Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (Kèm sơ đồ tư duy) - 4 dàn ý chi tiết & 12 bài văn mẫu xuất sắc
Bài thơ Nói với con của Y Phương ra đời năm 1980, trong bối cảnh đất nước vừa thống nhất nhưng còn đối mặt với muôn vàn thử thách. 12 bài phân tích ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em thấu hiểu sâu sắc hơn tình cha con thiêng liêng, nghĩa nặng tình sâu.

Bài thơ Nói với con không chỉ khắc họa tình cảm gia đình ấm áp mà còn ngợi ca truyền thống lao động cần cù và sức sống mãnh liệt của quê hương. Qua đó, tác phẩm giúp chúng ta thêm trân trọng gia đình và nguồn cội. Mời các em cùng khám phá bài viết chi tiết từ EduTOPS:
Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương
- Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nói với con
- Dàn ý phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (4 mẫu)
- Phân tích Nói với con ngắn gọn
- Phân tích Nói với con hay nhất
- Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương (10 mẫu)
- Nhận định hay về bài thơ Nói với con
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương

Dàn ý phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương
1. Mở bài
- Sơ lược về tác giả và phong cách sáng tác.
- Giới thiệu tác phẩm.
2. Thân bài:
a. Lời gợi nhắc về tình cảm đùm bọc, che chở, yêu thương đầy ấm áp của gia đình, cộng đồng dân tộc và quê hương đối với mỗi con người.
* Trong gia đình “Chân phải...tiếng cười”:
- Mở ra quá trình sinh trưởng của đứa con trong vòng tay yêu thương của gia đình, gợi liên tưởng đến một mái ấm vô cùng hạnh phúc, những niềm hạnh phúc dẫu giản đơn nhưng là quý giá vô cùng.
- Người cha còn muốn nhắn nhủ với đứa con bé bỏng của mình về công lao dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, con cái chính là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban cho cha mẹ, là niềm tin, niềm hy vọng để cha mẹ phấn đấu trong suốt cuộc đời.
* Trong không gian làng, bản quê hương: “Người đồng mình...cho những tấm lòng”:
- Gợi ra vẻ đẹp của “người đồng mình” trong công cuộc lao động là sự khéo léo, tài hoa; trong nền nếp văn hóa là sự yêu đời, yêu cuộc sống, chân phương giản dị, thấm đẫm trong không gian sinh hoạt làng bản.
- Gợi ra vẻ đẹp trù phú, sung túc của quê hương thông qua “Rừng cho hoa”, vẻ đẹp tình nghĩa, thấm đẫm thân tình của quê hương thông qua câu “Con đường cho những tấm lòng”.
- Nhắc nhở đứa con về vẻ đẹp, niềm hạnh phúc của một mái ấm gia đình thông qua lời nhắc về ngày cưới của cha mẹ.
=> Từ những hình ảnh thông thường của cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của người dân tộc miền núi phía Bắc, thế nhưng khi bước vào thơ của Y Phương người ta thấy những hình ấy có một vẻ đẹp khác hẳn, rất thơ và rất đậm vẻ tự hào, yêu thương, xúc động của một người con miền núi Cao Bằng.
b. Vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”:
- Vẻ đẹp của lòng kiên trì, sức mạnh, ý chí phấn đấu khắc phục mọi điều kiện khắc nghiệt, để tạo nên một cộng đồng dân tộc giàu bản sắc.
- Thông qua niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của “người đồng mình”, người cha đã dặn dò, dạy bảo con bằng tất cả tấm lòng, mong con sau này lớn lên kế thừa và phát huy được những vẻ đẹp ấy, “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/Sống trong thung không chê thung nghèo đói/Sống như sông như suối/Lên thác xuống ghềnh/Không lo cực nhọc”.
- “Người đồng mình” còn hiện lên với vẻ đẹp tự lực, tự cường, dẫu có nghèo khó, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ đường, “thô sơ da thịt” nhưng người đồng mình chẳng có mấy ai chấp nhận, khuất phục mà họ đều tự trở nên mạnh mẽ, cường đại trong công cuộc kiến thiết và xây dựng quê hương.
- Xây dựng riêng cho mình những phong tục tập quán tốt đẹp, gìn giữ và lưu truyền biết bao đời, xây dựng lên một cộng đồng dân tộc thống nhất.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận chung.
Phân tích Nói với con ngắn gọn
“Con cựa mình êm ả
Thôi ngủ nữa đi con!
Cái trăng cao chưa tròn
Tay bố vòng hơi thở
Cho con liền giấc ngon”.
(Hai bàn tay em - Huy Cận)
Tình yêu thương của người cha dành cho con cũng nồng nàn, ấm áp không kém gì tình mẹ. Tình cảm ấy được thể hiện qua những lời ru, những cử chỉ ân cần, dịu dàng. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương cũng bắt nguồn từ mạch cảm xúc ấy. Với giọng điệu thiết tha, trìu mến, bài thơ là lời tâm tình, thủ thỉ của người cha dành cho đứa con thân yêu.
“Cha lại dắt con đi trên cát mịn
Ánh trăng chảy đầy vai
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời.
Con lại trở cánh buồm xa nói khẽ
Cha mượn cho con buồm trắng nhé.
Để con đi…”.
(Những cánh buồm)
Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ và cảm động về tình cha con. Y Phương, một nhà thơ dân tộc, cũng góp phần vào đề tài này qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc trong ngôn từ và hình ảnh, nhưng lại chạm đến trái tim người đọc bởi âm điệu nhẹ nhàng, thiết tha của lời cha nhắn nhủ, tâm tình với con về cội nguồn quê hương.
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, với câu, vần, nhịp điệu theo dòng cảm xúc. Toàn bộ bài thơ thể hiện cách nói, cách nghĩ, cách viết của người dân tộc, mộc mạc, đơn sơ nhưng chân thành và tha thiết. Qua hình ảnh người cha nói với con, bài thơ truyền tải những lời dặn dò trìu mến, ấm áp và đầy tin tưởng. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống êm đềm của quê hương.
Mở đầu bài thơ là cách diễn đạt bằng hình ảnh cụ thể, độc đáo, đặc sắc trong tư duy và cách diễn đạt của người miền núi:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước chạm tiếng cười".
Chỉ bốn câu thơ ngắn gọn nhưng đã khắc họa rõ nét không khí gia đình đầm ấm, yêu thương. Cách thể hiện cảm xúc của bài thơ thật độc đáo. Đứa con chập chững tập đi, từng bước đều được cha mẹ nâng niu, dìu dắt. Tiếng nói, tiếng cười của con đều là niềm vui lớn lao đối với cha mẹ. Con biết đi, biết nói là sự kiện trọng đại trong cuộc sống gia đình, khiến cả nhà luôn rộn rã tiếng cười. Thi sĩ Huy Cận cũng từng tâm sự về khoảnh khắc tuyệt vời ấy:
Được tin con tập đi
Cha mừng không ngủ được
Cha nằm đêm thầm thì
Từng tiễn chân con bước”.
Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, xinh đẹp của quê hương. Nhìn con lớn lên từng ngày, cha mẹ cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện. Con chính là cuộc đời, là tất cả đối với cha mẹ. Bà mẹ Tà Ôi đã bộc lộ niềm hạnh phúc ấy khi có đứa con bên mình trong lao động tỉa bắp:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”.
(Nguyễn Khoa Điềm)
Cha mẹ yêu con, càng yêu thương mảnh đất chôn nhau cắt rốn của con, mảnh đất do tổ tiên, ông bà để lại. Niềm tự hào về dân tộc mình đã bật thành lời từ trái tim chân thành của người cha:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.
Các động từ “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hòa hợp, gắn bó giữa hiện thực và lãng mạn trong đời sống vật chất, tinh thần của người vùng cao. Đời sống tinh thần nên thơ, nên nhạc khiến cho công việc đỡ nhọc nhằn và con người có thêm niềm vui, niềm tin vào cuộc đời. Người cha muốn nói với con rằng chính mảnh đất nơi ta sinh ra và lớn lên là cội nguồn hạnh phúc lớn lao vô tận:
“Rừng ra hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.
Chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc bền lâu. Và trong cái nôi hạnh phúc ấy, con cái là hoa trái, là kết quả ngọt ngào của duyên đôi lứa.
Phẩm chất của người đồng mình và ước muốn của cha về con thể hiện rất rõ nét qua từng câu thơ. Quê hương là ơn nặng nghĩa đầy. Cha mẹ muốn con ý thức về điều ấy. Người cha nhắc nhở con xứng đáng với những gì đẹp đẽ nhất mà dân tộc đã trao cho, quê hương đã ban tặng:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Đó là cách sống hiên ngang, bất khuất vượt lên mọi khó khăn gian khổ để khẳng định khí phách và phẩm chất tốt đẹp của mình. Gian lao, thử thách, lên thác, xuống ghềnh chỉ là cơ hội chỉ người đồng mình thêm vững lòng, bền chí, tự tin vào mình hơn như cụ Phan Bội Châu đã từng nhận định:
“Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai”.
Thế hệ cha, mẹ và anh đã từng sống như thế. Cha cũng muốn con phát huy phẩm chất tốt đẹp ấy để đáp trả ân tình với quê hương, với người đồng mình.
Người cha còn giúp con ý thức một điều: cái vẻ ngoài trông thô sơ và rất đỗi bình thường của người đồng mình lại chứa đựng một tầm vóc tâm hồn cao đẹp:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Người dân tộc sống giữa núi rừng, thiên nhiên, mây ngàn và đá núi. Vất vả biết bao nhiêu! Họ đã phải chắt chiu từng mầm sống nhỏ nhoi để xây dựng quê hương từ không thành có. Họ nghèo thật nhưng họ rất giàu có về sự kiên cường, sức sống bền bỉ, làm nên giá trị cao quý của truyền thống dân tộc, truyền thống quê hương. Cũng chính họ đã tự đục chân dung mình vào đá núi vĩnh hằng. Tinh thần của họ đâu khác gì với tinh thần và lí tưởng sống của Nguyễn Công Trứ năm xưa:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sống”.
Sống giữa một dân tộc như thế, một quê hương nhiều truyền thống hào hùng tốt đẹp như thế, các thế hệ kế thừa phải sống sao cho xứng đáng? Người cha ân cần khuyên nhủ con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
Dù chỉ là những lời ngắn gọn, cô đọng, giọng điệu nhẹ nhàng nhưng thấm thía và đầy cương quyết! Con hãy giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương. Chỉ có như vậy, con mới xứng đáng với công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, với tình yêu thương bao bọc của người đồng mình, và với truyền thống mạnh mẽ, hào hùng, dũng cảm của quê hương.
“Nói với con” là một bài thơ đặc sắc của Y Phương. Với cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, trìu mến thể hiện qua từng từ ngữ, hình ảnh, bài thơ bộc lộ tình yêu thương của người cha dành cho con, mong con trưởng thành và dạy con biết yêu quê hương, tự hào về truyền thống tốt đẹp của người đồng mình.
Hãy luôn nhớ về tình cảm mà cha mẹ dành cho mình để sống xứng đáng hơn với sự yêu thương, bao bọc ấy:
“Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong
Con ơi giữ trọn hiếu trung
Sớm hôm chăm chỉ kẻo uổng công mẹ thầy”.
(Ca dao)
Phân tích Nói với con hay nhất
Y Phương (24/12/1948), tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là một trong những nhà thơ dân tộc nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sinh ra và lớn lên trong cái nôi của người dân tộc Tày, thơ của Y Phương mang vẻ trong sáng, đôn hậu, thật thà, chất phác như tấm lòng của người dân miền núi. Những hình ảnh thơ phong phú, độc đáo, gắn liền với đời sống nhân dân, tựa như chất liệu thổ cẩm đan xen từng vần thơ, tạo nên những tác phẩm giàu tính nhân văn. “Nói với con” là một trong những bài thơ hay nhất của Y Phương, với giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình của người cha dành cho con, thấm đẫm tình cảm gia đình thiêng liêng, ấm áp, mở rộng ra là tình yêu tha thiết với quê hương, con người nơi chôn nhau cắt rốn.
“Nói với con” mang đậm phong cách thơ Y Phương, với mạch cảm xúc chủ đạo là tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho con. Thông qua những lời tâm sự, hồi tưởng từ quá khứ đến hiện tại, bài thơ không chỉ là lời tâm tình mà còn là những lời dạy bảo chân thành về quê hương, về “người đồng mình”. Giống như “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm hay “Con cò” của Chế Lan Viên, “Nói với con” giáo dục con trẻ về tình yêu thương từ thuở ấu thơ. Y Phương mở đầu bài thơ bằng những lời kể ấm áp, hoài niệm:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Đó là tiếng lòng hạnh phúc của người cha khi nhớ về những ngày con còn thơ ấu, những bước đi chập chững đầu đời in đậm trong trái tim cha mẹ. Tiếng nói đầu tiên con gọi “cha”, nụ cười đầu tiên của con khiến cha mẹ xúc động. Con là món quà quý giá nhất mà tạo hóa ban tặng. Y Phương gợi nhắc quá khứ để khắc sâu vào lòng con những ký ức đẹp đẽ về tình cảm gia đình, về quá trình trưởng thành của con. Không ai lớn lên một mình, ai cũng cần sự chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ. Y Phương muốn nhắn nhủ với con về công lao và tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ, từ thuở con sinh ra cho đến khi con khôn lớn. Từ gia đình, tác giả mở rộng ra cộng đồng, làng xóm với những vẻ đẹp giản dị của người dân tộc miền núi.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Y Phương dùng giọng thơ tha thiết để gợi mở vẻ đẹp của người dân tộc miền núi. Câu thơ “Người đồng mình yêu lắm con ơi” chứa đựng tấm lòng trân trọng, tự hào về quê hương. Những con người lao động với đôi bàn tay thô sơ nhưng khéo léo, tạo nên những sản phẩm tinh tế như tác phẩm nghệ thuật. Tâm hồn họ đẹp đẽ, yêu đời, từng câu hát, câu ca in sâu vào vách nhà, vào quê hương. Thiên nhiên miền núi hiện lên qua hình ảnh “rừng cho hoa” xanh tươi, rực rỡ, tràn đầy sức sống. “Con đường cho những tấm lòng” là hình ảnh giàu sức gợi, thể hiện sự gắn bó của con người với quê hương. Người cha muốn con ghi nhớ những giá trị văn hóa, tình cảm gia đình, và cội nguồn quê hương.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Vẻ đẹp của “người đồng mình” không chỉ ở sự khéo léo trong lao động mà còn ở ý chí và sức mạnh tâm hồn. Y Phương viết “Người đồng mình thương lắm con ơi” với tấm lòng yêu thương, cảm thông trước những khó khăn họ phải đối mặt. “Cao” và “xa” gợi lên hình ảnh vùng đất núi non hiểm trở, nhưng cũng nuôi dưỡng ý chí kiên cường. Người cha mong con kế thừa truyền thống vượt khó, sống mạnh mẽ như dòng sông, con suối, không ngại thác ghềnh. Dù nghèo khó, “người đồng mình” vẫn mang trong mình tâm hồn lớn lao, ý chí mạnh mẽ, xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Họ “tự đục đá kê cao quê hương”, tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng đất nước.
Kết thúc bài thơ là lời dặn dò đầy yêu thương của người cha dành cho con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
Cha mong con noi gương thế hệ đi trước, mang trong mình tình yêu thương gia đình, quê hương, và ý chí vượt khó để góp phần xây dựng đất nước.
“Nói với con” là bài thơ hay với những vần thơ tự do, phóng khoáng, thể hiện tình yêu thương của người cha dành cho con thông qua cách giáo dục mềm mỏng, thấm đẫm ân tình. Bài thơ cũng thể hiện niềm tự hào, yêu thương của tác giả đối với quê hương và những con người chất phác, mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, đáng ngưỡng mộ.
Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 1
Bố cục bài thơ có thể chia thành hai phần chính. Phần đầu gồm 11 câu thơ thể hiện tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, yên vui. Phần sau gồm 17 câu thơ, khắc họa tình yêu quê hương sâu nặng, truyền thống nghĩa tình và sức sống mạnh mẽ của người miền núi. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, tràn ngập tiếng nói cười:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Mái nhà có cha mẹ, con lớn lên trong tình yêu thương. Hơn thế, con sinh ra và trưởng thành trong vẻ đẹp của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Tác giả diễn tả suy nghĩ, tình cảm bằng hình ảnh cụ thể, vừa mang tính khái quát cao, vừa giàu chất thơ. Những hình ảnh như “Đan lờ cài nan hoa”, “Vách nhà ken câu hát”, “Rừng cho hoa” khắc họa vẻ đẹp cuộc sống miền núi. Người cha muốn con thấy được vẻ đẹp nên thơ của người đồng mình để yêu thương và trân trọng. Cách diễn đạt độc đáo tiếp tục được thể hiện qua những câu thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Sống trong thung không chê thung nghèo đói.
Từ tình cảm gia đình, nghĩa tình quê hương ở phần đầu, sang phần hai, tác giả mượn lời người cha để nói về sức mạnh truyền thống và lòng thủy chung với quê hương. Người cha nhắc nhở con trân trọng nơi mình sinh ra, sống lạc quan, cần cù để vượt qua gian khó. Con hãy nhớ lấy những điều ấy để sống xứng đáng. Người đồng mình tuy mộc mạc nhưng không nhỏ bé. Câu thơ “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang nghĩa thực, vừa ẩn dụ về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội.
Lần đầu, người cha nói về sức sống mạnh mẽ của người đồng mình. Lần thứ hai, người cha nhắc lại để con khắc ghi rằng: Dù quê hương mộc mạc, người đồng mình thô sơ, nhưng họ sống cao đẹp. Con phải sống xứng đáng với truyền thống ấy. Người cha đã truyền cho con vẻ đẹp và sức mạnh của quê hương.
Thể thơ tự do, nhịp điệu linh hoạt, phù hợp với mạch cảm xúc của bài thơ. Ngôn ngữ giản dị, hình ảnh mộc mạc nhưng giàu sức gợi, tạo nên sức hấp dẫn riêng. Bài thơ như một lời trao gửi từ thế hệ này sang thế hệ khác, khắc họa bản sắc truyền thống của người dân miền núi.
Nhà thơ Y Phương thấu hiểu và khắc họa thành công bản sắc truyền thống của người dân miền núi. Bài thơ không chỉ là lời người cha nói với con mà còn là thông điệp gửi đến thế hệ sau.
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 2
Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả bài thơ “Nói với con”. Nhan đề bài thơ bình dị, lời thơ hồn nhiên, chân chất. Bài thơ gồm 28 câu thơ tự do, với câu ngắn nhất chỉ hai chữ và câu dài nhất mười chữ, phần lớn là những câu thơ bốn, năm chữ. Có những câu thơ giản dị như lời nói thường ngày, nhưng lại gợi cảm, đậm đà nhờ tình cha con sâu nặng và cách diễn đạt mộc mạc, chân thành.
Bài thơ tràn ngập tình yêu thương con và niềm tự hào về quê hương. Những câu thơ như:
– Người đồng mình yêu lắm con ơi
– Người đồng mình thương lắm con ơi
– Người đồng mình thô sơ da thịt
– Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Những câu thơ này đứng ở những vị trí then chốt, như những điệp khúc, tạo nên âm điệu ngân vang, dạt dào cảm xúc. Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Hương thơ mộng, từ thuở nhỏ đã được nghe những lời yêu thương, dịu ngọt: “bà con miềng”, “chị em miềng”, “anh em miềng” từ mẹ, từ chị, từ bạn bè.
Trong những năm tháng chiến tranh, trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi nghe tiếng ru buồn, dịu dàng vang lên từ một mái nhà tranh nơi xóm vắng: “Nàng về nuôi cái cùng con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”. Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng “người đồng mình” đã khiến lòng tôi bâng khuâng, man mác nỗi nhớ.
Tôi bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của mẹ, nhớ về xứ Huế, và lạ kỳ thay, tôi cũng nghĩ về Cao Bằng, nơi “gạo trắng nước trong”, nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Thơ hay, thơ có hồn mới gợi nhớ, gợi thương đến thế. “Người đồng mình” trong thơ Y Phương kết tụ bao tình yêu thương, tự hào về quê hương Cao Bằng, nơi chôn nhau cắt rốn của tác giả. Hãy cùng ngâm lên những vần thơ của ông:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Những câu thơ này như một bức tranh tứ bình, với bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của đứa trẻ đang chập chững tập đi, bi bô tập nói. Lúc thì nép vào lòng mẹ, lúc thì níu tay cha. Điệp ngữ “bước tới” và động từ “chạm” được sử dụng tinh tế, làm nổi bật vẻ đẹp của một gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ và đứa con thơ đầu lòng.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Sao không yêu?
Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có “bàn tay lái ra hoa”. Một nhà thơ khác, trước vẻ đẹp của cô văn công, đã thốt lên: “mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em”. Trong thơ Y Phương, chữ “hoa”, “câu hát”, “tấm lòng” cũng mang ý nghĩa sâu sắc.
Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan tre trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn ken bằng “câu hát”. Rừng không chỉ cho gỗ quý, lâm sản mà còn “cho hoa”. Con đường không chỉ để đi lại mà còn là con đường của “những tấm lòng” nhân hậu, bao dung, con đường tình nghĩa.
Gập ghềnh xuống biển lên non,
Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?
(Ca dao)
Với Y Phương, con đường mà ông nói với con là hình ảnh thân thuộc của quê hương. Đó là con đường làng bản, đi vào thung lũng, rừng núi, ra sông suối. Đó cũng là con đường đi học, con đường làm ăn, và cả con đường dẫn đến mọi miền đất nước.
Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương diễn tả một cách hàm súc, giản dị: “Con đường cho những tấm lòng”. Ôm con vào lòng, nhìn con khôn lớn, nhà thơ suy ngẫm về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
“Người đồng mình” không chỉ cần cù, khéo léo, tình nghĩa mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, đáng yêu, đáng thương. Trải qua bao gian khó, thử thách, họ đã rèn luyện ý chí, hun đúc chí khí, “cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn”, nâng cao tâm thế sống đẹp.
Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ sống, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ “cao đo”, “xa nuôi” thể hiện bản lĩnh sống của dân tộc Tày, của con người Việt Nam.
Nếu người Kinh dùng cách nói “ăn chắc mặc bền”, “chém to kho mặn” để phản ánh sự giản dị, mộc mạc, thì Y Phương dùng cách nói của người dân tộc Tày như “thô sơ da thịt”, “chẳng mấy ai nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương” để khẳng định tinh thần cần cù, chịu khó, sống giản dị nhưng không hề nhỏ bé.
Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng, đáng yêu của Y Phương. Bản chất dân tộc và tinh thần nhân văn hòa quyện vào hồn thơ:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Cha “nói với con” cũng là dạy con bài học đạo lý làm người. Quê hương sau chiến tranh còn nghèo, con phải biết gắn bó, không chê bai, không sống tầm thường, hèn kém. Con phải lao động sáng tạo để xây dựng quê hương:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…
Lời thơ thấm đẫm ẩn dụ, so sánh và thành ngữ dân gian. Điệp ngữ “sống” vang lên ba lần, khẳng định tâm thế, bản lĩnh, và dáng đứng mà cha mong con hướng tới. Lời thơ giản dị nhưng sâu sắc, lay động lòng người.
Lời cuối “nói với con” càng trở nên tha thiết. Cha nhắn nhủ con khi “lên đường” không được sống tầm thường, nhỏ bé. Con phải giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người lao động. Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng bao la của người cha:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Một cảnh tượng cảm động đang hiện ra trước mắt. Người cha hiền từ âu yếm nhìn con, nhẹ nhàng xoa đầu. Đứa con cúi đầu lắng nghe lời cha dặn dò. Y Phương đã khắc họa thành công không khí gia đình ấm áp, tràn đầy tình cha con. Ông không chỉ là một người cha yêu thương con mà còn là người sống trọn nghĩa tình với quê hương. Thơ của ông mang đậm chất hồn hậu, chân thành.
Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương ông có hang Pắc Bó, nơi hơn 60 năm trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động cách mạng giữa lòng dân để “nhóm lửa”. Bạn đọc gần xa có nhớ bài dân ca:
Nàng về giã gạo ba giăng
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm
Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…
Theo tôi, bài thơ “Nói với con” của Y Phương giống như một gáo nước Cao Bằng, có thể làm trong lành, mát mẻ tâm hồn mỗi chúng ta.
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 3
Y Phương, nhà thơ dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên ở vùng núi cao, mang trong mình tư duy mộc mạc, giản dị. Thơ của ông chân thành như chính tâm hồn con người nơi đây. Nhắc đến Y Phương, người ta nhớ ngay đến bài thơ “Nói với con”, một tác phẩm nổi tiếng về tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu nặng.
“Nói với con” được Y Phương sáng tác khi đứa con đầu lòng của ông chào đời. Bài thơ chứa đựng niềm hạnh phúc dạt dào của một người lần đầu được làm cha. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện ý thức của người cha muốn vun đắp, muốn con hiểu rõ cội nguồn của mình và luôn tự hào về quê hương.
Trước hết, bài thơ cho con thấy nguồn cội của mình chính là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của những người đồng mình.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Bằng những hình ảnh cụ thể, cùng với việc lặp cấu trúc và phép liệt kê, Y Phương đã tạo nên âm điệu tươi vui, quấn quýt trong một gia đình nhỏ đầy hạnh phúc. Bốn câu thơ xuất hiện nối tiếp qua các động từ “bước, chạm, tới”, và cái đích đến của người con là hai chữ giản dị: mẹ - cha.
Điều giản dị ấy mang ý nghĩa lớn lao và thiêng liêng: với mỗi người, cha mẹ là đích đến, là nơi để ta tìm về, là chốn bình yên để ta nương tựa sau những giông bão cuộc đời.
Không chỉ vậy, con còn được lớn lên trong sự đùm bọc của bản làng: “Đan lờ cài nan hoa/.../Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Cách gọi “người đồng mình” thật mộc mạc, thể hiện tình cảm thân thương, trìu mến của người dân tộc Tày. Đó là những người vùng mình, miền mình.
Chỉ với bảy câu thơ, Y Phương đã khắc họa cuộc sống lao động cần cù, vui tươi của người đồng mình. Họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống trở nên tươi vui. Thiên nhiên mơ mộng, đầy tình nghĩa đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất, là chiếc nôi thứ hai nuôi con khôn lớn.
Y Phương không chỉ cho con biết về cội nguồn mà còn dạy con tự hào về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
…
Còn quê hương thì con phong tục”.
Người đồng mình hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào. Họ giàu ý chí, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống chỉ là thử thách để rèn luyện bản lĩnh của họ. Câu thơ cô đúc, khái quát cao, thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với cuộc sống của người miền núi.
Dù cuộc sống có nhiều khó khăn, họ vẫn một lòng thủy chung với quê hương. Điệp từ “sống” lặp lại như lời căn dặn của cha về lẽ sống, đồng thời gợi sức sống mãnh liệt của con người trước gian truân. Người cha mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với quê hương. Hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt, còn thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi cuộc sống lao động vất vả nhưng đầy lạc quan.
Câu thơ thể hiện lời khẳng định đầy tự hào của người cha về vẻ đẹp kiên cường của người đồng mình. Họ sống mạnh mẽ, gắn bó sâu nặng với quê hương, vượt qua mọi gian khổ, thử thách. Qua đó, người cha mong con tiếp nối tinh thần ấy, sống kiên cường vượt qua mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí và nghị lực. Đồng thời, con cần góp sức xây dựng quê hương giàu đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như một di sản quý báu.
Người đồng mình không chỉ kiên cường mà còn mang trong mình những phẩm chất cao quý khiến người cha vô cùng tự hào. Họ mộc mạc, giản dị nhưng giàu chí khí và niềm tin. Dù vẻ ngoài có thô sơ, tâm hồn và ý chí của họ luôn rộng lớn, mạnh mẽ. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đã tạo dựng nên quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp. Người cha mong con tiếp nối và phát huy tinh thần ấy, lấy đó làm hành trang vững chắc để tự tin bước vào đời.
Lời dặn dò của người cha vừa ấm áp, vừa kiên quyết, nhắc nhở con rằng dù vẻ ngoài có giản dị, thô sơ nhưng không được để tâm hồn và ý chí trở nên nhỏ bé. Con phải sống một cuộc đời ý nghĩa, không tầm thường. Những lời động viên, căn dặn ấy như ngọn đuốc soi đường, tiếp thêm sức mạnh để con tự tin bước vào đời.
Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc, lời thơ của người cha mang ý nghĩa lớn lao đối với người con. Những lời ấy trở thành hành trang vững chắc, giúp con tự tin bước vào cuộc sống. Không chỉ là lời cha dành cho con, bài thơ còn là thông điệp gửi gắm đến bao thế hệ, nhắc nhở về giá trị của ý chí, nghị lực và tình yêu quê hương.
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 4
Y Phương, nhà thơ mang đậm bản sắc dân tộc Tày, đã khắc họa nên những vần thơ chân thành, giản dị nhưng đầy tình yêu thương. Bài thơ "Nói với con" là tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo của ông. Tác phẩm chạm đến trái tim người đọc bằng thứ tình cảm gần gũi mà thiêng liêng: tình cha con. Đó là những lời tâm sự, những điều người cha muốn truyền đạt để con hiểu và ghi nhớ.
"Nói với con" là cuộc trò chuyện thủ thỉ, tâm tình của người cha dành cho con từ thuở con còn thơ bé. Mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ là tình yêu thương, sự gắn kết và những bài học về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Với thể thơ tự do phóng khoáng, ngôn ngữ mộc mạc, Y Phương đã tạo nên một không gian ấm áp, thân thương, khiến tình cha con càng thêm sâu sắc và đáng trân trọng.
Những câu thơ mở đầu như lời kể chuyện nhẹ nhàng, thủ thỉ với con:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Ngay từ khi chào đời, đứa con đã được bao bọc trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Mỗi bước con đi, mỗi tiếng cười con cất lên đều là niềm hạnh phúc của cha mẹ. Hình ảnh "chân phải", "chân trái", "tiếng nói", "tiếng cười" giản dị mà đầy ý nghĩa, khắc họa một không gian gia đình ấm áp, tràn ngập yêu thương. Y Phương đã vẽ nên bức tranh tuổi thơ của con, gieo vào lòng con những ký ức đẹp đẽ về những ngày tháng đầu đời.
Y Phương tiếp tục khắc sâu vào tâm trí con tình cảm gắn bó với quê hương, với những người đồng mình:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời
Những con người dân tộc mộc mạc, chân chất nhưng giàu nghị lực và tình cảm. Cuộc sống của họ gắn liền với rừng núi, với công việc lao động vất vả, nhưng họ luôn đoàn kết, yêu thương nhau. Những từ ngữ như "đan", "cài" không chỉ thể hiện sự khéo léo mà còn khắc họa tình cảm gắn bó sâu nặng. Y Phương đã truyền cho con tình yêu quê hương, nhắc nhở con phải biết trân trọng và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 5
Tình cảm gia đình, tình phụ tử, tình mẫu tử vốn là đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam, với nhiều tác phẩm xuất sắc đã đi vào lòng người. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ cho các nhà văn, nhà thơ thế hệ sau khi viết về chủ đề này. Tuy nhiên, Y Phương đã vượt qua thách thức ấy bằng cách khai thác một góc nhìn mới mẻ, sâu sắc. Bài thơ "Nói với con" là minh chứng cho sự sáng tạo độc đáo của ông, mang đến một cách tiếp cận tươi mới về tình cha con.
"Nói với con" là lời tâm tình đầy xúc động của người cha dành cho đứa con thân yêu. Những lời nhắn nhủ, dặn dò được thể hiện một cách chân thành, tha thiết, phản ánh tình yêu thương vô bờ của người cha. Y Phương đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, đậm chất dân tộc để truyền tải thông điệp sâu sắc. Mở đầu bài thơ, ông gợi lên hình ảnh đứa con bé bỏng với những bước chân chập chững, được nâng đỡ bởi tình yêu thương của cha mẹ:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai tiếng chạm tiếng cười"
Những câu thơ gợi lên hình ảnh đứa trẻ tập đi, từng bước chân nhỏ bé hướng về cha mẹ - những người thân yêu nhất. Mỗi bước đi của con đều mang lại niềm vui, tiếng cười và sự tự hào cho cha mẹ. Có thể hiểu rằng, đây không chỉ là quá trình tập đi mà còn là hành trình trưởng thành của con, từ lúc biết nói, biết cười, và mỗi khoảnh khắc ấy đều được cha ghi nhớ trong trái tim mình.
"Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài đan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa"
Những câu thơ này là lời tâm sự đầy yêu thương của người cha về quê hương và những người đồng mình. "Người đồng mình" là những con người chân chất, gắn bó với nhau trong cuộc sống lao động. Họ khéo léo trong công việc "Đan lờ cài đan hoa", lạc quan yêu đời với những câu hát ngân vang "Vách nhà ken câu hát". "Rừng cho hoa" không chỉ là nguồn tài nguyên mà còn là biểu tượng của sự sống, nuôi dưỡng con người và tâm hồn họ.
"Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời"
Người cha nhắc đến sự ra đời của con như kết tinh của tình yêu thương giữa cha và mẹ. "Con đường cho những tấm lòng" là con đường của tình yêu, của sự gắn kết. Ngày cưới là ngày đẹp nhất, ngày khởi đầu cho một gia đình hạnh phúc. Qua đó, người cha muốn con hiểu rằng, con được sinh ra từ tình yêu và sự gắn kết thiêng liêng của cha mẹ.
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh,
Sống trong thung không chê thung nghèo đói"
Đây là những câu thơ đầy triết lý, thể hiện lời dạy sâu sắc của người cha. "Người đồng mình" không chỉ giàu tình cảm mà còn có ý chí mạnh mẽ, chí lớn vươn xa. Dù cuộc sống có khó khăn, nghèo đói, họ vẫn kiên cường, không chê bai hay từ bỏ cội nguồn. Người cha mong con học được tinh thần ấy: sống mạnh mẽ, thích nghi với hoàn cảnh và luôn tự hào về quê hương, dù nơi đó có gập ghềnh, nghèo khó.
Phân tích bài thơ Nói với con - Mẫu 6
Tình cảm gia đình, niềm tự hào về quê hương và những ước vọng cha mẹ dành cho con cái là chủ đề quen thuộc trong văn học Việt Nam. Ta có thể thấy hình ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy trong bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm, hay lời ru ngọt ngào trong "Con cò" của Chế Lan Viên. Mỗi nhà thơ, bằng tình cảm chân thành và tài năng nghệ thuật, đã khắc họa tình cảm thiêng liêng ấy một cách độc đáo. Y Phương, nhà thơ dân tộc Tày, cũng góp tiếng nói riêng qua bài thơ "Nói với con" (1980). Bài thơ là lời tâm tình của người cha, mong con tiếp nối và phát huy những phẩm chất cao đẹp của "người đồng mình", góp phần xây dựng quê hương ngày càng vững mạnh.
Mở đầu bài thơ, người cha nhắc nhở con về cội nguồn sinh dưỡng: con lớn lên nhờ tình yêu thương của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha nói về tình cảm gia đình – nơi nuôi dưỡng con từ những ngày đầu đời:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Với hình ảnh cụ thể như "chân phải", "chân trái", "tiếng nói", "tiếng cười", Y Phương đã vẽ nên khung cảnh đứa trẻ chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cha mẹ. Không khí gia đình ấm áp, tràn ngập tiếng cười được khắc họa rõ nét. Qua đó, người cha muốn con hiểu rằng, từng bước đi, từng tiếng cười của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc. Đó là tình cảm thiêng liêng, là công lao to lớn mà con cần khắc ghi.
Không chỉ dừng lại ở tình cảm gia đình, người cha còn muốn con hiểu về cội nguồn rộng lớn hơn – tình làng nghĩa xóm, quê hương:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Với lối tư duy giàu hình ảnh, Y Phương đã miêu tả cuộc sống lao động đầy nghĩa tình và thơ mộng của "người đồng mình". "Người đồng mình" là cách gọi thân thương chỉ những người cùng quê hương, dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ trìu mến "con ơi" và "yêu lắm", thể hiện tình yêu thương và niềm tự hào sâu sắc. Cuộc sống lao động được khắc họa qua hình ảnh "đan lờ cài nan hoa", "vách nhà ken câu hát", cho thấy sự khéo léo, tài hoa và tình yêu lao động của người dân miền núi.
Người cha còn nhắc đến rừng núi và những con đường của quê hương:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng mà còn ban tặng những bông hoa tinh túy, đẹp đẽ. "Con đường" là sợi dây kết nối tình cảm giữa những người đồng mình, được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu, bao dung. Những con đường ấy dẫn đến thung lũng, suối nguồn, làng bản, trường học, ruộng đồng... gắn kết tình đoàn kết của người dân nơi đây. Qua đó, người cha muốn con hiểu rằng, thiên nhiên không chỉ nuôi dưỡng con người mà còn bồi đắp tâm hồn, lối sống.
Từ tình cảm quê hương, người cha chuyển sang nói về ngày cưới của cha mẹ:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Sự chuyển biến này không phải ngẫu nhiên. Y Phương chia sẻ rằng, tình yêu của cha mẹ bắt nguồn từ tình yêu quê hương và lao động. Khi con người sống gắn bó với quê hương, họ sẽ tìm thấy hạnh phúc. Vì vậy, người con được sinh ra không chỉ từ tình yêu của cha mẹ mà còn từ tình cảm rộng lớn của quê hương. Quê hương đã bao bọc, chở che con từ những ngày đầu tiên.
Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng, người cha tiếp tục ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của người đồng mình, khơi dậy lòng tự hào về quê hương và dặn dò con sống xứng đáng với truyền thống ấy:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Câu thơ đầu được lặp lại "Người đồng mình thương lắm con ơi" nhưng mang sắc thái khác biệt. Nếu ở khổ đầu, từ "yêu" thể hiện tình cảm chân thành từ trái tim, thì ở đây, từ "thương" lại gợi lên sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc. "Người đồng mình" – những người cùng quê hương, dân tộc – đã đoàn kết, gắn bó, cùng nhau vượt qua khó khăn để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Hai câu tiếp theo khắc họa sức sống bền bỉ, kiên cường của "người đồng mình". Nghệ thuật đối lập tương phản: "cao đo – xa nuôi", "nỗi buồn – chí lớn" đã diễn tả trọn vẹn tinh thần của họ. "Nỗi buồn" và "chí lớn" vốn là khái niệm vô hình, nhưng qua ngòi bút của Y Phương, chúng trở nên cụ thể, có hình khối. Dù phải đối mặt với đói nghèo, khó khăn, "người đồng mình" vẫn không nản chí, luôn mạnh mẽ tiến lên phía trước, đưa quê hương vươn tới tầm cao mới.
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh "đá gập ghềnh", "thung nghèo đói", "lên thác xuống ghềnh" để diễn tả những khó khăn, vất vả mà người miền núi phải đối mặt. Điệp ngữ "sống ... không chê" kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối" đã khắc họa sức sống mãnh liệt, bền bỉ của họ. Dù cuộc sống còn nhiều gian nan, họ vẫn kiên cường, không ngừng vươn lên.
Qua đó, Y Phương thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết và tình yêu quê hương sâu sắc. Người cha mong muốn con sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách bằng nghị lực và niềm tin.
Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục mạch tâm tình của người cha, nhưng chuyển sang giọng điệu triết lý sâu sắc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Nghệ thuật đối lập tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn được sử dụng tinh tế. Hình ảnh "thô sơ da thịt" khắc họa vẻ đẹp mộc mạc, chân chất của "người đồng mình". Tuy nhiên, họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà luôn giàu lòng tự trọng, ý chí và khát vọng xây dựng quê hương.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Câu thơ mang hai lớp nghĩa: tả thực và ẩn dụ. "Tự đục đá" là công việc vất vả của người miền núi, nhưng cũng là biểu tượng cho sự cần cù, nhẫn nại. Họ không ngại khó, ngại khổ để xây dựng quê hương, tạo nên những phong tục tập quán tốt đẹp.
Hình ảnh "kê cao quê hương" còn là ẩn dụ cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Chính những con người lao động cần mẫn đã làm nên quê hương, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống.
Kết thúc bài thơ, người cha nhắn nhủ con phải tự hào về truyền thống quê hương, lấy đó làm hành trang bước vào đời:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Hình ảnh "thô sơ da thịt" được lặp lại, nhấn mạnh mong muốn của người cha: Dù mộc mạc, chân chất, con phải sống tự tin, kiêu hãnh, không bao giờ nhỏ bé trước khó khăn. Con phải vững bước trên đường đời, sống xứng đáng với truyền thống quê hương và "người đồng mình".
Bởi đằng sau con luôn có tình yêu thương, sự chở che và nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, quê hương, và đặc biệt là những phẩm chất cao quý của "người đồng mình" đã thấm sâu vào tâm hồn con. Hai tiếng "nghe con" ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao tình cảm yêu thương và niềm tin mãnh liệt của người cha, nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Tóm lại, với bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên và những hình ảnh giàu chất thơ, "Nói với con" đã khắc họa tình cảm gia đình ấm áp, ca ngợi truyền thống cần cù và sức sống mãnh liệt của quê hương. Điều lớn lao nhất mà người cha truyền lại cho con chính là lòng tự hào về quê hương và sự tự tin khi bước vào đời.
Khi biết tự hào một cách chính đáng, con người sẽ có được lòng tự tin vững chắc. "Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con" – bài thơ là lời nhắc nhở sâu sắc về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Nhận định hay về bài thơ Nói với con
1. Qua lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi nhắc về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người, đồng thời bày tỏ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình.
2. Bài thơ bắt đầu từ tình cảm gia đình, rồi mở rộng ra tình yêu quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi thân thương vươn lên thành lẽ sống cao đẹp.
3. “Y Phương đã ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình.”
4. Tác phẩm của Y Phương gắn liền với thế giới nội tâm sâu sắc của ông. Thơ ông được khơi nguồn từ cuộc sống, từ những trải nghiệm thực tế. Khi cuộc đời trải qua bao thăng trầm, thơ Y Phương thể hiện triết lý sống đầy trăn trở và suy ngẫm. Ông quan niệm: “Văn chương là một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình.”
5. Chất thơ đầy đặn, lối viết phóng khoáng giàu hình ảnh, hòa quyện con người với thiên nhiên đã tạo nên sức sống bền bỉ cho thơ Y Phương. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên vẻ đẹp độc đáo trong phong cách thơ của ông.
6. Y Phương là người có quan niệm sống và nghệ thuật rõ ràng, một nhà thơ mang tư tưởng sâu sắc. Quan niệm nghệ thuật của ông là biểu hiện của một tài năng lớn.
7. Y Phương luôn kiên định với niềm tin nghề nghiệp. Giống như nhiều người cầm bút khác, ông không ngừng trăn trở, “luôn đòi hỏi cao ở bản thân” và không ngừng trau chuốt từng câu thơ, thể hiện ý thức sáng tạo nghiêm túc.
8. Thơ Y Phương bình dị, chân chất, hồn nhiên, ẩn chứa sâu sắc mà không phô trương, lặng lẽ mà đầy sức mạnh, nhẹ nhàng như chính cuộc đời và con người ông.
9. “Y Phương trong đời thường và Y Phương trong thơ là một. Bạn đọc tìm thấy trong thơ ông tiếng nói chung, sự đồng cảm và đồng điệu.”
10. Y Phương vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc dân tộc, bởi ông biết kết hợp tinh hoa văn hóa quê hương với những giá trị văn hóa của đất nước.
11. “Với bút pháp điêu luyện, ngôn ngữ chọn lọc, Y Phương giữ được sự tinh tế của tình cảm, pha lẫn nét dung dị, mộc mạc đậm chất núi rừng” – nhận xét của tác giả Thái Vĩnh Linh.
12. Y Phương là một hiện tượng độc đáo, quyến rũ đến kỳ lạ, mang đến hương vị mới mẻ trong bữa tiệc văn chương vốn đã quá quen thuộc.
13. Y Phương không yêu dân tộc mình một cách hời hợt, cũng không lạm dụng chất liệu dân tộc. Qua những cảnh huống sinh hoạt, đam mê, đau khổ và sự thật cuộc đời, ông không ngừng khám phá và thể hiện bản sắc dân tộc.
14. Y Phương “có thể miêu tả thời gian theo chiều thuận, đồng nhất với thời gian tự nhiên, nhưng cũng có lúc ngược chiều, từ hiện tại trở về quá khứ rồi hướng tới tương lai. Đôi khi, quá khứ, hiện tại và tương lai cùng hiện diện trong một khoảnh khắc.”
15. Tình yêu đích thực luôn mang trong mình sức mạnh nâng đỡ và hướng con người đến những giá trị thiêng liêng. Nếu không phải là Y Phương, chúng ta đã không có những vần thơ thấm đẫm nỗi đau vì yêu tha thiết mà không thể ở bên nhau, những vết thương lòng dường như không bao giờ lành theo năm tháng.
16. Y Phương mang một giọng điệu riêng biệt, kết hợp hài hòa giữa lối tư duy và cách diễn đạt đậm chất dân tộc của mình.
**Lời khuyên dành cho học sinh:** Để hiểu sâu sắc và phân tích tốt bài thơ của Y Phương, các em nên tập trung vào việc khám phá bối cảnh văn hóa và tâm lý của tác giả. Hãy đọc kỹ từng câu thơ, phân tích ngôn ngữ và hình ảnh để cảm nhận được thông điệp sâu xa. Đồng thời, hãy liên hệ với cuộc sống hiện tại để tìm ra sự đồng cảm và bài học ý nghĩa từ tác phẩm.
- Đóng vai bạn nhỏ, viết đoạn văn diễn tả cảm xúc khi nằm trên chiếc võng bố cho - Văn mẫu lớp 4 Cánh diều
- Bài Đọc: Cậu Bé Đam Mê Học Hỏi - Sách Tiếng Việt 4 Chân Trời Sáng Tạo, Tập 1, Bài 2
- Nói và nghe: Giới thiệu sản phẩm sáng tạo tại trường - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 1, Bài 6
- Soạn bài Kể lại một trải nghiệm của em - Ngữ văn lớp 6 trang 32 sách Kết nối tri thức tập 1
- Luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ Tài trí - Bài 8, Tiếng Việt lớp 4, Chân trời sáng tạo, Tập 1