Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (Kèm sơ đồ tư duy và 21 mẫu tham khảo)
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù: Tuyển chọn gợi ý cách viết cùng 21 mẫu bài phân tích xuất sắc và sơ đồ tư duy chi tiết. Tài liệu này giúp học sinh tự học, mở rộng kiến thức, nắm vững cách phân tích, đánh giá tác phẩm và thấu hiểu thông điệp sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Tuân muốn truyền tải.

Chữ người tử tù là một tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 10 (Kết nối tri thức, tập 1) và lớp 11 (Cánh diều, tập 1). TOP 21 bài văn phân tích cảnh cho chữ dưới đây sẽ là nguồn tư liệu quý giá, bao gồm các mẫu ngắn gọn và chi tiết, giúp học sinh tham khảo và lựa chọn phong cách viết phù hợp. Ngoài ra, các bạn có thể tìm hiểu thêm về phân tích nhân vật Huấn Cao và cách viết kết bài cho tác phẩm này.
Dàn ý chi tiết phân tích cảnh cho chữ
I. Mở bài
Nguyễn Tuân, một nhà văn với phong cách độc đáo, được ví như mỗi tác phẩm của ông là một dấu ấn riêng biệt. Ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Vang bóng một thời (1940), nét đặc sắc trong ngòi bút của ông đã được khẳng định. Chữ người tử tù, một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện này, đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua cảnh cho chữ đầy ấn tượng.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
Chữ người tử tù là tác phẩm hội tụ nhiều yếu tố đặc biệt trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân: nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), và cảnh độc đáo nhất (cảnh cho chữ). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập Vang bóng một thời, được Tự lực văn đoàn trao giải. Câu chuyện xoay quanh những ngày cuối đời của Huấn Cao trong nhà giam, nơi vẻ đẹp của nhân vật và tư tưởng tác phẩm được thể hiện rõ nét qua cảnh cho chữ, khi Huấn Cao viết tặng Quản ngục bức châm - “tiếng hát thiên nga” của một đời tài hoa.
2. Khái quát về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, với những nét nổi bật như:
- Nhìn sự vật, hiện tượng qua lăng kính văn hóa và thẩm mỹ.
- Nhìn con người từ góc độ nghệ sĩ.
- Đi tìm những điều phi thường, độc đáo, và đặc biệt.
- Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
- Sử dụng so sánh, tưởng tượng, và liên tưởng phóng túng nhưng chính xác.
– > Những đặc điểm này đều được thể hiện rõ trong cảnh cho chữ của truyện ngắn Chữ người tử tù.
3. Phân tích sơ lược cảnh cho chữ
- Như GS Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, cảnh cho chữ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Đây là một cảnh tượng đặc biệt, được tác giả miêu tả là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Sự đặc biệt của cảnh này thể hiện qua mọi yếu tố: nhân vật, thời gian, và không gian.
* Nhân vật:
- Thông thường, người cho chữ và người nhận chữ là những tri kỷ, đồng điệu về tâm hồn. Ở họ toát lên sự bình thản, điềm tĩnh của bậc túc nho.
- Trong cảnh này, người cho chữ là một tử tù, còn người nhận chữ là quản ngục. Họ đối lập về vị trí xã hội, chỉ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt, cảnh cho chữ đã đảo ngược vị thế khi người tù dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn hiên ngang, trong khi quản ngục “khúm núm” và xúc động. Trong xã hội, họ là kẻ thù, nhưng trong nghệ thuật, họ là tri âm.
* Không gian:
- Thông thường, việc viết chữ thường diễn ra trong không gian thư phòng sạch sẽ, mang đậm chất học thuật.
- Trong cảnh này, việc viết chữ lại diễn ra trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian nơi cái xấu và cái ác ngự trị.
* Thời gian:
- Bình thường, việc cho chữ thường diễn ra trong thời gian nhàn nhã, thong thả, dưới ánh sáng ấm áp của buổi sáng.
- Ở đây, việc cho chữ lại diễn ra vào ban đêm, một cách vội vã, chạy đua với thời gian để tránh ánh mắt của lính canh buổi sáng và tránh công văn giải người về kinh thụ án.
=> Chỉ ra những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong cảnh này.
– Luôn nhìn sự vật, hiện tượng dưới góc độ văn hóa thẩm mỹ và nhìn con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
+ Nếu nhìn cảnh cho chữ bằng con mắt xã hội học, không khó để thấy mầm mống phản loạn: Những thứ không cần thiết lại được đem vào biệt giam, người cầm quyền trong tù lại “khúm núm”, “run run” trước tử tù…
Tuy nhiên, tác giả đã nhìn bằng con mắt văn hóa thẩm mỹ và thấy đây là cảnh phi thường. Ở đó, mọi trật tự xã hội dung tục bị đảo lộn, chỉ còn cái đẹp thống lĩnh, cái cao cả và cái thiện lên ngôi để cứu rỗi tâm hồn con người như niềm hy vọng của thế giới.
+ Nguyễn Tuân cũng không nhìn nhân vật bằng con mắt thông thường. Với ông, Huấn Cao không phải là tử tù nguy hiểm mà là người nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử. Trong cảnh này, tài năng, thiên lương và khí phách của bậc chính nhân hòa quyện, tạo nên vẻ đẹp có thể cứu rỗi tâm hồn.
– Đi tìm những cái phi thường, quá độ, vượt ngưỡng.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn của những điều nhạt nhẽo, trong khuôn khổ. Ông luôn hướng đến những gì độc đáo. Trong cảnh này, mọi thứ đều vượt lên trật tự thông thường, và người ta phải dùng một tiêu chí khác để đánh giá. Chính Nguyễn Tuân cũng khẳng định đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
– Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
+ Kiến thức điện ảnh: Để làm nổi bật cảnh cho chữ, tác giả như một nhà quay phim lành nghề, đưa máy quay đến cận cảnh để thấy “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, rồi lại đưa ống kính lên cao để soi rõ “ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Tiếp đó, ông quay viễn cảnh với động tác của cả ba nhân vật.
+ Kiến thức hội họa: Tác giả vẽ bức tranh cho chữ với sự tương phản gay gắt giữa hai mảng màu sáng và tối. Màu sáng của bó đuốc, tấm lụa bạch, và màu tối của phân chuột, phân gián, mạng nhện.
Hai mảng màu ấy làm nền cho tâm cảnh, nơi hình tượng Huấn Cao đang xuất thần tạo ra những con chữ như một báu vật.
+ Kiến thức điêu khắc: Nguyễn Tuân khắc họa hình tượng như một bức điêu khắc sống động với tư thế “đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc”, cùng trạng thái “thở dài, buồn bã”. Ngoài ra, khi miêu tả ba người chăm chú trên tấm lụa bạch, người đọc có thể cảm nhận rõ nét chất điêu khắc với những đường nét được chạm khắc nổi, sống động và đầy sức sống.
– Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong cảnh này cũng vô cùng độc đáo, giàu chất tạo hình, mang sắc thái biểu cảm cao và đầy sáng tạo. Hơn nữa, nhịp điệu chậm rãi, trang trọng với những từ Hán Việt đã gợi lên hồn xưa của đất nước. Đây cũng chính là điểm khiến Tự lực văn đoàn ngạc nhiên khi đọc Vang bóng một thời và quyết định trao giải cho tập truyện, đồng thời làm nên nét riêng biệt của Nguyễn Tuân.
– > Tóm lại, từ mọi góc độ, đều có thể nhận thấy những nét đặc trưng trong phong cách của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nét qua cảnh cho chữ. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng bút lực của nhà văn tài hoa này đã được tập trung tối đa trong cảnh này.
* Mở rộng liên hệ với một số tác phẩm khác của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám để thấy rõ phong cách nghệ thuật của nhà văn bậc thầy này vừa có những nét ổn định, vừa có những cách tân đáng kể.
Qua đó, có thể khẳng định rằng chính phong cách nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên thành công của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù nói riêng và vị trí vững chắc của ông trong nền văn học Việt Nam nói chung.
III. Kết luận
Nhà thơ Lê Đạt từng viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ dành cho nhà thơ mà còn cần thiết đối với nhà văn. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều này đã được chứng minh một cách thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
....................
Sơ đồ tư duy phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù

Phân tích ngắn gọn cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Chữ người tử tù là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập Vang bóng một thời. Tác phẩm đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao, một nghệ sĩ tài hoa, một nghĩa sĩ với khí phách phi thường. Cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm được xem là tình tiết đắt giá nhất, góp phần phát triển mạch truyện và làm nổi bật vẻ đẹp toàn diện của Huấn Cao. Nhiều người nhận định rằng cảnh tượng này là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Cảnh cho chữ diễn ra trong một không gian và thời gian đặc biệt. Huấn Cao viết những nét chữ “vuông vắn, đẹp đẽ” không phải trong thư phòng sạch sẽ hay nơi phong cảnh hữu tình, mà lại là trong không gian tối tăm, ngột ngạt của nhà tù: “một buồng tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian cho chữ cũng thật khác thường, không phải ban ngày mà là giữa đêm khuya, khi bóng tối bao trùm và mọi người đã chìm vào giấc ngủ. Có lẽ Huấn Cao chọn thời điểm này để giúp viên quản ngục tránh những điều tiếng không đáng có, bởi ngục tù là nơi đầy rẫy thị phi và những mưu mô hãm hại.
Người cho chữ là Huấn Cao, nhưng khác với hình ảnh thư thái của những tao nhân mặc khách, ông bị xiềng xích, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, vẫn viết nên những nét chữ vuông vắn trên giấy trắng. Người xin chữ là viên quản ngục, một người đam mê cái đẹp và tài năng của Huấn Cao. Điều đặc biệt là vị trí của họ hoàn toàn đối lập: Huấn Cao là tử tù nguy hiểm bị biệt giam, còn viên quản ngục là người cai quản nhà tù, nắm quyền sinh sát.
Tuy nhiên, khi cảnh cho chữ diễn ra, vị thế của hai người đảo ngược hoàn toàn. Viên quản ngục, từ chỗ là người nắm quyền, trở nên khúm núm, run rẩy khi “tay run run bê chạy mực”. Trong khi đó, Huấn Cao, kẻ tử tù, lại trở thành người chủ động, người ban tặng chữ và những lời khuyên chân thành. Ông khuyên viên quản ngục nên thay đổi môi trường sống để giữ cho thiên lương được trong sáng. Viên quản ngục xúc động, quỳ lạy Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Như vậy, cảnh cho chữ mang một nét khác biệt độc đáo. Vị trí và quyền lực của các nhân vật bị đảo ngược, nghi thức cho chữ thông thường bị phá vỡ, mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc và thể hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ giữa Huấn Cao và viên quản ngục, dù diễn ra trong không gian tối tăm của ngục tù, lại tỏa sáng bởi cái tâm và ánh sáng của thiên lương, tạo nên một bức tranh đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân (1910–1987) là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, có đóng góp quan trọng với nhiều tác phẩm độc đáo. Trong số đó, truyện ngắn "Chữ người tử tù" là một kiệt tác, thể hiện rõ nét tài năng và phong cách nghệ thuật của ông.
"Chữ người tử tù" được sáng tác năm 1939, ban đầu có tên "Dòng chữ cuối cùng", sau đó được in trong tập truyện "Vang bóng một thời" (1940). Tác phẩm ra đời trong bối cảnh Hán học suy tàn, những nho sĩ cuối mùa sống giữa thời đại "Tây Tàu nhố nhăng", vẫn giữ vững thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn dù không thể thay đổi thời cuộc. Nhân vật Huấn Cao trong truyện là hiện thân của một con người tài hoa, khí phách, dù chí lớn không thành nhưng vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, bất khuất.
Huấn Cao nổi tiếng với tài viết chữ Hán đẹp và nhanh. Ông không chỉ là một nghệ sĩ thư pháp tài ba mà còn là người có trí tuệ uyên bác. Mỗi nét chữ của ông chứa đựng văn hóa và triết lý nhân sinh. Chữ của Huấn Cao được coi là báu vật, nhưng ông chỉ cho chữ những người tri kỷ. Ông là người chính trực, không vì tiền bạc hay quyền lực mà ép mình cho chữ. Ngay cả khi bị giam cầm, ông vẫn giữ vững khí phách, coi thường những lời đe dọa của lính canh và sự biệt đãi của viên quản ngục. Tuy nhiên, khi hiểu được tấm lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý cho chữ, tạo nên một cảnh tượng độc đáo trong ngục tù.
Khác với cảnh cho chữ thường thấy ở những nơi trang trọng, Nguyễn Tuân đã xây dựng cảnh cho chữ trong một không gian tối tăm của nhà tù, nơi Huấn Cao sắp bị dẫn ra pháp trường. Trong đêm khuya, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, viên quản ngục - người thường ngày tàn bạo - lại khúm núm trước một tử tù đang đeo gông xiềng nhưng vẫn đĩnh đạc, làm chủ không gian ngục tù.
Trên tấm lụa trắng tinh, từng nét chữ của Huấn Cao hiện lên vừa đẹp đẽ vừa chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Sau khi cho chữ, Huấn Cao khuyên viên quản ngục đổi nghề và nơi ở để giữ thiên lương trong sáng. Hành động "bái lĩnh" của viên quản ngục là sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác. Bóng tối của ngục tù sụp đổ, nhường chỗ cho ánh sáng của thiên lương và khí phách. Huấn Cao, dù phải chịu án tử hình, đã trở thành bất tử cùng cái đẹp, để lại những bài học sâu sắc cho viên quản ngục.
Cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù" được đánh giá là "cảnh tượng xưa nay hiếm". Qua đó, Nguyễn Tuân không chỉ khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, khắc họa nhân vật và sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
Phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
“Chữ người tử tù” là ánh sáng rực rỡ nhất, đa sắc màu nhất để tô điểm cho kiệt tác “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm thể hiện bút pháp tinh tế, mỗi câu văn, nét chữ đều chứa đựng biển ý nghĩa sâu sắc, cuồn cuộn như sóng dâng của nhà văn Nguyễn Tuân.
“Chữ người tử tù” chinh phục độc giả khi Nguyễn Tuân xây dựng thành công nhân vật điển hình, đặc biệt là cảnh Huấn Cao cho chữ - “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Tại sao Nguyễn Tuân gọi cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Bởi xưa kia, các bậc nho sĩ thường viết chữ ở nơi thanh cao, trăng thanh gió mát, hoa thơm ngào ngạt, rượu nồng say đắm. Nhưng ở đây, Huấn Cao lại cho chữ trong buồng giam tối tăm, “tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đúng là một cảnh tượng độc đáo, chưa từng thấy.
Cảnh tượng ấy diễn ra vào đêm khuya, trong nhà tù tối tăm. Không gian bên ngoài đã tối, nhưng bên trong nhà tù còn tối hơn, chỉ văng vẳng tiếng mõ từ vọng canh.
Khi viên quản ngục và thầy thơ lại bước vào, một bó đuốc sáng rực lan tỏa khắp phòng giam. Ánh sáng đỏ rực như đám cháy, lửa rụng xuống nền nhà tạo tiếng xèo xèo. Nguyễn Tuân nhấn mạnh ánh sáng này không phải ngẫu nhiên, mà là dụng ý nghệ thuật, như Bác Hồ viết “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng”.
Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối trở nên gay gắt. Bóng tối muốn nuốt chửng ánh sáng, nhưng ánh sáng vẫn ngời lên rực rỡ, không như ánh sáng leo lét trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Ánh sáng này mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: ánh sáng của lương tri, nhân tâm, thiên lương đã chiến thắng bóng tối của cường quyền và bạo lực. Đó là sự chiến thắng tất yếu của cái thiện trước cái ác.
Bản hùng ca về chữ tâm càng thêm rạng rỡ khi đi cùng cái tài hoa, cái đẹp, làm lu mờ sự nhơ bẩn và phàm tục.
Sự nhơ bẩn hiện rõ trong buồng giam: “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa và lọ mực đã xua tan mùi ô uế. Phiến lụa và mực tượng trưng cho cái đẹp, cái thơm tho, đẩy lùi sự phàm tục. Cái đẹp đã lên ngôi, thay thế cái xấu xa, thấp hèn.
Trong cảnh này, Huấn Cao là trung tâm, nhưng không thể bỏ qua viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ là những người biết trọng đức, mến tài, đặc biệt là tài viết chữ của Huấn Cao. Ba con người, ba địa vị khác nhau, cùng chung tay tôn vinh cái đẹp, đẩy lùi sự phàm tục.
Cái đẹp và sự phàm tục đối lập nhau trong một không gian. Nguyễn Tuân đã khéo léo đặt hai yếu tố này vào nhà tù, tạo nên mâu thuẫn cực độ, từ đó làm nổi bật bản chất của cái đẹp và cái cao thượng. Huấn Cao, dù sắp phải đối mặt với cái chết, vẫn ung dung, nghệ sĩ, nhận xét về mùi thơm của mực như một người “bần tiện bất năng duy, uy vũ bất năng khuất”.
Trước cái đẹp, Huấn Cao hiện lên uy nghi, đường hoàng, dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”. Thái độ ấy thể hiện tinh thần “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Cái chết gần kề, nhưng ông vẫn hướng về cái đẹp, cái thiện. Nhà tù trở thành nơi ông thể hiện khí phách anh hùng.
Uy quyền và bạo lực bị khuất phục trước cái đẹp và thiên lương. Cái đẹp trở nên thiêng liêng, khiến mọi thứ nhơ bẩn, đen tối phải lùi bước.
Lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục khẳng định giá trị của cái đẹp và thiên lương: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được”. Viên quản ngục cảm động, vái lạy Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đó là sự tôn kính của Nguyễn Tuân trước cái đẹp, cái tài, và cái tâm.
“Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
(Một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).
Cảnh Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa một cách sâu sắc. Đây không còn là cảnh cho chữ thông thường, mà đã trở thành một nghi thức thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên của Huấn Cao giống như một di chúc về lẽ sống, một bài học cuối cùng trước khi ông bước vào cõi vĩnh hằng. Lời khuyên ấy mang sức mạnh cảm hóa mãnh liệt, giúp con người thoát khỏi sự nô lệ tinh thần, trở về với thiên lương trong sáng. Khí phách bất khuất của Huấn Cao đã chiến thắng vẻ cam chịu nô lệ một cách vang dội.
Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập tương phản và cách xây dựng nhân vật đầy cá tính, Nguyễn Tuân đã tạo nên một cảnh tượng hấp dẫn trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, đặc biệt là cảnh Huấn Cao cho chữ. Qua đó, nhà văn ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng, và khí phách bất khuất của con người. Những giá trị ấy trở thành ánh sáng soi đường cho muôn đời, giúp con người vượt qua bóng tối để hướng tới sự thanh cao và lương thiện.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, được coi là một trong những cây bút tài hoa nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, ông đã xây dựng nhân vật như những nghệ sĩ, đồng thời sáng tạo nên một tình huống truyện độc đáo: cảnh cho chữ trong nhà giam - “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Cảnh cho chữ xuất hiện ở phần cuối tác phẩm, khi viên quản ngục nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Đây là khoảnh khắc cởi nút, giải tỏa mọi băn khoăn, chờ đợi của người đọc, đồng thời làm nổi bật những giá trị sâu sắc của tác phẩm.
Trong đêm khuya, tại buồng giam chật hẹp, tối tăm, một cảnh tượng kỳ lạ diễn ra dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc. Huấn Cao, người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”, vẫn ung dung viết chữ trên tấm lụa trắng tinh. Trong khi đó, viên quản ngục và thầy thơ lại khúm núm, run rẩy. Trật tự xã hội dường như bị đảo lộn: người tù trở thành người ban phát cái đẹp, còn kẻ cai ngục lại trở thành người tiếp nhận.
Đây là cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Huấn Cao - người tài hoa viết chữ, và viên quản ngục, thầy thơ lại - những người yêu cái đẹp. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh trớ trêu: một bên là tử tù, một bên là người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ đối lập nhau, nhưng trong nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỷ. Cảnh tượng này là sự kết hợp giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp và cái xấu, giữa thiện và ác, làm nổi bật chủ đề tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu, thiên lương chiến thắng tội ác.
Sau khi cho chữ, Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn để giữ thiên lương. Cái đẹp có thể nảy sinh từ nơi tối tăm, nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhấn mạnh rằng thú chơi chữ không chỉ là nghệ thuật thị giác mà còn là sự cảm nhận bằng tâm hồn. Chữ không chỉ đẹp về hình thức mà còn phải chứa đựng thiên lương.
Trước lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục xúc động, vái lạy và nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Sức mạnh nhân cách và tài năng của Huấn Cao đã cảm hóa viên quản ngục, hướng ông ta đến con đường của cái thiện. Trong khung cảnh tối tăm của ngục tù, hình tượng Huấn Cao vươn lên cao lớn, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự chiến thắng của chân - thiện - mỹ.
Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, chỉ quan tâm đến cái đẹp. Tuy nhiên, qua “Chữ người tử tù”, đặc biệt là cảnh cho chữ, ta thấy rõ rằng cái đẹp trong tác phẩm luôn gắn liền với cái thiện và thiên lương. Quan điểm này phủ nhận định kiến về Nguyễn Tuân như một nhà văn theo chủ nghĩa “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Tác phẩm còn ca ngợi những con người như viên quản ngục và thầy thơ lại, những người biết hướng tới cái thiện dù sống trong môi trường độc ác.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả. Hành động cho chữ của Huấn Cao không chỉ là truyền lại cái đẹp mà còn là sự gìn giữ thiên lương cho đời. Nếu không có sự truyền lại này, cái đẹp sẽ bị mai một.
Với nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã tạo nên một đoạn phim quay chậm đầy ấn tượng. Từng hình ảnh, từng động tác được miêu tả tỉ mỉ, từ bóng tối đến ánh sáng, từ nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ cổ kính cùng với kỹ thuật hiện đại như phân tích tâm lý nhân vật đã làm nên sự độc đáo của tác phẩm.
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là sự kết tinh tài năng và tư tưởng của Nguyễn Tuân. Tác phẩm thể hiện lòng ngưỡng mộ và nuối tiếc trước những con người tài hoa, nghĩa khí. Đồng thời, tác giả cũng kín đáo bày tỏ nỗi đau trước sự hủy hoại của cái đẹp chân chính. Tác phẩm mang thông điệp nhân văn: dù trong bóng tối, vẫn có những tấm lòng tỏa sáng.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ là đoạn xuất sắc nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp điêu luyện, sắc sảo để dựng người, dựng cảnh, mỗi chi tiết đều gợi cảm và để lại ấn tượng sâu sắc.
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ, say mê cái đẹp, ngợi ca và tôn thờ cái đẹp như đỉnh cao của nhân cách con người. Ông miêu tả cái đẹp bằng ngôn ngữ giàu có và độc đáo. Nhân vật trong tác phẩm của ông là hiện thân của cái đẹp, hoạt động trong những hoàn cảnh phi thường. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là tác phẩm tiêu biểu nhất, thể hiện rõ giá trị tư tưởng và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, đặc biệt qua cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục - “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Nhân vật Huấn Cao trong truyện được lấy cảm hứng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát, một nhà nho tài hoa và khí phách. Nguyễn Tuân đã kết hợp hai tính cách của Cao Bá Quát - tài viết chữ đẹp và khí phách anh hùng - để xây dựng nên Huấn Cao, một nhân vật vừa thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, vừa phản ánh tinh thần nổi loạn trước xã hội đen tối đương thời.
Truyện xoay quanh hai nhân vật chính: Huấn Cao, người tài hoa viết chữ đẹp, và viên quản ngục, kẻ say mê cái đẹp của chữ nghĩa. Viên quản ngục coi chữ của Huấn Cao như báu vật, quyết tâm xin được chữ để treo trong nhà.
Họ gặp nhau trong tình huống éo le: Huấn Cao là tử tù chờ ngày xử tử, còn viên quản ngục là đại diện của trật tự xã hội đương thời. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, nhưng trên bình diện xã hội, họ đối lập nhau. Tình huống này tạo nên kịch tính, làm nổi bật tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
Huấn Cao từ chối viết chữ vì tiền bạc hay quyền lực, nhưng ông đồng ý cho chữ viên quản ngục vì nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài của người này. Ông nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Điều này thể hiện sự coi thường vật chất và uy quyền, nhưng trân trọng những tấm lòng yêu cái đẹp.
Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ nghề nghiệp nhơ bẩn để giữ thiên lương. Ông nhận định: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được.” Lời khuyên này cho thấy cái đẹp không thể chung sống với cái ác, và thiên lương là nền tảng của cái đẹp.
Khí phách của Huấn Cao được thể hiện rõ qua thái độ hiên ngang, bất khuất dù đang là tử tù. Trong đêm cho chữ, ông vẫn ung dung viết chữ trong buồng giam tối tăm, bẩn thỉu, tạo nên sự tương phản giữa vẻ đẹp tâm hồn và sự nhơ nhớp của nhà tù.
Cảnh cho chữ diễn ra dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, nơi Huấn Cao, người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”, đang viết chữ trên tấm lụa trắng tinh. Viên quản ngục và thầy thơ lại khúm núm, run rẩy trước khí phách của ông. Đây là cảnh tượng độc đáo, chưa từng có, nơi cái đẹp và cái thiện chiến thắng cái ác.
Cảnh tượng này lạ lùng vì nó diễn ra trong nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, thay vì nơi thanh cao như thư phòng. Sự tương phản giữa cái đẹp và cái xấu làm nổi bật ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.
Trong cảnh này, người tử tù trở thành trung tâm, uy nghi và lộng lẫy, trong khi viên quản ngục và thầy thơ lại khúm núm, run rẩy. Điều này cho thấy cái đẹp và cái thiện đang làm chủ, đẩy lùi cái ác và sự tăm tối.
Cảnh cho chữ không chỉ là sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, mà còn là lời di huấn của Huấn Cao về đạo lý làm người. Ông khẳng định rằng cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, và thiên lương là nền tảng của cái đẹp.
Hình ảnh viên quản ngục trong đêm cho chữ cũng gây xúc động. Sự khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, và cử chỉ run rẩy của ông ta không phải là sự hèn hạ, mà là biểu hiện của lòng thành kính trước cái đẹp và cái thiện.
Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu, và không khí cổ kính trang nghiêm đã tạo nên một đoạn văn đầy xúc động, để lại dư âm sâu sắc trong lòng người đọc.
Chữ người tử tù không còn đơn thuần là những nét chữ, mà là biểu tượng của cái đẹp, của khát vọng và hoài bão cả một đời người. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối, của cái đẹp và sự cao thượng trước sự phàm tục, nhơ bẩn. Đồng thời, đây cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa quyện giữa cái đẹp và khí phách trong hình tượng Huấn Cao chính là đỉnh cao của nhân cách, phản ánh lý tưởng thẩm mỹ và triết lý duy mỹ của Nguyễn Tuân.
...................
Tải File để xem đầy đủ bài văn mẫu phân tích cảnh cho chữ
- Viết đoạn văn tiếng Anh về lễ hội truyền thống Việt Nam kèm hướng dẫn chi tiết và 50 mẫu tham khảo
- Văn mẫu lớp 8: Phân tích nhân vật Đôn Ki-hô-tê trong tác phẩm Đánh nhau với cối xay gió - Dàn ý chi tiết cùng 8 bài văn mẫu xuất sắc nhất
- Văn mẫu lớp 8: Phân tích hình ảnh so sánh trong tác phẩm Tôi đi học - 2 Dàn ý chi tiết & 4 bài văn mẫu xuất sắc
- Soạn bài Mùa xuân chín - Ngữ văn lớp 10 trang 50 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt truyện Cây khế (9 mẫu) - Tuyển tập bài văn mẫu hay và ý nghĩa dành cho học sinh