Phân tích đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo: 3 dàn ý chi tiết và 9 bài mẫu đặc sắc
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi với 9 bài mẫu độc đáo và ấn tượng nhất. Những bài phân tích này sẽ cung cấp cho học sinh nguồn tài liệu tham khảo phong phú, giúp trau dồi kiến thức và nâng cao kỹ năng viết văn phân tích đoạn thơ một cách sâu sắc và chuyên nghiệp.

Đoạn 1 Bình Ngô đại cáo không chỉ là lời khẳng định đầy tự hào về đất nước mà còn thể hiện triết lý sống nhân nghĩa, tạo nên nền văn hiến lâu đời. Dưới đây là 9 bài phân tích sâu sắc và chi tiết về đoạn 1, giúp bạn hiểu rõ hơn về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
Dàn ý số 1: Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
a) Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự tài ba, nhà văn, nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
- Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn đanh thép của dân tộc.
- Dẫn dắt và nêu vấn đề: Nội dung đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo.
b) Thân bài: Phân tích nội dung đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
* Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa.
- “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa người với người dựa trên tình thương và đạo lý.
- Nhân: Con người, tình người (theo Khổng Tử)
- Nghĩa: Hành động chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
- “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
- Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” - mang lại cuộc sống yên bình, hạnh phúc cho nhân dân.
- Cụ thể hóa với nội dung mới: “trừ bạo” - diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược vì nhân dân.
-> Tác giả vạch trần luận điệu gian trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
=> Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tinh túy giữa nhân nghĩa và thực tiễn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - một cuộc khởi nghĩa vì nhân dân, diệt trừ bạo tàn.
* Luận điểm 2: Lời tuyên ngôn độc lập.
- Nguyễn Trãi khẳng định tư cách độc lập của nước Đại Việt thông qua những dẫn chứng thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Cương vực lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
- Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
-> Bằng cách liệt kê, tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục, khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, một chân lý không thể chối cãi.
=> Nguyễn Trãi đã bổ sung ba luận điểm quan trọng: văn hiến, phong tục, lịch sử, để chứng minh quyền độc lập, tự do của đất nước, vượt xa bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
* Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.”
Nguyễn Trãi sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục bi thảm của kẻ chống lại chân lý:
- Lưu Cung - vua Nam Hán thất bại trong âm mưu thu phục Đại Việt.
- Triệu Tiết - tướng nhà Tống chịu thất bại nặng nề khi cầm quân đô hộ nước ta.
- Toa Đô, Ô Mã,... là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi xâm lược.
=> Lời cảnh cáo, răn đe đanh thép dành cho những kẻ bất nhân bất nghĩa dám xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền dân tộc ta, đồng thời thể hiện niềm tự hào về những chiến công oanh liệt của nhân dân Đại Việt.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Ngôn ngữ đanh thép, sắc bén
- Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
- Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,...
- Sử dụng những câu văn song hành,…
c) Kết bài
- Khái quát lại nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
Dàn ý số 2: Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
1. Mở bài
Qua "Bình Ngô Đại Cáo", Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước qua tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp và đầy tính nhân văn. Đoạn đầu tác phẩm chính là minh chứng rõ nét nhất cho tư tưởng ấy.
2. Thân bài
- “Việc nhân nghĩa” là những hành động chính nghĩa, lấy dân làm trung tâm, vì lợi ích của nhân dân.
- Trước hết, việc nhân nghĩa phải bắt đầu từ việc trừ bạo, diệt trừ những thế lực tàn ác.
- Khẳng định nền văn hiến lâu đời, chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán độc đáo và nhân tài của Đại Việt.
- Đại Việt qua các thời đại vẫn kiên cường, hiên ngang trên trường quốc tế.
- Sự thất bại thảm hại của những kẻ bất nhân, làm việc phi nghĩa xâm lược.
3. Kết bài
Khái quát giá trị tác phẩm: Ngôn ngữ đanh thép, tứ thơ hùng hồn, mạnh mẽ cùng trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một kiệt tác văn học, trở thành bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.
Dàn ý số 3: Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
I. Mở bài
- Khái quát những nét nổi bật về tác giả Nguyễn Trãi.
- Giới thiệu tư tưởng chủ đạo của Đại cáo Bình Ngô.
II. Thân bài
- Tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt và kết nối toàn bộ tác phẩm.
- Đại Việt là quốc gia độc lập, có nền văn hiến và lịch sử riêng biệt.
- Nhấn mạnh sự thất bại tất yếu của kẻ thù xâm lược qua các thời kỳ lịch sử.
III. Kết bài
- Tóm tắt nội dung và nghệ thuật đặc sắc của Đại cáo Bình Ngô.
- Liên hệ với các áng thiên cổ hùng văn khác như Nam quốc sơn hà, Tuyên ngôn độc lập.
- Thể hiện suy nghĩ cá nhân khi phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo.
Có thể thấy, Đại cáo Bình Ngô đã thể hiện rõ nét tư tưởng nhân nghĩa, lấy nhân dân làm trọng tâm. Nước ta là dân tộc “nhân nghĩa” khi dùng sức mạnh của lòng dân để đánh bại kẻ thù tàn bạo. Với nghệ thuật đặc sắc và giọng điệu hùng tráng, tác phẩm khẳng định lòng yêu nước thiết tha của Nguyễn Trãi, đồng thời củng cố tinh thần dân tộc và lòng yêu nước mãnh liệt trong mỗi người…
Sơ đồ tư duy đoạn 1 Bình Ngô đại cáo: Hướng dẫn chi tiết và súc tích

Phân tích đoạn đầu Bình Ngô đại cáo - Mẫu 1
Nhắc đến những nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại, chúng ta không thể bỏ qua Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận tài ba với các tác phẩm như "Quân trung từ mệnh tập", các chiếu biểu thời nhà Lê, và đặc biệt là Bình Ngô đại cáo. Những áng văn này thể hiện rõ lòng yêu nước, thương dân của ông.
Ngay từ câu mở đầu, tư tưởng nhân nghĩa đã được bộc lộ rõ:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
"Nhân nghĩa" là tình thương yêu giữa con người, là hành động vì lợi ích của nhân dân và cộng đồng. Đồng thời, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn trọng và bảo vệ lẽ phải. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Nguyễn Trãi coi "nhân nghĩa" là "yên dân", "trừ bạo", đặt cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Con người phải yêu thương nhau, cùng nhau chiến đấu bảo vệ đất nước, thoát khỏi cảnh lầm than. Để làm được điều đó, phải tiêu diệt những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược như giặc Minh đang đàn áp đất nước ta. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm kiên cường.
Để khẳng định chủ quyền dân tộc, tác giả đưa ra những dẫn chứng thuyết phục:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Nền văn hiến lâu đời, được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử, đã tạo nên bản sắc riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân định rõ ràng về lãnh thổ, núi sông, và phong tục tập quán đặc trưng của hai miền Nam Bắc, khẳng định đất nước ta là một quốc gia có chủ quyền. Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại nước ta ngang hàng với các triều đại Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên, thể hiện lòng tự hào dân tộc sâu sắc.
Ông nhắc lại những chiến thắng lừng lẫy của Đại Việt như lời khẳng định sự thất bại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những tướng lĩnh của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị đánh bại bởi tài năng của các tướng lĩnh nước ta. Chúng vì tham lam, hiếu chiến nên phải chịu hậu quả thảm hại. Những sự kiện này được ghi chép trong sử sách, lưu truyền muôn đời. Phép đối, so sánh ngang hàng giữa các triều đại nước ta và phương Bắc, cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, đã làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Ông vạch trần tội ác của quân Minh xâm lược:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".
Quân Minh lợi dụng sự rối ren của nhà Hồ để xâm lược nước ta. Chúng giày xéo lên đất nước, khiến nhân dân căm phẫn. Bọn gian thần vì lợi ích cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù, bán rẻ lợi ích dân tộc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể tha thứ:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi".
Nhân dân ta phải chịu đựng cảnh lầm than dưới ách đô hộ tàn bạo của quân Minh. Chúng thiêu sống, chôn vùi dân ta trong đau khổ, dùng mọi thủ đoạn lừa lọc và áp bức. Thuế má nặng nề, bóc lột đến kiệt quệ, khiến đất trời như tan nát trước sự tàn ác của kẻ thù.
Không chỉ vậy, chúng còn tàn phá môi trường sống của dân tộc ta:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt".
Dưới ách thống trị của quân Minh, nhân dân ta bị đẩy vào những nơi nguy hiểm như biển sâu, rừng độc để tìm kiếm ngọc trai, vàng bạc. Họ trở thành nô lệ, phải đối mặt với cá mập, thuồng luồng, và các loài thú dữ. Quân Minh vơ vét sản vật quý hiếm, bóc lột đến tận xương tủy, biến dân ta thành công cụ phục vụ cho tham vọng vô độ của chúng.
Không chỉ đẩy dân ta vào cảnh chết chóc, chúng còn tàn phá cả thiên nhiên:
"Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi".
Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được"?
Tội ác của quân Minh nhiều đến mức trúc Nam Sơn không đủ để ghi chép, nước Đông Hải không đủ để rửa sạch. Trời đất cũng không thể dung tha, huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn nhấn mạnh sự tàn bạo của kẻ thù, khiến chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã gây ra bao đau thương cho dân tộc.
Hình ảnh đối lập giữa người dân vô tội bị áp bức và kẻ thù tàn bạo, cùng giọng điệu đanh thép, đã thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn, tố cáo tội ác của quân Minh, minh chứng cho nỗi khổ cực mà nhân dân ta phải chịu đựng suốt hai mươi năm dưới ách đô hộ.
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô Đại cáo - Mẫu 2
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của ông được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, một bản tuyên ngôn đanh thép về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề “Bình Ngô đại cáo” gợi lên tâm thế hào hùng: “Bình” nghĩa là dẹp yên, “Ngô” chỉ giặc Minh, và “Đại cáo” là bài cáo lớn, mang dấu ấn trọng đại về sự kiện lịch sử vĩ đại của đất nước.
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo, ta thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt, được Nguyễn Trãi thể hiện rõ ràng và sâu sắc. Đoạn mở đầu bài thơ đã khắc họa rõ nét tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào và tự tôn dân tộc.
Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ngay từ hai câu đầu:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng cách khẳng định đanh thép về tư tưởng nhân nghĩa. Theo Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người, dựa trên tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu của mọi cuộc khởi nghĩa, vì con người và lẽ phải. Nguyễn Trãi kế thừa tư tưởng này, coi “yên dân” là mục tiêu tối thượng, đem lại cuộc sống yên ổn, hạnh phúc cho nhân dân. Ông luôn coi dân là gốc, là hoài bão suốt đời mình theo đuổi.
Nhân nghĩa còn là “trừ bạo”, tiêu diệt những kẻ áp bức, bóc lột, mang lại bình yên cho dân. Trên phạm vi rộng hơn, “trừ bạo” là chống lại giặc ngoại xâm. Nguyễn Trãi khẳng định ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm kiên cường, nhằm giải phóng nhân dân khỏi cảnh lầm than, đem lại no ấm, hạnh phúc.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không chỉ là mối quan hệ giữa người với người mà còn mở rộng thành mối quan hệ giữa các dân tộc, thể hiện lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt.
8 câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền dân tộc và giá trị của tự do bằng cách nhắc lại trang sử hào hùng của đất nước với niềm tự hào sâu sắc.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nguyễn Trãi đưa ra dẫn chứng xác thực về nền văn hiến lâu đời của Đại Việt, tồn tại qua hàng nghìn năm lịch sử. Từ “xưng” thể hiện niềm tự hào, khẳng định vị thế và chỗ đứng của dân tộc ta trên trường quốc tế.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà còn nhấn mạnh nền văn hiến, lịch sử, phong tục và nhân tài của đất nước. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo toàn diện hơn cả về nội dung và tư tưởng. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm. Phong tục, văn hóa Bắc Nam cũng khác biệt, không thể nhầm lẫn hay xóa bỏ.
Khi nhắc đến các triều đại trị vì, Nguyễn Trãi đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc, vừa liệt kê, vừa đối đầu. Điều này thể hiện lòng tự hào dân tộc mãnh liệt và ý thức yêu nước sâu sắc. Ông tin tưởng vào các thế hệ anh hùng, hào kiệt của đất nước, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và niềm tin vào tương lai dân tộc.
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc và thể hiện lòng tự tôn, tự hào, nhà thơ đã sử dụng biện pháp liệt kê để nêu lên kết cục của những kẻ đi ngược lại chân lý. Những dẫn chứng từ các triều đại lịch sử vô cùng thuyết phục: Lưu Cung, vua Nam Hán, thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết, tướng nhà Tống, thua nặng khi đem quân xâm lược; Toa Đô, Ô Mã, tướng nhà Nguyên, cũng phải bỏ mạng tại nước ta. “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi. Đây là lời cảnh cáo đanh thép, răn đe kẻ phi nghĩa khi xâm phạm lãnh thổ nước ta. Nguyễn Trãi tuyên bố: bất kỳ kẻ nào dám xâm chiếm Đại Việt đều sẽ nhận lấy thất bại ê chề. Cuộc chiến bảo vệ dân tộc là cuộc chiến chính nghĩa, và chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén và cách diễn đạt cân xứng qua những câu văn biền ngẫu, Nguyễn Trãi đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử vĩ đại của nước Đại Việt.
Đoạn mở đầu Bình Ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, khẳng định chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, dẫn chứng xác thực và lý lẽ chặt chẽ đã thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, độc lập chủ quyền, và tư tưởng lấy dân làm gốc. Bình Ngô đại cáo được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, qua đó chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử và văn hiến của đất nước.
Phân tích đoạn 1 Đại Cáo Bình Ngô - Mẫu 3
Từ xưa đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lịch sử dân tộc còn ghi nhận hai áng thiên cổ hùng văn khác: Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mỗi tác phẩm, dù ra đời trong hoàn cảnh khác nhau, đều mang những giá trị tư tưởng tiến bộ và sâu sắc. Nếu Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền lãnh thổ, và bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đề cao quyền con người, thì Bình Ngô đại cáo lại nhấn mạnh tư tưởng nhân nghĩa: yêu dân, chăm lo cho dân, và diệt trừ bạo loạn để nhân dân được sống trong ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn 1 của tác phẩm.
Nguyễn Trãi đã nâng tư tưởng “nhân nghĩa” lên một tầm cao mới, không chỉ là tình thương yêu giữa con người mà còn là hành động vì nhân dân, mong muốn nhân dân được sống trong yên bình, hạnh phúc. “Việc nhân nghĩa” là phải lo cho dân, vì dân, lấy dân làm gốc. Trong thời đại đó, việc nhân nghĩa trước hết là phải diệt trừ bạo loạn, đánh đuổi giặc xâm lược để bảo vệ bờ cõi, giúp nhân dân yên tâm lao động, xây dựng đất nước. Đó là tinh thần dân tộc cao cả, xuất phát từ tình yêu thương và sự quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của người dân.
Sau khi khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến lâu đời của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"
Nước ta có nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán riêng biệt, được xây dựng qua nhiều triều đại như Triệu, Đinh, Lý, Trần. Nguyễn Trãi không chỉ tự hào về truyền thống văn hiến mà còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của Đại Việt so với các triều đại phương Bắc như Hán, Đường, Tống, Nguyên.
Truyền thống đấu tranh anh dũng của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê có thể sánh ngang với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt tuy nhỏ bé về lãnh thổ nhưng tinh thần không hề nhỏ, luôn kiên cường, độc lập, không chịu khuất phục trước bất kỳ thế lực nào. Đất nước ta cũng sản sinh ra nhiều hào kiệt, nhân tài văn võ song toàn, góp phần xây dựng nên một Đại Việt hùng mạnh, luôn giành chiến thắng trên mọi chiến trận:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”
Trước sự xâm lược ngang ngược của kẻ thù, tinh thần chiến đấu của Đại Việt càng thêm quyết liệt. Những chiến công lẫy lừng như bắt sống Toa Đô, giết chết Ô Mã được Nguyễn Trãi kể lại với niềm tự hào sâu sắc. Những kẻ tự xưng hùng mạnh, làm điều phi nghĩa cuối cùng cũng phải nhận lấy thất bại ê chề. Qua đó, Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào sức mạnh của dân tộc và chính nghĩa, luôn chiến thắng trước mọi hành động bạo tàn.
Đoạn thơ ngắn gọn nhưng đã khắc họa rõ nét tư tưởng nhân nghĩa, khẳng định nền độc lập và tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc. Ngôn ngữ đanh thép, giọng điệu hào hùng cùng trái tim yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi đã tạo nên một kiệt tác văn học, trở thành bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo - Mẫu 4
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, có công lớn trong việc đánh đuổi giặc Minh, mang lại thái bình cho đất nước. Ông còn là nhà văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm đồ sộ cả chữ Hán và chữ Nôm, như Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, và Ức Trai thi tập. Đại cáo bình Ngô được coi là “Thiên cổ hùng văn”, một bản tuyên ngôn đanh thép về nền độc lập và vị thế dân tộc. Đoạn đầu tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu cao cả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi mở đầu bằng việc nêu luận đề chính nghĩa: “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từ đó đất nước mới ổn định và phát triển. Ông khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu của mọi thời đại, là sức mạnh và sinh khí của quốc gia.
Nguyễn Trãi tài tình khi nhận ra và khai sáng vấn đề cốt lõi này. “Trừ bạo” là diệt trừ quân Minh, những kẻ bóc lột và hành hạ nhân dân. Chúng thẳng tay cướp bóc, đẩy dân ta vào cảnh lầm than. “Yên dân” và “trừ bạo” là hai việc hỗ trợ lẫn nhau, vì không yên dân thì khó trừ bạo. Quan tâm đến dân cũng đồng nghĩa với việc phải đánh đuổi kẻ thù, diệt trừ bạo ngược, cụ thể là quân Minh đang giày xéo lên cuộc sống nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không chỉ là đạo đức mà còn là lý tưởng xã hội: chăm lo cho nhân dân được sống hạnh phúc, yên bình. Ông nâng lý tưởng này lên thành chân lý, khẳng định giá trị cốt lõi một cách ngắn gọn nhưng sâu sắc. Nhân nghĩa còn gắn liền với bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nguyễn Trãi đưa ra quan niệm đầy đủ nhất về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập. So với Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo bổ sung thêm bốn yếu tố: văn hiến, lịch sử, phong tục và nhân tài. Đây là sự sáng tạo thể hiện trí tuệ của Nguyễn Trãi. Nền văn hiến ngàn năm, cương thổ rõ ràng, phong tục khác biệt, và các triều đại độc lập đã khẳng định chủ quyền của Đại Việt. Ông đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với Hán, Đường, Tống, Nguyên, thể hiện lòng tự hào dân tộc mãnh liệt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi khái quát toàn diện về nền độc lập của quốc gia. So với Nam Quốc Sơn Hà, Bình Ngô đại cáo toàn diện hơn cả về nội dung và tư tưởng. Ông còn sử dụng cách viết song đôi giữa Đại Việt và Trung Quốc, khẳng định sự ngang bằng về bờ cõi, phong tục, và các triều đại hùng mạnh.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính hiển nhiên, khẳng định sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”. Nghệ thuật biền ngẫu được khai thác triệt để, tăng sức thuyết phục. Phần còn lại của đoạn đầu là những chứng cớ lịch sử về chiến thắng của dân tộc trước quân xâm lược phương Bắc:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Nguyễn Trãi tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Cách liệt kê dẫn chứng cụ thể, xác thực, cùng giọng điệu hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. Ông khẳng định Đại Việt là quốc gia độc lập, tự chủ, có nhân tài, tướng giỏi, không thua kém bất kỳ quốc gia nào. Bất kỳ kẻ nào dám xâm lược đều phải chịu thất bại thảm hại. Cuộc chiến bảo vệ dân tộc là cuộc chiến chính nghĩa, và chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.
Đại cáo bình Ngô tràn đầy cảm hứng trữ tình và hào hùng. Đoạn đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã khẳng định hai nội dung chính: nhân nghĩa và nền độc lập của Đại Việt. Đoạn trích có giá trị sâu sắc, khẳng định tinh thần nhân nghĩa và chủ quyền dân tộc, giúp người đọc hiểu rõ lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông, từ đó bồi đắp lòng yêu nước, tự hào dân tộc, và quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.
Phân tích Đại cáo Bình Ngô đoạn 1 - Mẫu 5
Trong lịch sử dân tộc, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn có hai áng thiên cổ hùng văn được coi là bản tuyên ngôn độc lập: Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mỗi tác phẩm, dù ra đời trong hoàn cảnh khác nhau, đều thể hiện tư tưởng tiến bộ và đúng đắn. Nếu Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền lãnh thổ, và bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đề cao quyền con người, thì Bình Ngô đại cáo nhấn mạnh tư tưởng nhân nghĩa: yêu dân, chăm lo cho dân, và diệt trừ bạo loạn để nhân dân được sống trong ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn đầu tác phẩm.
Ngay từ mở đầu, Nguyễn Trãi đã nêu lên lý tưởng chủ đạo của tác phẩm:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Hai mục tiêu cao cả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là “yên dân” và “trừ bạo”. Kế thừa tư tưởng Nho giáo, Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa là làm cho dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu, là sức mạnh của quốc gia. “Trừ bạo” là diệt trừ những kẻ áp bức, bóc lột, đem lại bình yên cho dân. Hiểu rộng hơn, “trừ bạo” là chống lại giặc xâm lược. Nguyễn Trãi khẳng định ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa, và vạch trần sự xảo trá của chúng. “Yên dân” và “trừ bạo” là hai việc hỗ trợ lẫn nhau, vì không yên dân thì khó trừ bạo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là tinh thần lớn, xuất phát từ tình yêu thương và mong muốn nhân dân được sống trong no ấm, hạnh phúc.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành lý tưởng xã hội, là chân lý đúng đắn: chăm lo cho nhân dân thì đất nước mới bình yên. Ông không chỉ nói chung chung mà còn chỉ ra giá trị cốt lõi của nhân nghĩa. Đồng thời, nhân nghĩa còn gắn liền với bảo vệ chủ quyền đất nước và khẳng định tinh thần độc lập dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
So với Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi bổ sung thêm các yếu tố: văn hiến, lịch sử, phong tục và nhân tài để khẳng định nền độc lập toàn diện của Đại Việt. Nền văn hiến lâu đời, cương thổ rõ ràng, phong tục khác biệt, và các triều đại độc lập đã khẳng định chủ quyền của Đại Việt. Nguyễn Trãi đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với Hán, Đường, Tống, Nguyên, thể hiện lòng tự hào dân tộc mãnh liệt. Ông còn nhấn mạnh rằng dù thời thế có đổi thay, hào kiệt đời nào cũng có, khẳng định sức mạnh con người và lòng yêu nước của dân tộc.
Sau khi khẳng định năm yếu tố của quốc gia độc lập, Nguyễn Trãi đưa ra những bằng chứng thuyết phục về sự thất bại của quân xâm lược phương Bắc:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Bằng cách liệt kê dẫn chứng cụ thể, ông khẳng định sức mạnh và ý chí của dân tộc. Những kẻ xâm lược như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã đều phải nhận lấy thất bại thảm hại. Đoạn thơ ngắn gọn nhưng đanh thép, khẳng định Đại Việt là quốc gia độc lập, tự chủ, không thua kém bất kỳ quốc gia nào. Bất kỳ kẻ nào dám xâm lược đều phải chịu hậu quả thảm khốc.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là tác phẩm vừa hào hùng vừa trữ tình. Đoạn trích và toàn bộ tác phẩm có giá trị sâu sắc, khẳng định nền độc lập và chủ quyền của đất nước. Qua đó, người đọc hiểu thêm về lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông, từ đó bồi đắp lòng yêu nước, tự hào dân tộc, và quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1 - Mẫu 6
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian khổ, quân ta đã đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước.
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết chiến công 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước vào kỷ nguyên thái bình.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa và ca ngợi nền văn hiến lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của nhân nghĩa, hướng đến con người và nhân dân bị áp bức. Thương dân, trừng trị kẻ có tội, tiêu diệt bạo ngược, cứu nhân dân khỏi đau thương, đem lại cuộc sống yên vui, đó là nhân nghĩa.
Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là tư tưởng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập và hạnh phúc của nhân dân. Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa, xây dựng nền văn hiến rực rỡ. So với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi có cái nhìn sâu sắc hơn về đất nước và nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Đại Việt không phải “man di mọi rợ” mà có nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ rõ ràng, phong tục đẹp, nền độc lập qua nhiều triều đại, và nhân tài hào kiệt.
Năm yếu tố này tạo nên sức mạnh Đại Việt, đánh bại mọi âm mưu xâm lược, lập nên chiến công chói lọi.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, và cách diễn đạt cân xứng qua câu văn biền ngẫu đã khẳng định tầm vóc lịch sử của Đại Việt, thể hiện ý chí tự cường dân tộc.
Phần mở đầu đã thể hiện xuất sắc giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập và áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo đoạn 1 - Mẫu 7
Nhân nghĩa vốn là một giá trị tích cực của Nho giáo, thể hiện sự yêu thương, đùm bọc giữa con người. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi đã định nghĩa “nhân nghĩa” một cách độc đáo. Theo ông, “nhân nghĩa” là yêu dân, đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu và chiến đấu vì hạnh phúc đó.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Đây là mục tiêu cao đẹp: chiến đấu vì nhân dân. Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” không còn là khái niệm trừu tượng mà phải biến thành hành động cụ thể, thành “việc nhân nghĩa”.
Mục đích cụ thể là giải phóng đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than, không còn làm thân phận nô lệ và đối mặt với nguy cơ diệt chủng.
Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng khái xưng danh nước Đại Việt: “Như nước Đại Việt ta từ trước” và nhấn mạnh: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đây là một quốc gia độc lập, có nền văn hiến lâu đời, phong tục riêng biệt, và tồn tại bình đẳng, kiêu hãnh bên cạnh các triều đại Trung Hoa.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nước Đại Việt tuy nhỏ bé nhưng kiên cường, dám xưng “đế” và không chịu làm chư hầu. Đây là quốc gia đầy “nhân nghĩa”, luôn đứng vững trước thử thách.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắc lại những chiến công oanh liệt của các anh hùng Đại Việt, như một lời chế giễu đối với kẻ thù phương Bắc – những kẻ xem nước ta như quận huyện nhỏ, tham lam và kiêu ngạo, nhưng lại thảm bại mỗi khi đối đầu với nước Nam nhỏ bé:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Phần đầu bài cáo là lời khẳng định đầy tự hào về đất nước: Đây là quốc gia nhân nghĩa, có nền văn hiến lâu đời, và chính nhờ “nhân nghĩa” mà đánh bại được kẻ thù xâm lược. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu nước mãnh liệt của Nguyễn Trãi, một tấm lòng không bao giờ phai nhạt theo thời gian.
Phân tích đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo - Mẫu 8
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự yêu nước mà còn là một thiên tài văn chương hiếm có. Trong kho tàng văn học đồ sộ của ông, “Bình Ngô Đại Cáo” được xem là kiệt tác văn chương muôn đời, một tác phẩm vượt thời gian. Dù trải qua bao thế hệ, tác phẩm vẫn được lưu truyền và tôn vinh. Đoạn trích đầu tiên của “Bình Ngô Đại Cáo” một lần nữa khẳng định sự tiến bộ trong tư duy và quan niệm về độc lập, chủ quyền cùng những giá trị nhân văn sâu sắc của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng “nhân nghĩa” là nền tảng xuyên suốt tác phẩm, thể hiện lòng yêu thương nhân dân và sự đề cao những hành động chính nghĩa. Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Phật giáo, mang đậm tính nhân văn và giá trị truyền thống dân tộc. Với ông, “nhân nghĩa” là làm cho dân được an cư lạc nghiệp, sống trong hòa bình và thịnh vượng. Để đạt được điều đó, quân đội phải “trừ bạo”, tiêu diệt những thế lực tàn ác đe dọa đất nước. Chỉ khi dân được yên ổn, đất nước mới thực sự hạnh phúc. Tư tưởng này của Nguyễn Trãi đã chạm đến trái tim của bao thế hệ, trở thành giá trị vĩnh cửu được ngợi ca.
Từ những trăn trở về vận mệnh đất nước, Nguyễn Trãi đã thể hiện cái nhìn sâu sắc về chủ quyền dân tộc và nền độc lập tự do của tổ quốc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời và lịch sử hào hùng của dân tộc. Ông dùng những chiến tích lẫy lừng của cha ông để chứng minh sự vững chắc của đất nước. Khác với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi không dựa vào yếu tố siêu nhiên mà dùng chính lịch sử dựng nước và giữ nước để làm bằng chứng. Điều này không chỉ thuyết phục mà còn thể hiện niềm tự hào dân tộc. Ông còn đặt ngang hàng Đại Việt với các nước phương Bắc, khẳng định sự bình đẳng và niềm tin vào các thế hệ anh hùng.
Để tiếp tục khẳng định sức mạnh của dân tộc, Nguyễn Trãi liệt kê những chiến thắng vang dội của Đại Việt, như một lời cảnh báo đanh thép với kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những thất bại của quân địch không chỉ phơi bày sự tham lam và ngu dốt của chúng mà còn khẳng định khí phách anh hùng của dân tộc. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho bất kỳ kẻ nào dám xâm phạm bờ cõi nước ta. Cách liệt kê dồn dập các chiến tích đã tạo nên một khí thế hào hùng, thể hiện niềm tự hào mãnh liệt của tác giả.
“Bình Ngô Đại Cáo” giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, vừa là khúc ca chiến thắng, vừa là lời buộc tội đanh thép với quân xâm lược. Đoạn mở đầu của tác phẩm đã khắc họa rõ nét tinh thần bất khuất và niềm tự hào dân tộc.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1 - Mẫu 9
Nếu như ở thế kỷ XI, giặc Tống hoảng sợ khi nghe bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, đến năm 1945, thực dân Pháp cũng không còn lý do để tiếp tục “khai hóa” An Nam sau khi nghe những lời tuyên bố đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, thì ở thế kỷ XV, áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã khắc sâu vào lịch sử dân tộc Việt. Ra đời sau chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn trước giặc Minh, bài cáo là sự kết tinh của lòng yêu nước và ý chí quật cường của một dân tộc đã trải qua những ngày tháng đau thương nhưng đầy vinh quang. Đến nay, “Bình Ngô đại cáo” được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Nhắc đến “Bình Ngô đại cáo”, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc ca khải hoàn của đất nước đã trải qua hai mươi năm đằng đẵng dưới ách đô hộ của giặc Minh. Áng “thiên cổ hùng văn” này là một tác phẩm văn chương xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, mang giá trị lịch sử và tư tưởng vĩ đại. Trước Nguyễn Trãi, thời Lý và Trần đã có những áng văn chính luận nổi tiếng như “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn hay “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, nhưng chỉ đến Bình Ngô đại cáo, tính chất hùng ca mới được thể hiện một cách toàn diện từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử khô khan thành một áng văn say đắm lòng người, có giá trị trường tồn.
Dù đã sáu thế kỷ trôi qua, dân tộc ta vẫn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình và ý chí bất khuất trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Trong từng câu, từng chữ của Nguyễn Trãi chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có sự kiên quyết, vững chãi trong lời mở đầu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa vốn là tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người dựa trên tình thương và đạo lý. Từ tư tưởng ấy, Nguyễn Trãi đã chắt lọc hạt nhân cơ bản: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân, mà muốn yên dân thì phải tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng này đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử Việt Nam, là cơ sở để tác giả bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh và khẳng định lập trường chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn tự tin khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, không chỉ trên phương diện lãnh thổ mà còn ở văn hóa và truyền thống:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Tác giả liệt kê hàng loạt yếu tố như nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt để khẳng định nền độc lập của nước nhà. Với giọng điệu đanh thép, ông hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, một bước tiến lớn so với “Nam quốc sơn hà”. So với “Sông núi nước Nam”, “Đại cáo bình Ngô” đã nâng tầm chân lý độc lập một cách toàn diện, cụ thể hơn. Nguyễn Trãi không chỉ xác định sự sống còn của dân tộc qua lãnh thổ và chủ quyền mà còn qua văn hiến, phong tục, lịch sử và con người. Cách khẳng định này đã giáng một đòn mạnh vào kẻ thù đang “thừa cơ gây họa”.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi tự hào nhắc lại những chiến công oanh liệt của anh hùng hào kiệt nước Đại Việt. Ông như muốn cười vào mặt kẻ thù phương Bắc, những kẻ đã coi thường nước ta nhưng lại thua một cách nhục nhã:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”.
Phần đầu bài cáo là lời khẳng định đầy tự hào về đất nước: Đây là một quốc gia có nhân nghĩa, nền văn hiến lâu đời, và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lý sống nên mới đánh thắng được kẻ thù xâm lược. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc, thể hiện niềm tự hào và tư tưởng dân tộc vươn tới tầm cao mới. Đoạn thơ khẳng định rằng Đại Việt là quốc gia độc lập, tự chủ, không thua kém bất kỳ quốc gia nào.
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Trước Lê Lợi, đã có chiến thắng oanh liệt đuổi quân Nguyên, sau Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi chỉ có một Nguyễn Trãi với tài năng xuất chúng.” Sau Bình Ngô đại cáo, văn học trung đại còn nhiều áng văn nghị luận, nhưng không tác phẩm nào vượt qua được tính chất hùng tráng của bản đại cáo này. Đọc áng “thiên cổ hùng văn”, ta cảm nhận được sức mạnh từ mỗi trang nghị luận của Nguyễn Trãi. “Bình Ngô Đại cáo” đã và đang giữ được giá trị qua các thế kỷ, khẳng định tài năng vượt trội của Nguyễn Trãi. Đây xứng đáng là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học trung đại.
- Viết đoạn văn ngắn (8-10 dòng) bày tỏ cảm nhận và sự yêu thích của em về chim bồ câu - 4 đoạn văn mẫu lớp 8
- Soạn bài Trong mắt trẻ Cánh diều - Ngữ văn lớp 8 trang 13 sách Cánh diều tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 7: Tóm tắt truyện ngắn Cuộc chia tay của những con búp bê (7 mẫu) | Phân tích sâu sắc và cảm xúc
- Soạn bài Ngữ văn lớp 8: Hướng dẫn nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về tác phẩm thơ Cánh diều (Trang 51, sách Cánh diều tập 2)
- Hướng dẫn Soạn bài Ôn tập và Tự đánh giá cuối học kì I - Ngữ Văn lớp 8 trang 132 sách Cánh Diều tập 1