Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận sâu sắc về bài thơ Rằm tháng giêng (Dàn ý chi tiết + 11 bài văn mẫu chọn lọc) - Những bài văn hay nhất lớp 7
Hồ Chí Minh, một nhà thơ và nhà văn kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Trong đó, bài thơ Rằm tháng giêng là một tác phẩm nổi bật, được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7 để học sinh tìm hiểu và phân tích sâu sắc.

EduTOPS mang đến Bài văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng, một tài liệu tham khảo hữu ích dành cho học sinh. Hãy cùng khám phá chi tiết nội dung dưới đây để hiểu rõ hơn về tác phẩm này.
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Rằm tháng giêng. Nêu cảm nhận chung về tác phẩm này.
II. Thân bài
1. Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên tại chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng
- Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” - trăng tròn đúng lúc nhất.
=> Không gian rộng lớn, ngập tràn ánh trăng.
- Sức sống mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”.
=> Ba chữ “xuân” liên tiếp thể hiện sức sống và sắc xuân đang bừng lên. Khung cảnh tràn đầy sinh khí.
=> Hai câu đầu khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp đẽ, bao la, rộng lớn và tràn đầy sức sống.
2. Cảm nhận về hình ảnh con người trong đêm trăng
- Công việc: “đàm quân sự” - bàn việc quân sự, tức là bàn việc kháng chiến, việc hệ trọng của dân tộc.
- Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi lên sự lan tỏa của ánh trăng đêm rằm, đồng thời thể hiện khát vọng vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.
=> Hai câu thơ cuối thể hiện phong thái ung dung, lạc quan, niềm tin vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.
III. Kết bài
Cảm nhận về vẻ đẹp thi vị và sâu lắng của bài thơ Rằm tháng giêng
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 1
Trong một đêm rằm tháng giêng, trên con thuyền nhỏ neo đậu giữa dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã tổ chức cuộc họp tổng kết tình hình quân sự thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp (1947 - 1948). Khi cuộc họp kết thúc, đêm đã về khuya. Ánh trăng rằm tỏa sáng khắp không gian bao la, làm nổi bật vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng. Trong khoảnh khắc ấy, Bác đã ứng khẩu sáng tác bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa đề Nguyên tiêu:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy đã dịch bài thơ sang tiếng Việt theo thể lục bát với tựa đề Rằm tháng giêng. Bản dịch đã chuyển tải gần như trọn vẹn ý thơ nguyên tác, thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác miêu tả vẻ đẹp của ánh trăng nơi rừng sâu, thì trong bài này, Bác lại tả cảnh trăng trên sông nước:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng rực rỡ khắp bầu trời và mặt đất trong đêm rằm. Khung cảnh mênh mông, tưởng chừng như sông nước hòa vào bầu trời: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”. Vạn vật tràn đầy sức sống mùa xuân: “sông xuân, nước xuân và trời xuân” đan xen, giao hòa, tạo nên một vũ trụ tràn đầy sinh khí, khiến lòng người rạo rực. Điệp từ “xuân” được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tâm hồn con người.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Trên con thuyền nhỏ giữa chốn khói sóng mịt mù (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng bàn việc quân sự, việc nước. Công việc trọng đại ấy diễn ra trong hoàn cảnh kháng chiến đầy gian khó. Tuy nhiên, khó khăn không làm vơi đi cảm xúc trong lòng Bác. Khi buổi họp kết thúc lúc nửa đêm, ánh trăng tròn vành vạnh (nguyệt chính viên) tỏa sáng khắp nơi. Cảnh sông nước trong đêm càng thêm huyền ảo. Dòng sông trở thành dòng sông trăng, và con thuyền như chở đầy ánh trăng (trăng ngân đầy thuyền). Trước vẻ đẹp của đêm trăng, tâm hồn Bác lâng lâng, hòa nhập với thiên nhiên, người bạn tri kỷ của Người. Trong lòng Bác trào dâng niềm vui và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng. Hình ảnh con thuyền chở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình tượng nghệ thuật lãng mạn và giàu ý nghĩa tượng trưng. Chỉ với một tâm hồn ung dung, lạc quan và niềm tin vững chắc vào tương lai, Bác mới có thể sáng tạo nên hình tượng độc đáo trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ Rằm tháng giêng với âm hưởng tươi vui, khỏe khoắn đã mang đến cho người đọc cảm xúc thanh cao và trong sáng. Bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho việc Bác Hồ không chỉ là một lãnh tụ cách mạng tài ba mà còn là một nghệ sĩ với trái tim nhạy cảm và tâm hồn thi ca.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 2
Năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trong giai đoạn đầy thử thách. Chủ tịch Hồ Chí Minh, với vai trò là người lãnh đạo tối cao, không khỏi trăn trở, lo âu. Tâm trạng ấy của Người đã được thể hiện tinh tế qua bài thơ Cảnh khuya. Sang năm 1948, tình hình đất nước và cuộc kháng chiến có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đêm rằm tháng giêng năm đó, sau một cuộc họp bàn việc quân sự, Bác đã hứng khởi sáng tác bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng).
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Tác phẩm thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên tác bằng chữ Hán. Nếu dịch nghĩa từ bản phiên âm, bài thơ có thể hiểu như sau:
“Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất,
Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân;
Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân,
Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền.”
Bài thơ khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm trăng rằm. Những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu và vần luật của bài thơ đều mang đậm chất thơ cổ điển. Đọc bài thơ, lắng nghe âm điệu và cảm nhận các hình ảnh như “trăng tròn, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng, nửa đêm, đầy thuyền…”, ta thấy thơ của Bác Hồ có nét tương đồng với thơ của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm ngủ ở bến Phong Kiều). Kết thúc bài Phong Kiều dạ bạc, Trương Kế viết: "Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền". Còn Hồ Chí Minh viết: "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền". Bài thơ Nguyên tiêu tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ điển nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, mang hơi thở và tinh thần của thời đại mới. Bác làm thơ Đường nhưng không gò bó mà đầy sáng tạo, thể hiện tài năng và tâm hồn của một người nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng.
Hai câu thơ đầu vẽ nên bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng rực rỡ và tươi đẹp. Bầu trời cao rộng, trăng tròn vành vạnh, không gian tràn ngập sức sống mùa xuân. Dòng sông xuân, nước xuân hòa vào trời xuân, tạo nên một khung cảnh mênh mông, không giới hạn. Trong nguyên tác, điệp từ "xuân" được lặp lại ba lần, tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, gợi cảm giác thanh bình và thư thái. Câu thơ với năm thanh bằng trong bảy tiếng mang lại cảm giác bay bổng, trong trẻo và rộng lớn. Bằng ngòi bút chấm phá, Bác đã tạo nên bức tranh đêm rằm tháng giêng ở chiến khu Việt Bắc, vừa mang vẻ đẹp thiên nhiên vừa ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng. Đằng sau bức tranh ấy là cái nhìn lạc quan, phong thái ung dung của người nghệ sĩ - chiến sĩ.
Hai câu kết bài thơ càng làm nổi bật chất chiến sĩ - nghệ sĩ trong con người Bác. Cuộc họp bàn việc quân sự diễn ra trong đêm rằm tháng giêng đã thành công rực rỡ, mang lại niềm vui và niềm tin cho mọi người. Khi tan họp, mọi người ra về giữa đêm khuya, ánh trăng tràn ngập không gian, trăng như tròn hơn, ánh sáng trăng đầy ắp cả khoang thuyền: "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền" (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
Bài thơ Nguyên tiêu thể hiện rõ tinh thần chủ động, phong thái ung dung, lạc quan và niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang âm hưởng cổ điển vừa thể hiện tinh thần thời đại, trẻ trung và khỏe khoắn.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một hồn thơ tài hoa. Với nhiều tác phẩm để đời, Người đã góp phần quan trọng vào nền văn học nước nhà. Bài thơ Rằm tháng Giêng là một trong những tác phẩm tiêu biểu, ghi dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc.
Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, bước sang mùa hè năm 1948, quân ta tiếp tục giành nhiều thắng lợi trước thực dân Pháp. Trong bối cảnh đó, bài thơ xuất hiện trên báo Cứu quốc, như một lời cổ vũ tinh thần yêu nước và khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tấm lòng luôn đau đáu vì nước, vì dân của Bác Hồ.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Mở đầu bài thơ là một không gian rộng lớn, bao la:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,”
Ánh trăng đêm xuân tỏa sáng rực rỡ, mang đến cảm giác thanh bình. Từ “lồng lộng” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh sự rộng lớn, bao la của đêm trăng. Hình ảnh ánh trăng trong thơ Bác thường xuất hiện như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành cùng Người. Trong đêm Rằm, ánh trăng vẫn dõi theo, sẻ chia cùng Bác.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Hai từ “xuân” lặp lại liên tiếp mở ra một không gian tràn đầy sức sống. Sông, nước và bầu trời như hòa quyện vào nhau, tạo nên một khung cảnh hài hòa, rộng lớn.
Câu thơ “Giữa dòng bàn bạc việc quân” thể hiện tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù bận rộn với công việc quốc gia đại sự, Bác vẫn dành tình yêu cho thiên nhiên. Điều này cho thấy phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Câu thơ cuối: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” gợi lên hình ảnh con thuyền cách mạng, ẩn dụ cho thắng lợi không còn xa. Con thuyền tràn ngập ánh trăng báo hiệu ngày chiến thắng đang đến gần. Câu thơ thể hiện niềm lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào sự nghiệp cách mạng.
Bài thơ Rằm tháng Giêng là một tác phẩm độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn khắc họa tinh thần lạc quan, kiên cường giữa những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại, giản dị mà còn là một thi sĩ tài hoa. Người đã để lại nhiều tác phẩm thơ ca có giá trị, góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà. Bài thơ Rằm tháng Giêng là một trong những tác phẩm nổi bật, được nhiều người yêu thích và trân trọng.
Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, quân ta giành được thế chủ động trước thực dân Pháp. Trong bối cảnh đó, bài thơ xuất hiện như một nguồn động viên tinh thần to lớn cho quân và dân ta, đồng thời thể hiện tấm lòng vì nước, vì dân của Bác Hồ:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Câu thơ đầu tiên khắc họa ánh trăng đêm xuân tỏa sáng rực rỡ, bao trùm không gian. Hình ảnh ánh trăng thường xuất hiện trong thơ Bác như một người bạn tri kỷ, luôn đồng hành cùng Người trong mọi hoàn cảnh.
Câu thơ tiếp theo: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân” với điệp từ “xuân” lặp lại tạo nên một không gian tràn đầy sức sống. Sông, nước và bầu trời như hòa quyện vào nhau, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và rực rỡ.
Câu thơ thứ ba: “Giữa dòng bàn bạc việc quân” cho thấy hình ảnh con người hòa hợp với thiên nhiên. Dù bận rộn với công việc quốc gia đại sự, Bác vẫn không quên thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, thể hiện tinh thần lạc quan và ung dung của người cách mạng.
Câu thơ cuối: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” gợi lên hình ảnh con thuyền cách mạng, ẩn dụ cho thắng lợi không còn xa. Con thuyền tràn ngập ánh trăng báo hiệu ngày chiến thắng đang đến gần, thể hiện niềm tin và sự lạc quan vào tương lai tươi sáng của cách mạng.
Bài thơ Rằm tháng Giêng là một tác phẩm xuất sắc của Bác Hồ. Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên trong đêm xuân mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 5
Trăng luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, thi sĩ. Ánh trăng mang đến vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của thiên nhiên. Trong bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của trăng mà còn thấy được chất “nghệ sĩ” trong tâm hồn thi nhân.
Bài thơ được Bác viết theo thể thơ cổ điển, thất ngôn tứ tuyệt, một thể thơ phổ biến trong thơ ca trung đại. Sau này, bài thơ được dịch giả Xuân Thủy chuyển ngữ sang thể lục bát với tựa đề quen thuộc Rằm tháng giêng.
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Bức tranh đêm trăng được Bác khắc họa thật sinh động. Đêm đã về khuya, gió nhẹ thổi, ánh trăng tròn vành vạnh tỏa sáng khắp nơi, làm cho dòng sông trở nên lấp lánh. Trăng soi chiếu lên bầu trời, lên mặt nước, và cả những con người đang ngồi ngắm trăng với bao tâm sự. Từ láy “lồng lộng” được Bác sử dụng để diễn tả ánh trăng rực rỡ, như đang ôm ấp, xoa dịu những tâm hồn đang đối mặt với những quyết định lớn lao liên quan đến vận mệnh đất nước.
Ánh trăng mùa xuân khiến vạn vật như được hồi sinh. Sắc xuân từ ánh trăng lan tỏa khắp thiên nhiên, cảnh vật và cuộc sống:
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Các hình ảnh “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” như hòa quyện vào nhau, tôn lên vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân. Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần, khẳng định sức sống mãnh liệt của thiên nhiên trong đêm rằm. Không gian được mở rộng theo chiều cao, chiều sâu và chiều rộng, khiến bức tranh đêm nguyên tiêu trở nên vô cùng vô tận.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Dù đắm chìm trong vẻ đẹp thiên nhiên, người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ trọng đại của mình. Ánh trăng như thấu hiểu những lo toan, vất vả của Bác. Chỉ cần như vậy, ta đã thấy được tinh thần trách nhiệm và khát vọng lớn lao của Người. Vầng trăng vẫn lặng lẽ dõi theo, chờ đợi con người với tâm hồn cao đẹp trở về:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Đêm đã khuya, nhưng ánh trăng vẫn tràn ngập khắp nơi. Trăng như đang chờ đợi, đồng hành và đồng cảm cùng thi nhân. Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” vừa đẹp vừa lạ, gợi lên cảm giác ánh trăng soi bóng xuống dòng nước, hay như rơi xuống mạn thuyền, theo chân Bác vào những cuộc bàn bạc quân sự quan trọng.
Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết trân trọng vẻ đẹp của nó, và chỉ có tâm hồn lãng mạn mới có thể cảm nhận được sự đồng hành, đồng cảm của đêm trăng. Trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, con người và thiên nhiên vẫn giao hòa, chia sẻ cùng nhau. Tác giả phải có một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên sâu sắc mới có thể viết nên những vần thơ lay động lòng người như vậy.
Bài thơ Rằm tháng giêng của Bác đã vẽ nên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp, ẩn chứa những suy tư về vận mệnh đất nước. Bài thơ cũng thể hiện phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của Bác trong mọi hoàn cảnh. Chỉ có một tâm hồn lạc quan và yêu thiên nhiên sâu sắc mới có thể sáng tác nên những vần thơ đẹp và ý nghĩa đến vậy.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 6
Trong niềm hân hoan chiến thắng sau chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tác bài thơ Nguyên tiêu, hay còn gọi là Rằm tháng giêng. Bài thơ thể hiện không khí tươi vui của chiến thắng và niềm hạnh phúc khi sắc xuân tràn ngập khắp đất nước. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tâm trạng phấn khởi của Người cũng như tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết khi mùa xuân đang về.
Hai câu thơ đầu của bài thơ đã khắc họa một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
"Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;"
Chủ tịch Hồ Chí Minh được biết đến là một người yêu thiên nhiên, luôn khao khát hòa nhập với thiên nhiên. Đặc biệt, trong thơ của Người, hình ảnh vầng trăng thường xuất hiện như một người bạn tri âm, tri kỷ. Trăng không chỉ là người bạn đồng hành mà còn là người chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng Người trên mọi chặng đường. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh vầng trăng trong đêm khuya thanh tĩnh khi Người đang trăn trở vì vận mệnh đất nước:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
(Cảnh khuya)
Nếu như hình ảnh trăng trong bài Cảnh khuya đẹp và tròn đầy, như đồng hành cùng Người trong nỗi lo cho đất nước, thì giờ đây, trong niềm vui chiến thắng, trăng vẫn ở đó, hân hoan chia vui cùng Người. Trăng trong đêm rằm càng trở nên tròn đầy và rực rỡ hơn trong mắt một người đang tràn ngập hạnh phúc. Câu thơ thứ hai miêu tả sự hòa quyện giữa dòng sông và bầu trời, hai yếu tố thiên nhiên tưởng chừng tách biệt nhưng lại cùng chung một màu sắc - màu xanh của hòa bình và chiến thắng. Thiên nhiên lúc này như cũng muốn chia vui cùng con người, và con người cũng đang hòa mình vào thiên nhiên. Đây không chỉ là một đêm trăng rằm bình thường, mà là một đêm lịch sử, đánh dấu chiến công vẻ vang của dân tộc. Sắc xuân của đất trời cũng chính là sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của đất nước.
Hai câu thơ cuối của bài thơ tiếp tục khắc họa hình ảnh vầng trăng, nhưng lần này trăng được miêu tả cùng con thuyền:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Hình ảnh vầng trăng trong thơ Bác xuất hiện thật đa dạng, từ những lúc một mình thảnh thơi đến khi bận rộn bàn việc nước. Trong đêm khuya, Người cùng các chiến sĩ bàn bạc việc quân, chuẩn bị cho những bước đi tiếp theo để bảo vệ Tổ quốc. Đây là một hoàn cảnh đặc biệt, nơi ánh trăng soi xuống dòng nước, phản chiếu lên mạn thuyền, tạo nên một khung cảnh vừa lãng mạn vừa đầy ý nghĩa. Sự kết hợp giữa chính trị và thiên nhiên trong bài thơ thật tài tình và độc đáo.
Qua bài thơ ngắn gọn chỉ với bốn câu, ta cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt diệu của vầng trăng trong đêm rằm tháng giêng - đêm chiến thắng lịch sử của dân tộc. Bác Hồ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng mà còn gửi gắm vào đó niềm vui và cảm xúc của mình trong ngày trọng đại này. Qua đó, ta càng thêm kính yêu và trân trọng vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 7
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã dẫn dắt đất nước thoát khỏi đêm dài nô lệ. Bên cạnh vai trò lãnh đạo, Người còn là một nhà thơ, một nghệ sĩ đích thực với tâm hồn nhạy cảm và những tác phẩm giàu giá trị. Trong số đó, bài thơ Rằm tháng giêng là một tác phẩm tiêu biểu.
Bài thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt, một thể thơ quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Cấu trúc bài thơ không có gì quá mới mẻ: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau ngụ tình. Tuy nhiên, với tài năng và trái tim nhạy cảm, Bác đã tạo nên những câu thơ sống động, giàu cảm xúc và ý nghĩa.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên;”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp của một đêm trăng mùa xuân. Trăng tròn vành vạnh, tỏa sáng rực rỡ, bao trùm khắp đất trời. Ánh trăng như phủ lên vạn vật một lớp ánh sáng vàng óng ánh, khiến cảnh vật trở nên lộng lẫy và tràn đầy sức sống. Dòng sông, mặt nước và bầu trời như được khoác lên tấm áo mới, trở thành “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân”. Hình ảnh thơ khiến người đọc như lạc vào một thế giới mộng mơ, nơi mùa xuân đang ở độ chín muồi, tỏa hương thơm ngát. Bầu trời và dòng sông hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn và thoáng đãng, khiến hơi thở của người đọc cũng trở nên nhẹ nhàng, say đắm.
Trong khung cảnh thiên nhiên mê hoặc ấy, hình ảnh con người hiện lên qua chiếc thuyền nhỏ giữa dòng sông. Điều đặc biệt là những con người ấy không đến đây để ngắm trăng hay đọc thơ, mà để bàn việc quân sự:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Những người trên thuyền có thể là các chiến sĩ đang bàn bạc việc quân, chuẩn bị cho những chiến dịch bảo vệ Tổ quốc. Dù cảnh sắc bên ngoài đẹp đẽ, họ vẫn tập trung cao độ vào công việc, không bị phân tâm. Họ làm việc miệt mài đến tận đêm khuya, khi ánh trăng đã tràn ngập cả con thuyền vẫn chưa dừng lại.
Hình ảnh ánh trăng trải đầy thuyền là một hình ảnh vô cùng thơ mộng. Trăng như một người bạn, một người đồng chí luôn ở bên, đồng hành cùng các chiến sĩ. Hình ảnh trăng và người chiến sĩ là cặp hình ảnh quen thuộc trong thơ Bác, thể hiện sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên. Ánh trăng sáng rọi còn là biểu tượng của niềm tin vào tương lai tươi sáng, độc lập và hạnh phúc của đất nước.
Bài thơ Rằm tháng giêng đã khắc họa một đêm trăng mùa xuân tươi đẹp và hấp dẫn. Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, thoáng đãng, với hình ảnh con người tuy nhỏ bé nhưng không thể bị lãng quên. Qua đó, bài thơ thể hiện tài năng và tâm hồn của tác giả - một trái tim yêu thiên nhiên nhưng luôn hướng về nhiệm vụ với Tổ quốc. Không sai khi gọi Hồ Chí Minh là “nhà thơ chiến sĩ”.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà thơ lớn, một thi sĩ yêu trăng. Người đã để lại cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị, trong đó có bài thơ Rằm tháng giêng.
Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt tại chiến khu Việt Bắc, khi Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ tổ chức cuộc họp tổng kết tình hình quân sự thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp (1947 - 1948). Khi cuộc họp kết thúc, đêm đã về khuya. Ánh trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất, làm nổi bật vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng. Trong khoảnh khắc ấy, Bác đã ứng khẩu sáng tác bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa đề Nguyên tiêu:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên,
Yên ba thâm xứ đàm quân sự;
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy đã dịch bài thơ sang tiếng Việt theo thể lục bát với tựa đề Rằm tháng Giêng. Bản dịch đã chuyển tải gần như trọn vẹn ý thơ nguyên tác, thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác miêu tả vẻ đẹp của ánh trăng nơi rừng sâu, thì trong bài này, Bác lại tả cảnh trăng trên sông nước:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng rực rỡ khắp bầu trời và mặt đất trong đêm rằm. Khung cảnh mênh mông, tưởng chừng như sông nước hòa vào bầu trời: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”. Điệp từ “xuân” được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh sức sống và niềm vui phơi phới của thiên nhiên và con người.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Công việc cách mạng đòi hỏi sự bí mật, nên cuộc họp phải diễn ra vào đêm khuya. Dù gian khổ, khó khăn, nhưng điều đó không làm vơi đi cảm xúc và thi hứng trong lòng Bác. Khi buổi họp kết thúc lúc nửa đêm, ánh trăng tròn vành vạnh (nguyệt chính viên) tỏa sáng khắp nơi. Cảnh sông nước trong đêm càng thêm huyền ảo. Dòng sông trở thành dòng sông trăng, và con thuyền như chở đầy ánh trăng (trăng ngân đầy thuyền). Trước vẻ đẹp của đêm trăng, tâm hồn Bác lâng lâng, hòa nhập với thiên nhiên, người bạn tri kỷ của Người. Trong lòng Bác trào dâng niềm vui và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng. Hình ảnh con thuyền chở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình tượng nghệ thuật lãng mạn và giàu ý nghĩa tượng trưng. Chỉ với một tâm hồn ung dung, lạc quan và niềm tin vững chắc vào tương lai, Bác mới có thể sáng tạo nên hình tượng độc đáo trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ đã mang đến cho người đọc cảm xúc thanh cao và trong sáng. Bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho việc Bác Hồ không chỉ là một lãnh tụ cách mạng tài ba mà còn là một nghệ sĩ với trái tim nhạy cảm và tâm hồn thi ca.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 9
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét: “Thơ Bác đầy trăng”. Quả thật, trăng xuất hiện trong thơ Bác như một người bạn tri âm, đồng hành cùng Người trên mọi chặng đường, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. Điều này được thể hiện rõ nét qua bài thơ Rằm tháng giêng.
Năm 1947, tại chiến khu Việt Bắc, chiến dịch Việt Bắc của ta giành thắng lợi rực rỡ, đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù. Trong niềm hân hoan của quân và dân, vầng trăng cũng hiện diện như một người bạn, cổ vũ tinh thần và chia sẻ niềm vui. Bài thơ được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về trăng của Bác, không chỉ bởi hoàn cảnh ra đời đặc biệt mà còn bởi vẻ đẹp lung linh của dòng sông trăng khiến lòng người xao xuyến.
Hai câu thơ đầu, với ngòi bút tinh tế và tài hoa, Bác đã vẽ nên bức tranh đêm trăng rằm trên sông nước tuyệt đẹp:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân viên;”
Giữa bầu trời cao rộng, vầng trăng đêm rằm sáng rực, nổi bật giữa không gian. Ánh trăng vàng óng ánh chiếu xuống mặt đất, xuyên qua từng nhành cây, ngọn cỏ, khiến cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Trăng vốn đã đẹp trong thơ ca, nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng càng trở nên thi vị hơn khi được nhìn qua đôi mắt của thi nhân. Khung cảnh núi rừng ngập tràn sắc xuân, sông xuân, nước xuân và trời xuân hòa quyện vào nhau, tạo nên một không gian bát ngát, tràn đầy sức sống. Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần trong một câu thơ, mang đến không khí vui tươi, rộn ràng cho đêm trăng rằm.
Hai câu thơ sau, hình ảnh con người được khắc họa trong bức tranh trăng rằm mùa xuân. Con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau một cách tuyệt đẹp:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Trên con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng sông, Bác cùng các chiến sĩ bàn bạc việc quân sự. Hình ảnh “yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mông, sâu thẳm, mịt mù khói sóng. Trong thơ ca cổ điển, khói sóng thường gợi nỗi sầu ly hương, nhưng ở đây, nó được kết hợp với “đàm quân sự”, tạo nên một ý nghĩa mới. Việc quân đòi hỏi sự kín đáo, bí mật, nên không gian sâu kín của dòng sông là nơi lý tưởng để họp bàn. Khi đêm về khuya, sau cuộc họp, dòng sông bỗng hóa thành dòng sông trăng rực rỡ, con thuyền chở đầy ánh trăng. Không gian trở nên lộng lẫy, bất ngờ. Phải chăng, việc quân đã được giải quyết, lòng người vui tươi, nên niềm vui lan tỏa khắp cảnh vật. Đêm trăng rằm mùa xuân càng thêm đẹp. Dù bận rộn với công việc quốc gia đại sự, Bác vẫn không quên thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Qua đó, ta thấy được tâm thế ung dung, lạc quan của Người, luôn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của dân tộc. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại.
Rằm tháng giêng là bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua bức tranh trăng trên sông nước mùa xuân đẹp đẽ, lãng mạn, tâm hồn của người thi sĩ - chiến sĩ Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét. Đây chỉ là một trong số nhiều bài thơ viết về trăng của Bác, nhưng vầng trăng trong Rằm tháng giêng mãi mãi để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả mọi thời đại.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 10
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Người là bài thơ Rằm tháng giêng. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc về phong cách sáng tác độc đáo của Bác.
Đầu năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ tổ chức cuộc họp tổng kết tình hình quân sự thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp (1947 - 1948). Khi cuộc họp kết thúc, đêm đã về khuya, ánh trăng rằm tròn đầy, tỏa sáng rực rỡ. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên thơ mộng, khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Bài thơ mở đầu với bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm rằm tháng giêng. Ánh trăng tròn và sáng nhất, như có thể thắp sáng vạn vật. “Sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” hòa quyện vào nhau, tạo nên một không gian rộng lớn, tràn đầy sức sống. Từ “xuân” được lặp lại ba lần, gợi lên sự tươi mới và rực rỡ của mùa xuân. Từ “tiếp” khiến người đọc hình dung bầu trời và mặt đất như hòa làm một. Những hình ảnh quen thuộc như “giang, thủy, nguyệt, thiên” trong thơ cổ điển được Bác tái hiện một cách hiện đại, tươi sáng và tràn đầy sinh khí, thể hiện nét độc đáo trong thơ của Người.
Không chỉ thiên nhiên, con người cũng xuất hiện trong bức tranh ấy, với vai trò là chủ thể trữ tình. Giữa làn sương khói mờ ảo, con người hiện lên trong công việc “đàm quân sự” - một nhiệm vụ quan trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc. Những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước với tinh thần nghiêm túc và trách nhiệm.
Bác đã làm nổi bật tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng - những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, việc bàn bạc quốc gia trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù tạo nên một hình ảnh vừa độc đáo vừa nên thơ. Khi công việc kết thúc, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã khuya. Ánh trăng lúc này như lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ. Hình ảnh cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Ta có thể tưởng tượng ánh trăng tràn ngập con thuyền, biến nó từ một phương tiện bàn việc quân sự thành con thuyền thơ đầy mộng mị. Hình ảnh này đã lay động tâm hồn nhà thơ, khi công việc nước đã xong, Người mới có thời gian thưởng thức thiên nhiên với trái tim say đắm. Qua đó, ta thấy được tâm hồn lạc quan, mơ mộng và yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ Rằm tháng giêng thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Bác Hồ. Đó là lý do khiến người đọc càng thêm yêu mến thơ của Người.
Cảm nhận về bài thơ Rằm tháng giêng - Mẫu 11
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài hoa. Một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả là bài thơ Rằm tháng giêng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được Bác khắc họa một cách sinh động. Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ Bác, nhưng ánh trăng trong Rằm tháng giêng lại mang một nét độc đáo riêng. Đó là ánh trăng đêm rằm tháng giêng - trăng tròn đầy, sáng rực rỡ nhất. Không gian núi rừng rộng lớn ngập tràn ánh trăng. “Sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh xuân rực rỡ. Điệp từ “xuân” được lặp lại ba lần, gợi lên sắc xuân tràn ngập khắp đất trời. Từ “tiếp” khiến người đọc hình dung bầu trời và mặt đất như hòa làm một, tạo nên một không gian vừa rộng lớn vừa gần gũi.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy, con người xuất hiện với một công việc quan trọng. Giữa làn sương khói mờ ảo, Bác và các chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Công việc này đòi hỏi sự kín đáo, bí mật, nên chỉ có thể diễn ra vào ban đêm, tại nơi vắng vẻ. Điều này cho thấy sự gian khổ và vất vả của công việc cách mạng. Tuy nhiên, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy lạc quan. Hình ảnh cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh này gợi lên khung cảnh ánh trăng tràn ngập con thuyền, biến nó từ một phương tiện bàn việc quân sự thành con thuyền thơ đầy mộng mị. Chỉ sau khi hoàn thành công việc, Bác mới có thời gian thưởng thức thiên nhiên với trái tim say đắm. Qua đó, ta thấy được tâm hồn thi sĩ cao đẹp của Người.
Bài thơ Rằm tháng giêng mang đậm phong cách sáng tác của Bác Hồ. Bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời của vị lãnh tụ kính yêu. Để hiểu sâu hơn về bài thơ, học sinh nên đọc kỹ từng câu thơ, phân tích hình ảnh và ngôn từ để cảm nhận được tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước của Bác. Đồng thời, nên liên hệ với hoàn cảnh lịch sử để thấy được sự kết hợp hài hòa giữa chất chiến sĩ và thi sĩ trong con người Hồ Chí Minh.
- Hướng dẫn viết bài văn thuật lại sự việc - Bài 11, Tiếng Việt lớp 4 tập 1 bộ sách Kết nối tri thức
- Nói và nghe: Ước mơ của em - Bài 26 Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức tập 1
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 66 - Sách Kết nối tri thức 6, Ngữ văn lớp 6, Tập 1
- Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận sâu sắc về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh - Dàn ý chi tiết & 5 bài văn mẫu xuất sắc
- Tập làm văn lớp 4: Tả cây bút chì của em - Dàn ý chi tiết & 21 bài văn mẫu hay nhất