chèo, đối mặt với sóng dữ và đá ngầm. Sóng nước như muốn bẻ gãy cán chèo, nhưng ông vẫn bình tĩnh, mưu trí, lái con thuyền vượt qua mọi hiểm nguy. Dù bị thương, ông vẫn kiên cường, không nao núng, chứng tỏ sự dẻo dai và trí tuệ của một người chỉ huy tài ba.
Không có thời gian nghỉ ngơi, người lái đò tiếp tục vượt qua vòng vây thứ hai. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, biết rõ cửa sinh và cửa tử. Nguyễn Tuân miêu tả ông như một kỵ sĩ cưỡi trên lưng hổ, đối mặt với thác dữ. Sự nhanh nhẹn, linh hoạt và quyết đoán của ông đã giúp con thuyền vượt qua mọi hiểm nguy.
Đến vòng vây thứ ba, người lái đò hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa. Ông không chỉ vượt thác mà còn làm chủ dòng sông, lái con thuyền như một mũi tên xuyên qua hơi nước. Nguyễn Tuân miêu tả cảnh tượng như một cuộc chiến của thần tiên, nơi người lái đò trở thành một vị tiên ông với phép lạ. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa nghệ thuật và sự dũng cảm.
Nổi bật và độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà chính là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, khái niệm nghệ sĩ không bó hẹp ở những người làm thơ, viết văn mà còn bao gồm cả những người làm nghề tưởng chừng xa lạ với nghệ thuật. Nếu công việc của họ đạt đến độ tinh xảo và phi thường, họ xứng đáng được gọi là nghệ sĩ. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng người lái đò như một nghệ sĩ thực thụ, mà ông trân trọng gọi là “tay lái ra hoa”. Nghệ thuật ở đây chính là việc nắm vững quy luật của dòng sông Đà và làm chủ nó, từ đó đạt được sự tự do trong hành động.
Tuy nhiên, quy luật trên sông Đà vô cùng khắc nghiệt. Chỉ cần một chút thiếu bình tĩnh, sai sót nhỏ, hoặc hành động quá đà, người lái đò có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Ngay cả những khúc sông không có thác cũng tiềm ẩn nguy hiểm, dễ khiến người ta buồn ngủ và mất cảnh giác. Ông lão lái đò không chỉ thuộc lòng dòng sông mà còn nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Trong trận chiến với thiên nhiên, ông hiện lên như một vị chỉ huy tài ba, khôn khéo và bình tĩnh. Mọi giác quan của ông đều hoạt động nhịp nhàng, chính xác. Sau khi vượt thác, ông lại trở về với vẻ ung dung, thanh thản, như chưa từng trải qua cuộc chiến sinh tử. Đêm xuống, ông cùng bạn bè quây quần bên bếp lửa, nướng cơm lam và kể chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh. Không ai nhắc đến chiến thắng vừa qua, bởi với họ, đó chỉ là một phần của cuộc sống thường ngày. Như những nghệ sĩ chân chính, họ không cần tán dương bản thân. Nguyễn Tuân đã nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay thác dữ, nên chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ…”. Phải chăng, người lái đò anh hùng thì dễ thấy, nhưng người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mới khắc họa được.
Trong trang văn của Nguyễn Tuân, nhân vật luôn được miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ông chỉ tập trung vào lớp nhà nho xưa cũ, thì sau cách mạng, ông đã tìm thấy vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị của người lao động. Người lái đò, dù vô danh, không tên tuổi, lại trở thành nhân vật chính của một thiên anh hùng ca, một kiệt tác nghệ thuật. Thiên nhiên sông Đà, dù được miêu tả là “kẻ thù số một” của con người, nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, nó cũng chính là nơi tôn vinh giá trị lao động và sự kiên cường của con người.
................Xem chi tiết tại file tải........
- Tập làm văn lớp 5: Tả cảnh buổi sáng mùa xuân trên quê hương - Dàn ý chi tiết và 11 bài văn mẫu xuất sắc
- Nói và nghe: Trao đổi về việc đọc sách báo - Bài 16, Tiếng Việt lớp 4, sách Cánh diều tập 2
- Xúy Vân giả dại: Lý do đằng sau hành động và cách biện hộ cho sự lựa chọn của nàng. Soạn bài Xúy Vân giả dại - Kết nối tri thức 10
- Văn mẫu lớp 7: Tuyển tập 26 mở bài ấn tượng cho bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh - Phân tích sâu sắc và cảm nhận tinh tế
- Giải thích câu tục ngữ Một cây làm chẳng nên non: 2 Dàn ý chi tiết và 17 bài văn mẫu lớp 7 đặc sắc nhất