Văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh - Dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu đặc sắc và ý nghĩa nhất
Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất, nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là một thi sĩ tài hoa, một nhà văn lớn của dân tộc. Bài thơ Rằm tháng Giêng của Người ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc và giàu ý nghĩa, phản ánh tâm hồn nghệ sĩ và tầm nhìn chiến lược của Bác.

EduTOPS mang đến Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh, bao gồm dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu đặc sắc. Hãy khám phá nội dung đầy đủ và ý nghĩa của tài liệu được chia sẻ ngay sau đây.
Dàn ý phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh - một nhà cách mạng vĩ đại và một thi sĩ tài hoa.
- Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng Giêng” - một tác phẩm thể hiện tâm hồn nghệ sĩ và tầm nhìn chiến lược của Bác.
II. Thân bài
1. Thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng
- Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” - trăng đúng lúc tròn nhất, tạo nên một không gian huyền ảo và thơ mộng.
=> Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng, gợi lên vẻ đẹp thanh bình và tĩnh lặng của đêm rằm.
- Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên” - ba chữ “xuân” nối tiếp nhau như một điệp khúc, thể hiện sự bừng tỉnh và trỗi dậy của sức sống mùa xuân.
=> Khung cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, tươi mới và rực rỡ, phản ánh tinh thần lạc quan và niềm tin vào tương lai.
=> Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp đẽ, bát ngát và tràn đầy sức sống, làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện.
2. Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc
- Công việc: “đàm quân sự” - bàn việc quân, một công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của Bác và các đồng chí.
- Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: ánh trăng như lan tỏa khắp không gian, tượng trưng cho niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng của cách mạng.
=> Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ, luôn tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đồng thời thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của bài thơ Rằm tháng Giêng.
- Đánh giá ý nghĩa sâu sắc và giá trị trường tồn của tác phẩm trong nền văn học cách mạng Việt Nam.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo kiệt xuất mà còn là một thi sĩ tài hoa. Trong số những tác phẩm nổi bật của Người, bài thơ Rằm tháng Giêng là một kiệt tác thể hiện tâm hồn nghệ sĩ và tầm nhìn chiến lược.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ Bác hoạt động tại chiến khu Việt Bắc, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp mở chiến dịch tấn công lớn nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và tinh thần đoàn kết của quân dân, chiến dịch Việt Bắc đã đập tan âm mưu của địch.
Mở đầu bài thơ, Bác đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đầy thơ mộng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Bức tranh thiên nhiên được khắc họa trong đêm rằm tháng Giêng, khi ánh trăng đạt đến độ viên mãn nhất - “nguyệt chính viên”. Đây không chỉ là một đêm trăng đẹp mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự tròn đầy, viên mãn.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bác đã sử dụng biện pháp điệp ngữ với từ “xuân” lặp lại ba lần, kết hợp với các hình ảnh “sông, nước, trời” để nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Động từ “tiếp” gợi lên sự giao hòa giữa đất trời, như thể sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian.
Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, hình ảnh con người hiện lên với công việc quan trọng:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, công việc cách mạng phải được tiến hành một cách bí mật. Bác và các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân - công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc. Dù vậy, hình ảnh con người vẫn hòa hợp với thiên nhiên, tạo nên một bức tranh vừa thực tế vừa lãng mạn.
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Mải mê bàn việc quân, khi trở về cũng là lúc đêm đã khuya. Ánh trăng lúc này càng trở nên rực rỡ, lan tỏa khắp không gian. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” độc đáo, không chỉ tả cảnh mà còn gợi lên niềm tin và hy vọng về tương lai tươi sáng của cách mạng.
Bác đã sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại. Các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình, cùng giọng thơ lạc quan, tươi vui, đã khắc họa thành công vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng Giêng, đồng thời làm nổi bật tâm thế ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ Rằm tháng Giêng của Bác Hồ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn bộc lộ tấm lòng yêu nước thiết tha và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ và tinh thần chiến đấu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là một thi sĩ tài hoa. Trong kho tàng văn học của Người, bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng Giêng) là một tác phẩm đặc sắc, thể hiện tâm hồn nghệ sĩ và tầm nhìn chiến lược.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ Bác hoạt động tại chiến khu Việt Bắc, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp mở chiến dịch tấn công lớn nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và tinh thần đoàn kết của quân dân, chiến dịch Việt Bắc đã đập tan âm mưu của địch.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa trong đêm rằm tháng Giêng, khi ánh trăng đạt đến độ viên mãn nhất - “nguyệt chính viên”. Đây không chỉ là một đêm trăng đẹp mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự tròn đầy, viên mãn.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần, kết hợp với các hình ảnh “sông, nước, trời” để nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Từ “tiếp” gợi lên sự giao hòa giữa đất trời, như thể sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian.
Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, hình ảnh con người hiện lên với công việc quan trọng:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ, công việc cách mạng phải được tiến hành một cách bí mật. Bác và các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân - công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc. Dù vậy, hình ảnh con người vẫn hòa hợp với thiên nhiên, tạo nên một bức tranh vừa thực tế vừa lãng mạn.
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Mải mê với công việc cách mạng, khi trở về cũng là lúc đêm đã khuya. Ánh trăng lúc này càng trở nên rực rỡ, lan tỏa khắp không gian. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” không chỉ tả cảnh mà còn gợi lên niềm tin và hy vọng về tương lai tươi sáng của cách mạng.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại. Các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình, cùng giọng thơ lạc quan, tươi vui, đã khắc họa thành công vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng Giêng, đồng thời làm nổi bật tâm thế ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.
Rằm tháng Giêng mang đậm phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn bộc lộ tấm lòng yêu nước thiết tha và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ và tinh thần chiến đấu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 3
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng Giêng) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ không chỉ khắc họa khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng mà còn bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ trong thơ ca. Ta từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch mang nỗi nhớ quê hương, còn trong “Rằm tháng Giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang ý nghĩa khác, gắn liền với tinh thần lạc quan và niềm tin vào cách mạng.
Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong đêm rằm tháng Giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” - lúc trăng tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp, nhưng ánh trăng đêm rằm tháng Giêng còn đẹp hơn. Sắc xuân từ ánh trăng bao trùm lên mọi cảnh vật, khiến “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại ba lần, khẳng định sắc xuân lan tỏa khắp không gian. Không gian mở rộng ra ba chiều: cao, rộng và sâu, làm cảnh vật trở nên rộng lớn hơn. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” gợi vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất, đều tràn ngập ánh trăng.
Trong bức tranh thiên nhiên thơ mộng ấy, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi hoạt động cách mạng đều diễn ra âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Say sưa bàn luận, họ quên mất thời gian, đến khi công việc xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Ánh trăng lúc này cũng sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng như thắng lợi của cách mạng không còn xa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng Giêng thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Qua đó, người đọc cũng thấy được tâm hồn thi sĩ tinh tế và nhạy cảm của Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 4
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” được Bác Hồ sáng tác trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm không chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cùng tấm lòng yêu nước sâu nặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc:
"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên"
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng Giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc, khiến cảnh vật trở nên ấm áp và thơ mộng hơn. Đến câu thơ tiếp theo, vẻ đẹp thiên nhiên càng được tô điểm thêm:
"Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên"
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp không gian. Từ “tiếp” gợi lên sự giao hòa giữa trời và đất, như thể sắc xuân đang lan tỏa khắp nơi. Như vậy, hai câu thơ mở đầu đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng Giêng tràn đầy sức sống và tươi mới.
Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người xuất hiện với một công việc cao cả:
"Yên ba thâm sứ đàm quân sự"
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân - những công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước. Và bài thơ kết lại bằng một câu thơ đầy ý nghĩa:
"Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền"
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước mà khi trở về, đêm đã về khuya? Lúc này, ánh trăng càng trở nên rực rỡ, sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” không chỉ thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng Giêng mà còn gợi lên khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua hai câu thơ cuối, người đọc như thấy được phong thái ung dung, lạc quan cùng niềm tin bất diệt của Bác Hồ vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.
“Rằm tháng Giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa qua những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất và con thuyền. Việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc một cách sinh động và giàu sức gợi.
Qua bài thơ, ta không chỉ thấy được tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn nhận ra con người kiên cường, trung thành với cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa chất thơ và tinh thần chiến đấu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam, không chỉ là một nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Người để lại, bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một tác phẩm nổi bật, để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc.
Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ tổ chức cuộc họp tổng kết tình hình quân sự thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Khi cuộc họp kết thúc, đêm đã khuya. Ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn, tạo nên sự giao hòa giữa cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy đã khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Câu thơ mở đầu gợi ra hình ảnh đêm rằm tháng Giêng, khi ánh trăng đạt đến độ tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến mức có thể thắp sáng vạn vật. Cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” đều ngập tràn ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại ba lần, gợi lên một không gian rộng lớn. Từ “tiếp” khiến người đọc hình dung bầu trời và mặt đất như hòa làm một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn quen thuộc, nhưng khi đi vào thơ Bác, chúng lại tạo nên một bức tranh hiện đại, tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống.
Khi con người xuất hiện, bức tranh thiên nhiên càng trở nên tuyệt đẹp. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện lên trong công việc “đàm quân sự” - một công việc hệ trọng, liên quan đến vận mệnh dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh giữa dòng sương khói mờ ảo, không phải là những ẩn sĩ tìm về thiên nhiên để tránh thị phi như trong thơ Cao Bá Quát:
“Thế sự thăng trầm quân mặc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu”
(Việc thế thăng trầm anh chớ hỏi
Mênh mông khói sóng chiếc thuyền câu)
Mà đó là hình ảnh những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Qua hình ảnh này, Bác làm nổi bật tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng - họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sương khói mịt mù, tạo nên một hình ảnh vừa độc đáo vừa thơ mộng. Khi công việc kết thúc, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã khuya. Ánh trăng lúc này như lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền, biến nó từ một phương tiện bàn quân sự thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh này lay động tâm hồn nhà thơ, khiến Người say mê ngắm nhìn thiên nhiên với trái tim rung động, bồi hồi.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Bác Hồ. Đồng thời, qua đó, Người cũng gửi gắm niềm tin chiến thắng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 6
Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, sang Xuân Hè 1948, quân ta tiếp tục giành thắng lợi lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến và hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đóa hoa xuân ngọt ngào, rực rỡ sắc hương.
Mở đầu bài thơ là cảnh đêm nguyên tiêu tuyệt đẹp. Trên bầu trời, vầng trăng tròn vành vạnh:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Trăng rằm tháng Giêng mang vẻ đẹp tươi tắn khác thường, bởi nó được thổi hồn bởi hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm, ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, tràn ngập mọi ngõ ngách. Ánh trăng làm cho cảnh vật trở nên hữu tình, lung linh và sinh động. Đất nước, quê hương hiện lên trong màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang. Dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu, trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn. Dòng sông xanh xuân thủy hòa quyện với màu xanh của xuân thiên.
Mùa xuân là mùa của chồi non, của sự sống. Xuân phơi phới hiện diện khắp nơi: xuân của dòng sông, dòng nước, và không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ “xuân” làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời:
“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác không chỉ là mùa xuân, mà còn là tuổi trẻ và vẻ đẹp tươi tắn. Nó gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi xuân đến, con người và vạn vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải từng cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng…”
(Mùa xuân nho nhỏ)
Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng, làm cho sự sống trở nên rạo rực và bất tận.
Trong câu thơ của Bác, xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung và căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng, tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất, say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử - đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của Người chan hòa với thiên nhiên, sông núi, hoa lá, cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa; trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách, chim rừng vào cửa đậu - phê văn, hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ.
Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, khói sóng và con thuyền được nâng lên một tầm cao mới:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự”
(Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền)
Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam trong ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943), thì đêm nay - đêm rằm tháng Giêng (1948), Bác lại gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang bàn bạc việc quân. Ánh trăng đêm nay là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân, đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt. Yên ba là khói sóng, một thi liệu cổ của Đường thi. Câu thơ vừa mang nét cổ điển, vừa có chất hiện đại - chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép - Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên dòng sông nước mênh mông:
(Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền)
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” gợi nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
“Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”
(Bạch Cư Dị)
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Nguyên tiêu, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ, ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền, hình ảnh thi sĩ - chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với việc bàn bạc quân sự trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, và quyết tâm chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ điển: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng... với điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy, chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đóa hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn, trí tuệ và đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hòa quyện với chất chiến sĩ, chất chứa đầy ắp trên con thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 7
Rằm tháng Giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác, được viết vào đúng đêm rằm tháng Giêng năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Bài thơ thể hiện sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cho thấy tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn người chiến sĩ.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”
Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng, trong trẻo, nổi bật với ánh trăng tỏa sáng rực rỡ. Bức tranh của Bác gợi nhiều hơn tả, khung cảnh được phác họa rộng mênh mông với vài nét đơn sơ. Người chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào chi tiết, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong thơ ca cổ điển. Dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, mở rộng cả chiều rộng (xuân giang) và chiều cao (xuân thiên), khiến khung cảnh càng trở nên khoáng đạt. Việc sử dụng liên tiếp ba chữ “xuân” cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng thức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình.
Nhưng thật bất ngờ, trong bầu không khí ấy lại diễn ra cuộc họp bàn việc quân sự, việc đất nước: Yên ba thâm xứ đàm quân sự. Đối chiếu với nguyên tác, phần dịch thơ đã bỏ qua hai chữ “yên ba” (khói sóng), làm mất đi vẻ hư thực, huyền bí của không gian đêm khuya. Ba chữ “đàm quân sự” rất hiện đại, mang âm hưởng của thời đại.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang kháng chiến chống thực dân Pháp, ta càng thấy rõ sự bình tĩnh, chủ động và lạc quan của vị lãnh tụ. Dù ngày đêm lo nghĩ việc nước, Bác vẫn dành chút thời gian ít ỏi để rung cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Phong thái ung dung còn thể hiện trong câu thơ cuối: Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Con thuyền của Bác sau khi bàn việc quân tràn ngập ánh trăng, lướt đi phơi phới như chở một thuyền trăng trở về.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và hiện đại. Những thi liệu cổ như con thuyền, vầng trăng,… biến Bác thành một thi nhân hòa mình vào thiên nhiên. Không gian núi rừng để đàm đạo quân sự lại đậm chất hiện đại. Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, lời ít ý nhiều, tạo sức gợi cho ngôn từ và hình ảnh.
Bài thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc tinh tế đã cho ta thấy Bác ở nhiều chiều kích khác nhau. Đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, rung cảm trước vẻ đẹp của vạn vật khi xuân sang. Không chỉ vậy, đó còn là tâm hồn của một chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng hơn hết vẫn thể hiện phong thái ung dung, lạc quan trong cuộc đời kháng chiến đầy gian khổ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng - Mẫu 8
"Nguyên tiêu" nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, được viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, sang Xuân Hè 1948, quân ta lại giành thắng lợi lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến và hậu phương.
Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo "Cứu quốc" như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát:
"Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"
Đêm nguyên tiêu, trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ thể hiện cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng Giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường, bởi mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật trở nên hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của "xuân giang", màu xanh ngọc bích của "xuân thuỷ" tiếp nối với màu xanh thiên thanh của "xuân thiên". Ba từ "xuân" trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc, làm nổi bật cái "thần" của cảnh vật sông, nước và bầu trời:
"Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm "Xuân")
"Xuân" trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa". Có "Trăng vào cửa sổ đòi thơ" trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: "Xem sách, chim rừng vào cửa đậu - Phê văn hóa núi ghé nghiêng soi", yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến... Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
"Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền"
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang "đàm quân sự" (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu.
Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay "đăng lâu vọng nguyệt"... mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi "yên ba thâm xứ" - cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang "bàn bạc quân" để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: "Yên ba thâm xứ đàm quân sự". "Yên ba" là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo, làm cho bài thơ "Nguyên tiêu" mang phong vị Đường thi. Ba chữ "Đàm quân sự" đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
"Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền"
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
"Nguyệt mãn thuyền" là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, gợi nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
"Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?"
Trăng nước như xưa chín với mười"
(Triệu Hổ, Đường thi)
"Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông..."
(Bạch Cư Dị)
"Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu"
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ "Nguyên tiêu", ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, mang cốt cách nghệ sĩ và nhà hiền triết phương Đông.
"Nguyên tiêu" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh... Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ "đàm quân sự".
Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh. Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến "trăng, hoa, tuyết, nguyệt..." nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng Giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.
Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. "Nguyên tiêu" là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 9
Bài thơ Rằm tháng giêng được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm không chỉ khắc họa hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ của chiến khu Việt Bắc dưới ánh trăng mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Người.
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được Bác miêu tả qua một đêm trăng rằm tháng giêng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Không chỉ là một đêm trăng thông thường, mà đây là đêm rằm tháng giêng, khi trăng đạt đến độ viên mãn nhất - “nguyệt chính viên”. Ánh trăng bao trùm lên mọi cảnh vật, tạo nên một khung cảnh huyền ảo và thơ mộng.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bác đã sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, lặp lại từ “xuân” ba lần để nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của mùa xuân đang lan tỏa khắp không gian. Từ “tiếp” gợi lên sự hòa quyện giữa trời và đất, tạo nên một bức tranh thiên nhiên sống động và tràn đầy sức xuân.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy, con người xuất hiện với vai trò là chủ thể trữ tình:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong bối cảnh cách mạng, mọi hoạt động đều phải diễn ra một cách bí mật và kín đáo. Chính vì thế, Bác Hồ và các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc những việc quan trọng, quyết định đến vận mệnh của dân tộc.
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Vì quá say sưa bàn bạc việc quân sự và đại sự quốc gia, khi công việc hoàn tất, trời đã về khuya. Ánh trăng lúc này càng trở nên rực rỡ và sáng tỏ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” không chỉ khắc họa sự lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng đêm rằm tháng giêng mà còn phản ánh phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên.
Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm phong vị cổ điển, kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, Hồ Chí Minh đã tái hiện một cách sinh động bức tranh thiên nhiên chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng rằm tháng giêng.
Bài thơ Rằm tháng giêng không chỉ thể hiện tâm hồn thi sĩ đa cảm, đa tình của Bác mà còn khắc họa hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong thái ung dung, lạc quan và đầy chất lãng mạn, hòa mình vào thiên nhiên và vận mệnh dân tộc.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà thơ tài hoa với nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong số đó, bài thơ “Rằm tháng giêng” nổi bật với bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của chiến khu Việt Bắc dưới ánh trăng đêm rằm:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất
Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Trăng từ lâu đã trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ca, đặc biệt là trong thơ của Bác. Chúng ta có thể nhớ đến ánh trăng gợi nhớ quê hương trong thơ Lí Bạch:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
(Ngẩng đầu ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương)
Hay ngay trong thơ của Bác, ánh trăng cũng xuất hiện trong bài thơ Cảnh khuya:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Trong “Rằm tháng giêng”, ánh trăng hiện lên với nét độc đáo riêng. Đây không phải là một đêm trăng thông thường, mà là đêm rằm tháng giêng, khi trăng đạt đến độ viên mãn nhất - “nguyệt chính viên”. Ánh trăng tỏa sáng rực rỡ, làm bừng lên sức sống của thiên nhiên. Ở câu thơ tiếp theo, Bác sử dụng biện pháp điệp ngữ, lặp lại từ “xuân” ba lần, kết hợp với từ “tiếp” để gợi lên sự giao hòa giữa trời và đất trong sắc xuân tươi mới. Thiên nhiên như được khoác lên mình một màu xuân rực rỡ, tràn đầy nhựa sống. Qua hai câu thơ đầu, Bác đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đêm trăng vừa sống động, vừa trữ tình.
Đến hai câu thơ sau, hình ảnh con người xuất hiện, nhưng không phải với tư cách nhỏ bé, mờ nhạt mà là chủ thể trữ tình:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân
Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Trong thơ ca cổ điển, con người thường xuất hiện nhỏ bé, mờ nhạt trước thiên nhiên rộng lớn:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
Trong thơ của Bác, con người hiện lên với vai trò là chủ thể trữ tình, dù đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động đều phải diễn ra một cách bí mật và kín đáo. Bác Hồ và các chiến sĩ đã chọn thời điểm đêm khuya thanh vắng để bàn bạc những việc trọng đại, quyết định đến vận mệnh dân tộc. Trong không khí trang nghiêm ấy, Bác vẫn không quên cảm nhận vẻ đẹp lãng mạn của ánh trăng. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” không chỉ khắc họa sự lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng đêm rằm tháng giêng mà còn phản ánh phong thái ung dung, lạc quan của Bác, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và hòa hợp với thiên nhiên.
Tóm lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết mà còn khẳng định lòng yêu nước sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, học sinh nên đọc kỹ từng câu thơ, phân tích các biện pháp tu từ và liên hệ với hoàn cảnh sáng tác. Đồng thời, nên so sánh với các bài thơ khác của Bác để thấy được sự nhất quán trong phong cách và tư tưởng nghệ thuật.
- Viết đoạn kết thúc khác cho câu chuyện Vệt phấn trên mặt bàn - Sáng tạo và độc đáo với phong cách văn học hấp dẫn
- Bộ đề đọc hiểu Ngữ văn 7 Cánh diều (Kèm đáp án) - Tuyển tập 25 ngữ liệu đọc hiểu bổ trợ ngoài sách giáo khoa
- Kể lại hành động em tham gia bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp - Văn mẫu lớp 4 bộ sách Kết nối tri thức
- Tóm tắt truyện Nai con Bam-bi (5 mẫu) - Ôn tập giữa học kỳ 1, Tiết 5 - Tiếng Việt 4 bộ sách Kết nối tri thức
- Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận sâu sắc về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương (Dàn ý + 8 bài văn mẫu)