Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc với 4 dàn ý chi tiết và 27 bài văn mẫu xuất sắc
Tài liệu Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc cung cấp 5 dàn ý chi tiết cùng 27 bài văn mẫu chất lượng, hỗ trợ đắc lực cho học sinh trong quá trình khám phá và cảm nhận tác phẩm.
Mời bạn đón đọc nội dung chi tiết của tài liệu dưới đây để khơi nguồn cảm hứng và xây dựng ý tưởng độc đáo cho bài viết của mình.
Dàn ý phân tích Việt Bắc của Tố Hữu
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam.
2. Thân bài
- Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó mười lăm năm nghĩa tình.
- Câu hỏi tu từ mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.
=> Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.
- Bốn câu thơ tiếp khắc họa khung cảnh chia tay của đồng bào Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ: ở một bến sông, có tiếng hát làm nền, người ra đi (cán bộ chiến sĩ) và người ở lại (đồng bào Việt Bắc) trở nên bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời.
- Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại, diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
- “áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của đồng bào Việt Bắc.
- 12 câu tiếp theo nhớ lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu:
- Câu hỏi tu từ “Mình đi có nhớ những ngày” như một lời nhắc nhở phải ghi nhớ những ngày tháng chiến đấu gian khổ đã cùng trải qua.
- “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
- “Những mây cùng mù”: biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
- "Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
- Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạ
- Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.
=> Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.
- “Ta với mình, mình với ta… Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”: khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.
- Nỗi nhớ của người ra đi được so sánh với nỗi nhớ người yêu: Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.
- Người ra đi gửi gắm nỗi nhớ vào thiên nhiên: nhớ về ánh trăng trong những buổi chiều tà, nắng hiu hắt lẫn trong sương, rừng nứa bờ tre, và những địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…
- Nhớ về con người Việt Bắc: cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua những tháng ngày đói rét, kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào, cùng những điệu hát, hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” chăm chỉ lao động…
- Bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc được khắc họa sinh động:
- Bức tranh mùa đông: màu xanh thẫm của núi rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt, màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh thẳm của núi rừng đã phần nào xua tan cái lạnh lẽo thay; hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
- Bức tranh mùa xuân: sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng; con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.
- Bức tranh mùa hạ: sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ; hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.
- Bức tranh mùa thu: vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung; con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.
- Đường hành quân gian khổ:
- Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
- Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.
- Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.
- Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấu
- Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng, đầu súng gợi cảnh chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.
- Hình ảnh đoàn dân công:
- Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.
- Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
- Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu:
- Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng
- Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam.
Sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

Phân tích Việt Bắc ngắn gọn
Tố Hữu, một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc qua bài thơ Việt Bắc. Tác phẩm không chỉ là khúc hùng ca mà còn là khúc tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con người trong thời kỳ kháng chiến.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào tháng 7 năm 1954, hòa bình lập lại, miền Bắc bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, nhớ “núi, nguồn” - những kỷ niệm gắn bó suốt mười lăm năm. Câu hỏi tu từ không chỉ là lời nhắc nhở mà còn là sự nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.
Tiếp theo là lời của người ra đi trước cuộc chia tay. Khung cảnh bến sông với tiếng hát làm nền, người đi kẻ ở bịn rịn, tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” diễn tả tâm trạng xao xuyến, lưu luyến. Hình ảnh “áo chàm” ẩn dụ cho người dân Việt Bắc. Người ra đi kể lại những kỷ niệm gian khổ và vui sướng ở chiến khu, nỗi nhớ được so sánh với nỗi nhớ người yêu, thể hiện tình quân dân thắm thiết như tình yêu lứa đôi.
Tố Hữu khắc họa thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bốn mùa. Mùa đông với sắc xanh của núi rừng và đỏ của hoa chuối, con người lao động khỏe khoắn. Mùa xuân với sắc trắng hoa mơ, con người tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Mùa hè với tiếng ve và sắc vàng rực rỡ, hình ảnh cô gái hái măng một mình. Mùa thu với ánh trăng thanh bình, tiếng hát vang lên như lời chia tay đầy lưu luyến.
Tố Hữu tái hiện khung cảnh ra trận hào hùng. Đường hành quân gian khổ nhưng chiến sĩ vẫn lạc quan, yêu đời. Hình ảnh đoàn dân công với ánh đuốc sáng, bước chân nát đá, thể hiện sức mạnh và khí thế. Đoạn thơ ca ngợi Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng.
Xuân Diệu từng nói: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. Tố Hữu đã đưa hiện thực vào thơ một cách tự nhiên. Việt Bắc là khúc hùng ca và tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, sống mãi với thời gian.
Phân tích bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu: Khúc hùng ca và tình ca cách mạng
Phân tích bài thơ Việt Bắc - Mẫu 1
Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm tháng đấu tranh gian khổ để giành lại độc lập tự do. Trong hành trình ấy, có những con người thầm lặng góp phần bằng tinh thần và trái tim, thể hiện qua những vần thơ, lời văn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, tác phẩm là tấm lòng chân thành trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, hòa bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, cùng các cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy xúc động, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, ghi lại những tình cảm sâu nặng giữa con người và mảnh đất chiến khu.
Tình yêu thiên nhiên, đất nước được Tố Hữu thể hiện sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc, nơi đã cùng nhân dân trải qua bao năm tháng chiến đấu. Tình cảm ấy thắm thiết như máu thịt, như những người thân trong gia đình.
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu đã sử dụng thành công lối đối đáp giao duyên “ta” - “mình”. Nỗi nhớ da diết, không thể quên, không nỡ xa cách nơi đã từng gắn bó, yêu thương với biết bao kỷ niệm, cùng nhân dân sống và chiến đấu.
Trong hồi tưởng của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên với hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
"Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng"
Câu thơ trữ tình vang lên, tạo nên sự đằm thắm, gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.
Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu được Tố Hữu miêu tả một cách hùng tráng, đậm chất sử thi trong bài thơ Việt Bắc.
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay."
Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó, hi sinh để tạo nên những chiến công lẫy lừng: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Tố Hữu đã đi sâu vào cội nguồn sức mạnh ấy, sức mạnh của một lòng đoàn kết, quyết tâm giành thắng lợi.
Đó là sức mạnh của toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Bằng những lời thơ trang trọng và tha thiết, Tố Hữu đã khắc họa rõ nét hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng sức mạnh trong cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta.
“Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Những câu thơ mang đậm chất trữ tình, ca dao, sâu lắng về nghĩa tình dân tộc trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Cụ Hồ đã soi sáng, cùng “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, lý tưởng cao đẹp, và con đường sáng suốt đã dẫn đến thắng lợi.
“Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa”
Tố Hữu từ tình yêu với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng, vào sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên bức tranh tươi đẹp của dân tộc:
“Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng”
Những hình ảnh này là khát vọng không chỉ của cán bộ kháng chiến mà còn của toàn dân. Tác giả không vì cái mới mà quên đi cái cũ, luôn nhớ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”
Đây là lời nhắc nhở của tác giả: đừng để sự thay đổi của môi trường khi về thủ đô làm ta quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
Hai câu thơ tạo ra sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng: câu trên khắc họa bóng đêm đen tối của kiếp sống nô lệ, câu dưới bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng. Tố Hữu sử dụng hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, tương phản với bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm. Ánh sáng lấn át bóng tối, khẳng định xu thế tất thắng của dân tộc trước mọi kẻ thù.
Có những tác phẩm chỉ phản ánh một phần nhỏ cuộc sống, nhưng Việt Bắc lại cho ta thấy toàn cảnh dân tộc Việt Nam. Bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết, vừa là khúc tình ca, vừa là trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người quên mình vì độc lập tự do. Qua Việt Bắc, Tố Hữu thể hiện tấm lòng chân thành với nhân dân Việt Bắc và các cán bộ cách mạng. Bài thơ cũng nhắc nhở thế hệ trẻ phải ghi nhớ công ơn của các anh hùng dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt.
Phân tích Việt Bắc cực hay - Mẫu 2
Văn học kháng chiến vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu là tác phẩm đồ sộ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết của nhân dân qua ngòi bút tài hoa và trữ tình của tác giả.
Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được coi là ngọn cờ đầu của thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông gắn liền với những chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng nhưng vẫn sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.
Bài thơ “Việt Bắc” được sáng tác sau chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong những năm 40 của thế kỷ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân và chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Năm 1954, sau chiến thắng, Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Qua lời thơ, tác giả gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân trong máu lửa và gian lao.
Trước hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ thể hiện tâm trạng của người ở lại, sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách mạng đã gắn bó bao năm. Tác giả sử dụng hai đại từ “ta” và “mình” khéo léo, thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy giữa cán bộ và nhân dân. “Mười lăm năm ấy” là quãng thời gian dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân và dân ta. Đó cũng là quãng thời gian tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và người ở lại đều tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng của những kỷ niệm xưa cũ, vẹn nguyên trong lòng. Tố Hữu đã gieo vào lòng người đọc cảm giác vấn vương khó tả.
Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những lời tâm tình của người ở lại khiến người về xuôi không đành lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy khiến thương nhớ và kỷ niệm như chực trào, không thể quên. Tất cả tâm trạng ấy được gói gọn trong hai từ “bâng khuâng”. Nó như sự níu kéo, không muốn bước đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó có thể diễn tả bằng lời.
Lúc này, tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỷ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất này, đồng đội và đồng bào đã trải qua bao cay đắng, ngọt bùi, san sẻ từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy không thể kể hết trong vài câu chữ, nhưng chính câu chữ đã khiến cảm xúc trào dâng, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp lại tình cảm của người ở lại:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
“Ta” và “mình” hòa quyện thành một thể thống nhất, không thể tách rời. Người ra đi khẳng định “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm thiêng liêng và cao cả.
Phân tích Việt Bắc, ta thấy khi nhớ về núi rừng Việt Bắc, tác giả nhớ đến thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài nét phác họa, bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người hiện lên vẹn tròn, ý nghĩa và tươi đẹp nhất:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi về núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy, không chỉ có thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn hiện lên hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng đầy tình cảm và ý nghĩa. Đây có lẽ là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó là điểm sáng khiến cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan.
Điệp từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm. Nó khiến nỗi nhớ trong bài thơ như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả như vỡ òa, dâng lên mãnh liệt và tràn lên từng con chữ.
Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt, gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, tâm tình nữa mà trở nên hào hùng, vang dội khi nói về cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận chiến ấy diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại dấu ấn sâu đậm. Không chỉ con người đồng lòng, mà thiên nhiên cũng như sát cánh bên người chiến sĩ để “vây quân thù”.
Qua những vần thơ này, hào khí Đông A như trỗi dậy, mãnh liệt và tràn đầy niềm tự hào. Đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc nhở.
Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng những hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó giữa quân và dân – yếu tố then chốt dẫn đến chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, thủy chung với lý tưởng cao đẹp.
Phân tích Việt Bắc đạt 9+ - Mẫu 3
Thơ Tố Hữu là tiếng nói của dân tộc, của những tâm hồn gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, quê hương và đất nước. Trong những vần thơ ấy, ta bắt gặp tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ trái tim trung thành với dân tộc và nhân dân. Tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc, một trong những tác phẩm hay nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Ông là nhà thơ lớn, người tiên phong của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông gắn liền với những chặng đường cách mạng của dân tộc, mang tính trữ tình chính trị sâu sắc, hướng đến cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Thơ Tố Hữu giàu nhạc điệu và mang đậm tính dân tộc.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, mở ra trang sử mới cho nước ta. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Pháp rút quân. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về thủ đô. Những người chiến sĩ cách mạng chia tay núi rừng để về xuôi, bước sang trang mới của cách mạng. Bài thơ Việt Bắc ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt ấy.
Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, Tố Hữu thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, không chỉ là lời đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau mà còn là lời của người cách mạng với nhân dân Việt Bắc. Cách xưng hô này mang tính dân tộc đậm đà và thể hiện tính trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, từ kháng chiến chống Nhật đến chống Pháp, đã làm tình cảm giữa chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” – nỗi nhớ lan tỏa khắp núi rừng, thể hiện tình cảm chân thành, sâu sắc.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều cảm xúc, có thể là người ra đi hoặc người ở lại. Từ láy “tha thiết” khắc họa rõ tình cảm giữa họ. “Bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa niềm vui chiến thắng, niềm vui đoàn tụ, nhưng cũng ẩn chứa nỗi buồn chia ly. “Áo chàm đưa buổi phân ly” – hình ảnh hoán dụ của người Việt Bắc, màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Tây Bắc. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” tạo khoảng lặng, cảm xúc nghẹn lòng, ngập ngừng không nói nên lời.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đặt dấu phẩy, tạo khoảnh khắc ngưng đọng để kỷ niệm ùa về. “Mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối” là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người cách mạng những năm đầu kháng chiến. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ dạt dào. “Trái bùi để rụng”, “măng mai để già” thể hiện nỗi buồn sâu thẳm khi người cách mạng về xuôi, để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm.
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ được thể hiện rõ qua từ “những nhà”. Nghệ thuật đối lập “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” khẳng định chân lý: càng gian khổ, tình nghĩa quân dân càng đoàn kết, sắt son. Người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa, từ những ngày kháng Nhật, để kỷ niệm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” lặp lại trong câu “Mình đi mình có nhớ mình” gợi nhớ câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một”, khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” gợi nhắc kỷ niệm hào hùng, sâu sắc giữa chiến sĩ và nhân dân Tây Bắc.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, tạo lời đồng vọng tha thiết. “Ta với mình, mình với ta” – ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” thể hiện tình cảm thủy chung son sắt của người cách mạng với Việt Bắc. Biện pháp so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...” khẳng định nghĩa tình của người Việt Bắc trong trẻo, đong đầy, không bao giờ vơi cạn. Nhà thơ so sánh nỗi nhớ như nỗi nhớ người yêu, trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân. Nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và thời gian, từ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đến “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Điệp ngữ “nhớ từng” lật giở từng trang ký ức, liệt kê địa danh “sông Đáy, suối Lê” – nơi đong đầy kỷ niệm và nghĩa tình.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và nhắn nhủ tha thiết của người ra đi dành cho người ở lại, của người cách mạng với mảnh đất Việt Bắc anh hùng. “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” nhấn mạnh ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau” nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, thể hiện sự đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít giữa quân và dân. Hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” nhấn mạnh nỗi vất vả của người mẹ trong kháng chiến. Điệp ngữ “Nhớ sao” cùng những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc như lớp học, liên hoan, ca hát, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin vào thắng lợi. Đoạn thơ giàu nhạc điệu, ca ngợi cuộc sống đẹp và nghĩa tình sâu nặng giữa người cách mạng và núi rừng Việt Bắc.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta” chất chứa nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ nỗi nhớ. Cụm từ “những hoa cùng người” như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa tượng trưng cho thiên nhiên tươi đẹp. Mùa đông Việt Bắc với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn, tạo bức tranh sinh động, ấm áp xua tan cái lạnh.
Con người hiện ra trong tư thế lao động, kỳ vĩ, chiếm lĩnh đỉnh cao. Mùa xuân với “mơ nở trắng rừng” thơ mộng, ấm áp. Hình ảnh con người “chuốt từng sợi giang” thể hiện sự cần cù, tỉ mỉ. Mùa hạ với tiếng ve rộn rã và sắc vàng rừng phách, hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thơ mộng. Mùa thu với vầng trăng hòa bình, khép lại bức tranh tứ bình và khúc tình ca về cuộc kháng chiến.
Nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại không thể quên những ngày đầu kháng chiến. “Giặc đến giặc lùng” – từ “lùng” thể hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” và “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” khẳng định sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên trở thành sinh thể có linh hồn, chở che bộ đội, bủa vây quân thù. Điệp từ “nhớ” cùng những địa danh gắn liền chiến công, thể hiện nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện sự gắn bó sâu sắc của chiến khu Việt Bắc với nhân dân và đất nước. Biện pháp so sánh “như là đất rung” cùng hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” khẳng định sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra trận.
Hình ảnh “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” kết hợp ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, gợi nhắc hình ảnh “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu, thể hiện tầm cao của người lính. Đoàn dân công “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá” khẳng định sức mạnh và sự bền bỉ của con người Việt Nam. Trong đêm tối chiến tranh, quân và dân luôn hướng về ngày mai chiến thắng. Tin vui chiến thắng lan tỏa khắp đất nước, mang theo niềm vui toàn thắng.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối khép lại đoạn trích với quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, rực rỡ nắng vàng và cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ trở về thủ đô, miền Bắc đổi mới với chính sách mới. Đoạn thơ ngợi ca công lao của Bác Hồ và tri ân núi rừng Việt Bắc. Dù về thủ đô, trong tim người chiến sĩ vẫn dành một góc cho Việt Bắc, cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết, hòa tấu giữa khúc tình ca và trường ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua đó, Tố Hữu bộc lộ tình cảm sâu đậm với Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Tác giả nhắn nhủ người đọc đừng quên những trang sử hào hùng, thấm đẫm máu và nước mắt, nhưng cũng thấm đượm tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.
Phân tích Việt Bắc hay nhất - Mẫu 4
Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến, Tố Hữu đã góp vào nền văn học cách mạng và văn học Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị với phong cách nghệ thuật độc đáo. “Việt Bắc” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông, được viết vào tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện trung ương Đảng và Chính phủ cùng những người cách mạng từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.
“Việt Bắc” sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca, giúp người đọc hình dung cuộc chia tay giữa nhân dân và trung ương Đảng, Chính phủ như cuộc chia tay của đôi trai gái, đầy bịn rịn, lưu luyến. Bài thơ chia làm hai lời đối đáp giữa người ở và người đi.
Tám câu thơ đầu là lời đối đáp thứ nhất giữa người ra đi và người ở lại. Qua đó, người đọc thấy được khung cảnh chia tay lưu luyến, nói chẳng nên lời giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn cây nhớ nguồn"
Với phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…”, người ở lại gợi nhắc kỷ niệm sâu sắc trong “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – quãng thời gian gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ. Trước lời ướm hỏi chân tình, người ra đi không thể che giấu nỗi lòng. Khung cảnh chia tay đầy bịn rịn được thể hiện qua những từ ngữ giàu cảm xúc như “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Nếu tám câu thơ đầu là lời đối đáp thứ nhất, phần còn lại của bài thơ là lời đối đáp thứ hai. Mở đầu là lời người ở lại với mười hai câu thơ. Trong nỗi niềm của họ, câu hỏi “có nhớ” luôn thường trực, xuyên suốt tác phẩm. Nếu ở lời đối đáp đầu, câu hỏi “có nhớ” chỉ là lời ướm hỏi, thì ở đây, người ở lại gợi nhắc chi tiết những kỷ niệm son sắt trong mười lăm năm. Đó là những kỷ niệm gian nan nhưng đầy ân nghĩa, lạc quan giữa cán bộ và nhân dân. Điệp từ “có nhớ” được lặp lại nhiều lần, khắc sâu vào trái tim người ra đi và người ở lại.
Trước lời người ở lại, người ra đi khẳng định chắc chắn nỗi nhớ về con người, cảnh vật nơi đây. Lời đáp của họ như lời thề thủy chung son sắt:
"Ta với mình mình với ta
Tình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu"
Trong lời đáp, người ra đi vẽ lại chân thực và sâu sắc từng kỷ niệm, ấn tượng về thiên nhiên, con người và những năm tháng gian khổ mà hào hùng. Trước hết, đó là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc. Trong cảm nhận của người ra đi, thiên nhiên hiện lên vẹn tròn, mang đặc trưng riêng của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh thiên nhiên mờ ảo, hư thực, gần gũi. Đó là ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, “trăng lên đầu núi”. Đó là “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan hòa, ấm áp. Đó là những bản làng chìm trong sương, với bếp lửa bập bùng và những rừng nứa, bờ tre, suối Lê – hình ảnh riêng, điệu hồn riêng của núi rừng Tây Bắc.
"Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy"
Không dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi còn là bức tranh tứ bình, thể hiện sự chuyển mình của thiên nhiên qua bốn mùa. Mùa đông, thiên nhiên hiện lên với sắc xanh của rừng cây và sắc đỏ của hoa chuối – “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” – sự kết hợp hài hòa tạo nên bức tranh ấm áp, tràn đầy sức sống. Mùa xuân, thiên nhiên khoác lên mình sắc trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng báo hiệu xuân về. Mùa hè, tiếng ve kêu làm “rừng phách đổ vàng”, bừng tỉnh đón hè về. Mùa thu, ánh trăng hòa bình gợi nhiều nỗi niềm, ấn tượng.
Nhớ về Việt Bắc, người ra đi không chỉ nhớ thiên nhiên mà còn nhớ những con người ân nghĩa nơi đây. Đó là hình ảnh người mẹ kháng chiến vất vả, lam lũ nhưng cần cù, chịu khó:
"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô"
Dù vất vả, lam lũ, những con người nơi đây vẫn sống thủy chung, tình nghĩa, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng gian nan của cuộc kháng chiến.
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
(…)
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang nùi đèo"
Đồng thời, hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế lao động, làm chủ quê hương, đất nước. Người đọc khó quên hình ảnh tỉ mỉ “người đan nón chuốt từng sợi giang”, “cô em gái hái măng một mình” và “tiếng hát ân tình thủy chung” – những hình ảnh gợi lên bao nghĩ suy, ân tình trong lòng người ra đi. Như vậy, trong nỗi nhớ của họ, thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp đẽ, sâu sắc.
Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ về một Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến. Giọng thơ mạnh mẽ, dồn dập diễn tả khí thế hào hùng của Việt Bắc. Hình ảnh “những đường Việt Bắc của ta” mở ra không gian rộng lớn, mênh mông, nơi quân và dân ta hiện lên thật đẹp, hùng dũng. Khí thế ấy thể hiện qua hình ảnh đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, “quân đi điệp điệp trùng trùng”, “dân quân đỏ đuốc từng đoàn”, cùng ánh sáng của “đèn pha bật sáng”. Tất cả hòa quyện, vẽ nên một Việt Bắc dũng mãnh, dồn dập, nơi mọi người cùng nhau ra trận, người người đánh giặc, nhà nhà đánh giặc – một Việt Bắc hào hùng, anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Người ra đi còn nhớ và tái hiện những chiến thắng vang dội của quân và dân ta.
"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hào Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp. An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"
Trong mười sáu câu thơ cuối, tác giả nhấn mạnh vai trò to lớn của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Việt Bắc là quê hương cách mạng, là đầu não, cái nôi của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Việt Bắc còn là nơi cổ vũ tinh thần chiến đấu, tiếp thêm niềm tin, hy vọng về ngày chiến thắng, hòa bình cho dân tộc.
"Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền"
Hai câu kết thúc bài thơ như một lần nữa khẳng định lời thề thủy chung son sắt với nhân dân, với quê hương cách mạng.
"Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào"
Tóm lại, bài thơ sử dụng cặp đại từ “mình” – “ta” cùng kết cấu đối đáp quen thuộc, tạo nên cuộc chia tay đầy nhớ thương giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Bài thơ như khúc tình ca cách mạng về cuộc kháng chiến chống Pháp, là khúc ca tình nghĩa giữa những con người trong gian khổ. Qua đó, ta hiểu thêm về phong cách thơ Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Việt Bắc - Mẫu 5
Tố Hữu, một tượng đài trong nền văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực văn học cách mạng, được coi là ngọn cờ đầu của thơ ca kháng chiến. Sự nghiệp của ông là sự kết hợp hài hòa giữa đời sống cách mạng và sáng tạo nghệ thuật. Thông qua các tác phẩm của mình, Tố Hữu không chỉ thể hiện tâm hồn và tình cảm sâu sắc mà còn phản ánh chân thực các sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc. Độc giả có thể cảm nhận được lịch sử hào hùng của đất nước qua từng trang thơ của ông. Hãy cùng phân tích bài thơ Việt Bắc để hiểu rõ hơn.
Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, khi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc - thủ đô tinh thần của dân tộc, trở về Hà Nội. Tố Hữu, một cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với Việt Bắc, đã viết nên bài thơ này trong nỗi nhớ thương và lưu luyến khi chia tay.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc, mang âm hưởng nhẹ nhàng và uyển chuyển, thấm đẫm chất trữ tình của ca dao. Trong không khí chia ly đầy cảm xúc, việc sử dụng thể thơ này để diễn tả tình cảm và hồi tưởng lại những kỷ niệm với Việt Bắc là hoàn toàn phù hợp.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt câu hỏi tu từ:
"Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?"
Những kỷ niệm giờ chỉ còn là dòng ký ức chầm chậm trôi. Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện, tạo nên một điệp khúc đầy tâm trạng. Qua đó, khung cảnh núi rừng Việt Bắc hiện lên rõ nét với núi non hùng vĩ, sông suối, mưa nguồn, và mây mù. Nổi bật trong bức tranh ấy là cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng đầy tình nghĩa giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc.
Bước chân ra đi nhưng trái tim vẫn ở lại. Người chiến sĩ bước đi trong nỗi nhớ thương. Những câu hỏi của đồng bào Việt Bắc không chỉ thể hiện sự lưu luyến mà còn khắc sâu những kỷ niệm đẹp đẽ.
Cách xưng hô "mình - ta" thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó máu thịt giữa quân và dân. Hình ảnh "áo chàm" trong câu thơ "Áo chàm đưa buổi phân li…" là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc trong buổi chia ly. Những cái nắm tay nồng ấm thay cho lời nói, thể hiện tình cảm sâu sắc.
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Trong hoàn cảnh chia ly, cái nắm tay giản dị ấy trở thành minh chứng cho tình cảm quân dân nồng thắm.
Trước tình cảm tha thiết ấy, người chiến sĩ cũng bày tỏ nỗi nhớ thương qua từng câu thơ:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa"
Những ký ức ùa về, mỗi kỷ niệm đều rõ nét như mới xảy ra. Người chiến sĩ khẳng định tấm lòng thủy chung, tình cảm dạt dào như nguồn nước mát lành. Họ nhớ đến vầng trăng trên núi, nắng chiều trên nương, những sớm tinh sương trong khói sương, và từng dòng suối, cánh rừng. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên hùng vĩ và thơ mộng.
Người chiến sĩ còn nhớ đến hương vị củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, và hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy. Những kỷ niệm ấy đã trở thành một phần máu thịt của họ. Qua những câu hỏi tu từ, ta thấy được tình cảm sâu đậm giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc.
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Chỉ qua vài câu thơ, Tố Hữu đã khắc họa chân thực bức tranh thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa. Điều đặc biệt là nhà thơ chọn miêu tả mùa đông trước, có lẽ vì đây là mùa gặp gỡ và chia ly, in sâu vào ký ức. Mùa đông với rừng xanh bạt ngàn và hoa chuối đỏ rực. Con người hiện lên trong tư thế sẵn sàng chinh phục thiên nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Xuân đến, Việt Bắc khoác lên màu trắng tinh khôi của hoa mơ, con người miệt mài lao động. Thu về, rừng phách vàng óng, tiếng ve rộn rã. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thật thơ mộng. Kết thúc bức tranh là ánh trăng thu và tiếng hát ân tình.
Chỉ qua vài câu thơ, cuộc sống như ngưng đọng lại. Thiên nhiên và con người Việt Bắc trở thành trung tâm của bức tranh bốn mùa. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như đang nhẹ nhàng lướt qua từng câu chữ.
Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên, người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động cách mạng sôi nổi:
"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà"
Ký ức ùa về khi quân giặc đến, không chỉ bộ đội mà cả núi rừng cùng chung sức đánh giặc. Rừng che chở bộ đội, bao vây quân thù. Thiên nhiên Việt Bắc trở thành đồng minh, góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Tình quân dân được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng"
Khí thế đoàn quân được miêu tả qua hình ảnh “đêm đêm rầm rập như đất rung”, “điệp điệp trùng trùng”. Ánh sao đầu súng và mũ nan tượng trưng cho bộ đội và dân quân. Ngọn đuốc thắp sáng bầu trời, thắp lên niềm tin và hy vọng. Sức mạnh đoàn quân làm đá nát lửa bay, không gì ngăn cản nổi. Tố Hữu tái hiện bối cảnh lịch sử hào hùng, đưa ta trở về thời kỳ oanh liệt của cha ông.
Sau những tháng ngày gian khổ, quân và dân ta giành chiến thắng vẻ vang. Niềm vui lan tỏa khắp nơi, từ Hòa Bình, Tây Bắc đến Điện Biên. Điều này chứng tỏ sự đoàn kết keo sơn giữa quân và dân trong những ngày tháng khó khăn.
Trong nỗi nhớ thương khi chia xa, nhà thơ ca ngợi Tổ quốc, Đảng và Chính phủ:
"Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào"
Ngọn cờ sao vàng là biểu tượng cho chiến thắng vẻ vang. Hình ảnh Bác Hồ tiếp thêm sức mạnh và ý chí cho quân dân. Chỉ có ý chí mới vượt qua được mọi chông gai, thử thách.
"Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?"
Lời thơ như lời day dứt của người dân Việt Bắc khi chia tay người chiến sĩ. Hình ảnh nhà cao, phố đông tượng trưng cho cuộc sống thành thị, trong khi núi đồi, mảnh trăng giữa rừng là ký ức về nơi núi rừng. Tác giả đặt ra câu hỏi liệu người cán bộ có quên đi quá khứ, quên đi những người đã cùng họ vượt qua gian khó. Người cán bộ đáp lại bằng tình cảm chân thành:
"Đường về đây đó gần thôi
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất núi xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng"
Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt: dù hoàn cảnh sống thay đổi, trái tim vẫn hướng về Việt Bắc, vẫn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao, họ không thể quên những rặng núi xanh mát. Một ngày không xa, họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới như thuở ban đầu.
Trong những giây phút chia ly cuối cùng, lời nhắn nhủ của người dân Việt Bắc là:
"Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người"
Hình ảnh Bác hiện lên không phải như một biểu tượng của sức mạnh, mà là một con người đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải, ung dung trên yên ngựa mỗi sáng tinh sương. Hình ảnh Bác như một ông tiên trong truyện cổ, bình dị mà phi thường. Rừng núi như dõi theo từng bước chân Người.
Kết thúc bài thơ là hai câu thơ mang âm hưởng tươi sáng:
"Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô"
Hai câu cuối mang âm hưởng tươi vui, dù viết về cảnh chia tay nhưng không gợi cảm giác buồn bã. Thay vào đó, nó mở ra một tương lai tươi sáng, huy hoàng, khi đất nước không ngừng phát triển. Khúc ca cuối là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng là lời chia tay đầy tin tưởng.
Bài thơ Việt Bắc khép lại, để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Thành công của bài thơ đến từ những nét đặc sắc về nghệ thuật. Thể thơ lục bát, quen thuộc trong dân gian, được Tố Hữu sử dụng thành công, tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, in sâu vào tâm trí. Chất văn xuôi được đưa vào thơ một cách linh hoạt, cùng với hình ảnh so sánh, ví von, tạo nên giọng điệu độc đáo.
Bài thơ không chỉ tái hiện không khí kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian, khám phá vẻ đẹp tâm hồn người quân dân: tấm lòng thủy chung, sự đoàn kết, và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. Qua đó, ta thấy được tài năng và khả năng cảm nhận tinh tế của Tố Hữu với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, cùng với những tác phẩm như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần quan trọng vào thơ ca cách mạng. Những bài thơ này không chỉ cổ vũ tinh thần chiến sĩ mà còn phản ánh một thời đại hào hùng của dân tộc, để thế hệ sau mãi tự hào.
Phân tích bài thơ Việt Bắc - Mẫu 6
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, hòa bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, cùng các cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng và nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến suốt mười lăm năm tại Việt Bắc và dự báo những biến chuyển tư tưởng trong thời bình.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia tay đầy xúc động giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến, đồng thời gợi lại những kỷ niệm anh hùng và đầy tình nghĩa trong kháng chiến. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao, dân ca, đồng thời hình tượng hóa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến thành “Ta” và “Mình”. Cuộc chia tay giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng giống như cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy lưu luyến, nhớ nhung.
Mở đầu là lời của Việt Bắc. Việc để Việt Bắc – người ở lại – lên tiếng trước là một cách thể hiện sự tế nhị, bởi trong những cuộc chia tay, người ở lại thường mang nhiều nỗi niềm hơn người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Thoạt nghe tưởng chừng đơn giản, nhưng ẩn chứa sâu sắc. Đây là lời mà trăm ngàn cặp tình nhân chia tay đều có thể nói. Tố Hữu đã mượn màu sắc của tình yêu để diễn tả tình cảm cách mạng. Đại từ “mình” và “ta” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo cảm giác xa cách. Từ “nhớ” được lặp lại ba lần, tạo nên âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thương, đầy ân tình ân nghĩa. Người về lặng im trước những câu hỏi đầy tình nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc lại hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Việc để Việt Bắc đặt câu hỏi là cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ với vài hình ảnh như “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. “Mình” và “Ta” đã cùng nhau trải qua gian khổ, cùng chia sẻ “miếng cơm chấm muối”, cùng chung lưng đấu cật chống lại kẻ thù chung với “mối thù nặng vai”.
Vẫn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ đã chuyển:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Biện pháp tu từ nhân hóa “rừng núi nhớ ai” thể hiện tình cảm sâu nặng của Việt Bắc dành cho những người kháng chiến. Khi “Mình” về, núi rừng Việt Bắc trở nên trống vắng, “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là hai món ăn quen thuộc của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Tác giả mượn cái thừa để nói lên cái thiếu, thật tinh tế! Hình thức đối lập giữa bên ngoài “hắt hiu lau xám” và bên trong “đậm đà lòng son” phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khó, lam lũ của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng họ vẫn một lòng son sắt với cách mạng.
Cuối cùng, Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Giai điệu thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu đầu tiên thể hiện đạo lý dân tộc với tư tưởng ân nghĩa, thì giai điệu thứ hai mang hơi thở cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ người ra đi không chỉ “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình”, như trong ngôn ngữ tình yêu, không chỉ “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” – cái “anh” từng gắn bó với em. Mình và Ta đã cùng nhau trải qua mười lăm năm đầy tình nghĩa và anh hùng, viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc tại Tân Trào, Hồng Thái, dưới mái đình, cây đa. Giờ đây, khi xa cách, Mình về thành thị, hãy đừng thay lòng đổi dạ với Ta, và cũng đừng quên chính mình.
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Việc để Việt Bắc đặt câu hỏi dè dặt như vậy là cách nhà thơ Tố Hữu khéo léo dự đoán những biến chuyển tư tưởng trong thời bình.
“Mình đi, mình có nhớ mình”
Đây là câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ “Việt Bắc” và cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Sau khi lắng nghe những lời ân tình từ Việt Bắc, người ra đi mới cất lời đáp lại, cũng đầy chân tình và nghĩa nặng:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
Hai đại từ “ta” và “mình” quấn quýt, xoắn xuýt lấy nhau, tạo nên sự gắn bó nồng nàn. Ý nghĩa của chúng không tách rời mà hòa làm một:
“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)
Ngôn ngữ tình yêu được thể hiện qua câu: “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người ra đi thật dạt dào, tình nghĩa với Việt Bắc thật vô tận: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Câu trả lời của người ra đi chắc chắn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy, biến tấu của giai điệu đầu tiên đã được mở rộng đến vô cùng. Đây là thủ pháp nghệ thuật để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, tái hiện bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người ra đi phải dùng những lời lẽ chân thành và nồng thắm, so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Từ “nhớ” được điệp lại nhiều lần, mỗi lần lại gợi lên vô vàn kỷ niệm thân thương giữa Ta và Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt được hồi tưởng lại, bởi trong tình yêu, cái nhỏ lại chính là cái lớn.
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1); nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)
Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.
Phân tích bài thơ Việt Bắc - Mẫu 7
Thơ Tố Hữu là tiếng lòng của dân tộc, phản ánh tâm hồn những con người gắn bó máu thịt với sự nghiệp cách mạng, quê hương và đất nước. Trong những vần thơ ấy, ta bắt gặp tình cảm chân thành, sâu lắng, xuất phát từ trái tim trung thành với nhân dân và dân tộc. Tiêu biểu nhất là bài thơ Việt Bắc, một kiệt tác của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên thật là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi được coi là cái nôi của văn học dân gian. Ông là nhà thơ lớn, người tiên phong của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông luôn gắn liền với những chặng đường lịch sử của dân tộc, mang đậm tính trữ tình chính trị, hướng đến cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn. Thơ Tố Hữu giàu nhạc điệu và đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngày 7/5/1954, chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đã mở ra một trang sử mới cho đất nước. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Pháp rút quân. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị chuyển các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong bối cảnh ấy, bài thơ Việt Bắc ra đời, ghi dấu cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và mảnh đất Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu dùng giọng thơ trữ tình, tha thiết, thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp đại từ “mình-ta”, không chỉ là lời đối đáp giữa đôi lứa mà còn là cuộc trò chuyện giữa người cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Cách xưng hô này vừa mang tính dân tộc, vừa thể hiện sự gắn bó sâu sắc, đầy lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ đã làm tình cảm giữa quân và dân thêm keo sơn. Như Chế Lan Viên từng viết: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. Nỗi nhớ ấy lan tỏa khắp núi rừng, thấm đẫm tình người.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều cảm xúc, có thể là người ra đi hoặc người ở lại. Từ láy “tha thiết” và “bâng khuâng” khắc họa rõ nét tâm trạng lưu luyến. Hình ảnh “áo chàm” tượng trưng cho người dân Việt Bắc giản dị, hiền hòa, đang tiễn đưa người chiến sĩ. Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” tạo khoảng lặng, để cảm xúc ngập tràn trong giây phút chia ly.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đặt dấu phẩy, tạo khoảnh khắc ngưng đọng để kỷ niệm ùa về. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “miếng cơm chấm muối” là ẩn dụ cho gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” thổi hồn vào thiên nhiên, khiến nỗi nhớ trở nên da diết. “Trái bùi để rụng”, “măng mai để già” thể hiện nỗi buồn khi người cách mạng rời xa, để lại núi rừng trống vắng.
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ được khắc họa rõ nét qua hình ảnh “những nhà” và nghệ thuật đối lập “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Dù gian khổ, tình quân dân vẫn sắt son. Những địa danh “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” gợi nhớ kỷ niệm hào hùng, khẳng định sự gắn bó giữa người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, tạo nên sự đồng điệu trong tâm hồn. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” thể hiện tình cảm thủy chung, son sắt. Biện pháp so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” khẳng định tình cảm sâu nặng, không thể vơi cạn. Nhà thơ so sánh nỗi nhớ với nỗi nhớ người yêu, khiến tình cảm cách mạng trở nên dịu ngọt, tha thiết. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” và “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” gợi lên không gian thơ mộng, ấm áp của Việt Bắc. Điệp ngữ “nhớ từng” như lật giở từng trang ký ức, đưa người đọc trở về với những địa danh đầy kỷ niệm.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” không chỉ là lời tâm sự chân thành mà còn là thông điệp sâu sắc từ người ra đi gửi đến những người ở lại, từ người chiến sĩ cách mạng đến mảnh đất Việt Bắc anh hùng. Cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng làm nổi bật những ân tình sâu nặng. Hai tiếng “thương nhau” tuy giản dị nhưng chứa đựng biết bao tình cảm sâu lắng. Hình ảnh “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã khắc họa rõ nét sự đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít giữa quân và dân, tạo nên sức mạnh đoàn kết dẫn đến chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” thật đẹp và đầy xúc động, từ “cháy” giàu hình ảnh, nhấn mạnh sự vất vả của người mẹ trong kháng chiến. Điệp ngữ “Nhớ sao” cùng những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc như lớp học i tờ, những giờ liên hoan, tiếng ca vang núi đèo, đã tạo nên không khí vui tươi, thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng. Đoạn thơ giàu nhạc điệu, là khúc ca ngợi cuộc sống đẹp đẽ, nghĩa tình sâu nặng trong lòng người chiến sĩ và núi rừng Việt Bắc. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa, gợi lên cảm xúc mênh mang, lan tỏa.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật sống động và đẹp đẽ. Câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta” chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ nỗi nhớ thương da diết. Cụm từ “những hoa cùng người” như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng của thiên nhiên, tạo nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc với “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo cảm giác ấm áp xua tan cái lạnh cắt da cắt thịt.
Con người hiện lên trong tư thế lao động, đẹp đẽ và kỳ vĩ, như chiếm lĩnh đỉnh cao. Hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, thơ mộng và ấm áp. Hình ảnh con người “chuốt từng sợi giang” thể hiện sự cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Mùa hạ hiện lên sinh động với tiếng ve rộn rã và sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng. Khép lại bức tranh là mùa thu hòa bình, với vầng trăng rực rỡ, tượng trưng cho cách mạng tháng Tám thành công. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình, vừa khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, không thể không nhắc đến những ngày đầu kháng chiến, khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” thể hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” và “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa thiên nhiên và con người trong kháng chiến. Thiên nhiên trở thành sinh thể có linh hồn, chở che bộ đội, bủa vây quân thù. Hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” giàu sức gợi, thể hiện sức mạnh dân tộc. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang” và các địa danh gắn liền với chiến công, cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh sinh động cùng các biện pháp tu từ đã khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng thời bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc với núi rừng Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa mảnh đất Việt Bắc, chiến khu Việt Bắc với nhân dân và đất nước. Biện pháp so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã khắc họa sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài vô tận, kỳ vĩ và hào hùng.
Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” kết hợp ba biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhớ đến “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu và “súng ngửi trời” của Quang Dũng, thể hiện tầm cao của người lính. Hình ảnh đoàn dân công “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá” gợi nhớ thành ngữ “Chân cứng đá mềm”, khẳng định sức mạnh và sự bền bỉ của con người Việt Nam trước chiến tranh. Trong đêm tối, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về chiến thắng. Cuối cùng, tin vui chiến thắng lan tỏa khắp đất nước, những người chiến sĩ trở về với niềm vui toàn thắng.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi rực rỡ với nắng vàng, cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ trở về thủ đô, miền Bắc đổi mới với chính sách mới. Đoạn thơ cũng là lời ngợi ca công lao vĩ đại của Bác Hồ, lời tri ân sâu sắc với núi rừng Việt Bắc. Dù đã về thủ đô, trong tim người chiến sĩ vẫn luôn dành một góc cho Việt Bắc, cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết, kết hợp giữa khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, về những con người anh hùng. Thông qua khúc nhạc hào hùng ấy, nhà thơ bộc lộ tình cảm sâu đậm dành cho núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Tác giả nhắn nhủ người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.
Việt Bắc phân tích - Mẫu 8
Nếu Phan Bội Châu là người mở đường cho thơ ca trữ tình chính trị, thì Tố Hữu chính là người đưa nó lên đỉnh cao, trở thành hiện tượng văn học có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ ca cách mạng. Ngay từ khi còn trẻ, Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ và chiến sĩ cách mạng tận tụy, cả trong sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ năm 18 tuổi và việc trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất thời bấy giờ đã tạo nền tảng cho sự nghiệp sáng tác vẻ vang của ông. Thơ Tố Hữu luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng của cách mạng, phục vụ và đóng góp lớn cho kháng chiến, như những tư liệu lịch sử được viết bằng ngôn từ nghệ thuật, kết tinh giữa tính trữ tình và tính chính trị. Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ lý tưởng của văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái chung, tình yêu lớn, thể hiện lòng trung thành với cách mạng, ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu “Từ ấy” đưa tên tuổi Tố Hữu vụt sáng trên thi đàn, thì “Việt Bắc” chính là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông, thể hiện sự trưởng thành toàn diện về tư tưởng, phong cách và bút lực.
“Việt Bắc” ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Tháng 7/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Pháp rút quân, miền Bắc bước vào thời kỳ hòa bình, chuẩn bị khôi phục đất nước sau chiến tranh. Đến tháng 10/1954, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định dời cơ quan đầu não từ Việt Bắc về Hà Nội. Sau gần 15 năm gắn bó, chia ngọt sẻ bùi, những người chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và con người Việt Bắc để trở về miền xuôi. Nhân sự kiện này, Tố Hữu sáng tác “Việt Bắc” như một lời tri ân sâu sắc, đồng thời là bản tổng kết kháng chiến, điểm lại những dấu mốc lịch sử quan trọng trong 10 năm kháng chiến chống Pháp. Ở phương diện này, “Việt Bắc” có nét tương đồng với “Bình Ngô đại cáo”, dù bản chất hai tác phẩm khác nhau.
Khung cảnh chia tay được mở ra bằng những vần thơ đầy ân tình, lưu luyến, tái hiện cuộc chia ly giữa người ra đi và người ở lại, những con người đã cùng nhau sống và chiến đấu trong suốt thời gian dài, gắn bó sâu nặng, mang trong mình những kỷ niệm khó quên.
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Người ở lại lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ thể hiện sự lưu luyến khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau thời gian dài gắn bó, mà còn khéo léo gợi lại kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Tình cảm lưu luyến, buồn bã trong buổi chia ly không chỉ của người ở lại mà còn của cả người ra đi, khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Lối đối đáp “ta-mình”, cách xưng hô như buổi chia tay của đôi lứa yêu nhau, mang đến cảm xúc mới lạ, đậm chất Tây Bắc, thiết tha, ân tình, thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa hai bên. Người đọc dễ dàng hòa vào bầu trời ký ức, nơi hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên đối đáp, như những lời tâm tình đầy bịn rịn.
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Người ở lại nhắc nhở người ra đi về những kỷ niệm sâu nặng trong chặng đường chiến đấu dài lâu. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt, thiếu thốn cái ăn, cái mặc “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Nhưng khó khăn không thể đánh gục ý chí cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta “trám bùi”, “măng mai”, những con người “đậm đà lòng son” và núi rừng thủy chung từ thuở kháng Nhật, Việt Minh, với những địa danh như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Người ra đi khẳng định tình cảm sâu nặng với Việt Bắc, nhớ thương như nhớ người yêu, nghĩa tình như nước chảy trong nguồn. Nỗi nhớ ấy bao trùm cả thiên nhiên, con người, và những kỷ niệm khó quên về một vùng đất ân tình.
Nỗi nhớ của người ra đi còn được thể hiện qua bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Mùa đông hiện lên với “rừng xanh” thăm thẳm và “hoa chuối đỏ tươi”, làm dịu đi cái lạnh lẽo của núi rừng. Hình ảnh con người hiên ngang với “dao gài thắt lưng” dưới ánh nắng ấm áp. Mùa xuân với “mơ nở trắng rừng” và người đan nón tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Mùa hè rộn rã tiếng ve, “rừng phách đổ vàng”, và cô em gái hái măng. Mùa thu với “trăng rọi hòa bình”, tượng trưng cho chiến thắng và sự đoàn tụ. Bức tranh tứ bình là điểm nhấn đặc sắc của tác phẩm, thể hiện tài năng quan sát tinh tế và tình cảm sâu nặng của Tố Hữu với Việt Bắc.
Nỗi nhớ của người ra đi không chỉ về cảnh sống, sinh hoạt mà còn về quãng đường chiến đấu và hy sinh của cách mạng. Tố Hữu không miêu tả chi tiết các trận đánh, nhưng qua những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết, ông đã gợi nhắc về thời kỳ chiến đấu oanh liệt của cách mạng giữa núi rừng Tây Bắc.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về”
|Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Từ những ngày đầu gian khổ khi “giặc đến giặc lùng”, nhờ sự đoàn kết một lòng của quân dân, ý chí chiến đấu kiên cường, rừng núi từ chỗ hiểm trở, khó khăn, đã trở thành người bạn đồng hành, thành “lũy sắt dày” che chở bộ đội và bao vây quân thù, góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Qua thời gian, lực lượng ta ngày càng mạnh mẽ, anh dũng, tiến dần đến chiến thắng cuối cùng.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”
Phần cuối đoạn trích, dù chưa phải kết thúc tác phẩm, nhưng đánh dấu chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1940 đến 1954. Mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước, dù bị chia cắt hai miền, nhưng là động lực lớn cho công cuộc thống nhất. Miền Bắc bước vào xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định niềm tin vào Đảng, Bác Hồ và tương lai tươi sáng của dân tộc.
“Việt Bắc” là tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong sáng tác của Tố Hữu và văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết, lời thơ giàu cảm xúc, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống. Tác phẩm thể hiện sự lưu luyến trong phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng, đồng thời đúc kết giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, khẳng định lòng tự hào, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 9
Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào, mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp tưởng tượng giữa kẻ ở và người đi như đôi lứa yêu nhau đầy lưu luyến, cùng lối xưng hô “Mình – Ta” truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện chân thực cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng, cùng những tình cảm sâu nặng của con người trong kháng chiến.
Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời “Thủ đô gió ngàn” về “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thủy chung giữa miền ngược và miền xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ được phân tích nằm ở phần đầu, tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, nay đã trở thành kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.
Bài thơ mở ra trong khung cảnh chia tay, với tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến của hai người từng gắn bó sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với sự đổi thay, gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó và cội nguồn tình nghĩa.
Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Người ra đi cũng chung tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người khác mà còn là nhớ chính mình: “Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã khơi dậy quá khứ đầy kỷ niệm, mở ra dòng chảy của nỗi nhớ thương. Đối đáp ở đây là thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm lên tất cả là nỗi nhớ thấm đượm, lan tỏa lên cỏ cây, mây nước. Chỉ riêng đoạn thơ này đã có 35 từ “nhớ”. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng, đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Trong niềm hoài niệm suốt “mười lăm năm thiết tha mặn nồng”, có mấy bức tranh hiện thực hòa quyện, khó tách rời: nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa, nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc, con người, cuộc sống Việt Bắc, và những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.
Trước hết, bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình thủy chung, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Lời thơ nghe như ca dao, phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, và ân tình, thủy chung biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ với bốn chữ “mình”, bốn chữ “nhớ” và một chữ “ta” hòa quyện, quấn quýt như hình với bóng, khiến đạo lý ân tình thủy chung thêm sâu nặng.
Sau khúc dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi, như một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết “Tiếng ai tha thiết bên cồn”, bước chân “bồn chồn”, và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối “bâng khuâng… bồn chồn” làm tăng thêm nỗi nhớ thương vấn vương. Màu “áo chàm” vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người Việt Bắc không phai, đậm đà như lòng thủy chung sắt son. “Cầm tay… hôm nay” không phải là không biết nói gì, mà vì lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.
Sau khi “dàn cảnh” khung cảnh chia tay, Tố Hữu để người ở lại lên tiếng. Chỉ 12 câu thơ nhưng xoáy sâu vào kỷ niệm những ngày cách mạng còn “trứng nước”, gian nan nhưng đầy nghĩa tình: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. “Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực từ cuộc kháng chiến đầy khó khăn. “Mối thù nặng vai” cụ thể hóa mối thù với quân xâm lược. Hai hình ảnh đối xứng, kết hợp tạo ý nghĩa mới: tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ về chiến khu Việt Bắc, với những địa danh lịch sử, gian nan cơ cực nhưng thắm thiết nghĩa tình: “Hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son”, cùng “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng sống dậy được sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc. Trong đoạn thơ ngắn, có 8 chữ “mình” và 7 chữ “nhớ”, với câu thơ 3 chữ “mình” luyến láy, chuyển nghĩa tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng đã đi vào lịch sử, nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
Tố Hữu để người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa đựng nỗi nhớ về quê hương cách mạng khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người từng cùng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “đinh ninh lời thề” sau trước có nhau, nên câu trả lời của họ chính là tiếng đồng vọng từ cõi lòng người ở lại:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã thể hiện rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi đáp lại: “Mình đi, mình lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hòa, gắn bó, thắm thiết. Nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – cặp từ hô ứng nhấn mạnh sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.
Trong hồi tưởng, trái tim người ra đi vang lên tiếng gào thét của nỗi nhớ, với muôn vàn sắc thái tươi đẹp: Có nỗi nhớ lãng mạn:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương
Có nơi nhớ ấm áp:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về
Nhưng nỗi nhớ da diết nhất là những ngày tháng đắng cay ngọt bùi của thời kỳ "hàn vi", thấm đẫm tình đồng chí, đồng bào, từng đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau:
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi
…
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Củ sắn lùi thì "chia", bát cơm thì "sẻ", chăn sui thì "đắp cùng". Đúng vậy, vẻ đẹp nhất nằm ở tình người, ở sự sẻ chia, cùng nhau trải qua mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng thêm đẹp đẽ trong cuộc sống đầy khó khăn và thiếu thốn; càng thêm sắt son và thấm thía trong những thử thách cam go. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cuộc sống bình dị và sinh hoạt thường ngày của con người, điều hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ đẹp, chứa đựng những rung động chân thành, tình cảm nồng ấm của nhà thơ với cuộc sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn, "bản khói cùng sương" tưởng chừng lạnh lẽo, hoang vu, nhưng sau đó với "sớm khuya bếp lửa người thương đi về", thì lại ấm áp vô cùng. "Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê" chỉ là những địa danh, nhưng khi đi kèm với hai chữ "vơi đầy", thì cảnh vật bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, thể hiện sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.
Giữa muôn vàn nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng đong đầy tình nghĩa cách mạng và kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.
Việt Bắc hiện lên không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng, mà còn là thiên nhiên đã cùng con người chiến đấu và ghi lại biết bao chiến tích anh hùng:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng…
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều, trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên gắn liền với bóng dáng con người, làm cho cảnh vật bớt đi sự hoang sơ, hiu hắt và trở nên gần gũi, thân thiết hơn với con người. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu đã tạo nên bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo thành một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động, đa dạng: Khi lắng đọng, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp của con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ, sinh động hơn.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng, chuẩn bị cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch "Điện Biên lừng lẫy địa cầu":
Những đường Việt Bắc của ta
….
Đèn pha bột sáng như ngày mai lên
Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ dạt dào, sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.
Những câu thơ tái hiện khung cảnh "Trung ương Chính phủ luận bàn việc công" trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị, trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chỉ huy cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh, rực rỡ, ngời sáng của "Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng".
Phần đầu tiên của bài thơ khép lại bằng sáu câu thơ cô đọng, tóm lược hình ảnh Việt Bắc: "Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa", nơi khởi nguồn của cuộc kháng chiến. Việt Bắc không chỉ là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ khắp mọi miền Tổ quốc, mà còn là điểm tựa tinh thần vững chắc, tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào nơi những vùng đất còn chìm trong "u ám quân thù; đau đớn giống nòi".
Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã khắc họa rõ nét hình ảnh Việt Bắc – "quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa", một thời kỳ đầy gian khổ nhưng thấm đẫm tình người. Bài thơ không chỉ làm nổi bật truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà còn khẳng định truyền thống thủy chung son sắt, "uống nước nhớ nguồn".
................Xem chi tiết tại file tải dưới đây.............
- Bộ Sưu Tập Tranh Tô Màu Công Chúa Đáng Yêu Dành Cho Bé Gái
- Phân tích nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi: 5 dàn ý chi tiết và 27 bài văn mẫu đặc sắc kèm sơ đồ tư duy
- Phân tích nhân vật bé Thu trong truyện Chiếc lược ngà (Sơ đồ tư duy) - 5 Dàn ý & 27 bài văn mẫu lớp 9 đặc sắc nhất
- Bài văn tả mẹ lớp 5: 2 Dàn ý chi tiết và 53 bài văn mẫu Tả người thân hay nhất
- Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Kèm sơ đồ tư duy) - 3 Dàn ý chi tiết & 28 bài văn mẫu xuất sắc nhất