Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Đất Nước kèm sơ đồ tư duy - 4 dàn ý chi tiết và 29 bài văn mẫu đặc sắc
Tài liệu phân tích tác phẩm Đất Nước do EduTOPS biên soạn, cung cấp 4 dàn ý chi tiết cùng 29 bài văn mẫu chất lượng cao, giúp học sinh nắm vững kiến thức và nâng cao kỹ năng viết.

Chi tiết nội dung tài liệu sẽ được trình bày ngay sau đây. Mời quý độc giả cùng theo dõi và tham khảo để có thêm nguồn tư liệu hữu ích.
Dàn ý phân tích tác phẩm Đất Nước
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất Nước.
- Nêu tổng quan về nội dung và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc của Đất Nước
- Đất Nước được hình thành từ ngàn xưa, gắn liền với những truyền thuyết, cổ tích mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc.
- Những câu chuyện cổ tích và truyền thuyết phản ánh truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
- Sự tích Trầu Cau khắc họa tình anh em keo sơn, tình vợ chồng thủy chung, đồng thời gợi nhớ phong tục ăn trầu của người Việt.
- Truyền thuyết Thánh Gióng tái hiện tinh thần yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm của cha ông.
- Đất Nước được hình thành từ những phong tục đẹp đẽ và đời sống văn hóa lâu đời:
- “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: hình ảnh búi tóc truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
- “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: tình cảm vợ chồng bền chặt, thủy chung.
- Đất Nước được xây dựng từ những điều giản dị như biết làm nhà, trồng lúa, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống lao động.
2. Đất Nước là gì?
- Về không gian địa lý: Đất Nước là nơi con người sinh sống, yêu thương, gắn bó với những hình ảnh thân quen như “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”. Đồng thời, Đất Nước cũng hiện lên kỳ vĩ qua những “núi bạc”, “biển khơi”, là nơi trở về sau những hành trình xa xứ.
- Về thời gian lịch sử:
- Trong quá khứ, Đất Nước thiêng liêng và hùng vĩ, gắn liền với truyền thống con Rồng cháu Tiên và những chiến công dựng nước, giữ nước của cha ông.
- Trong hiện tại, Đất Nước hiện diện trong từng nếp sống, ngôn ngữ, phong tục tập quán, trở thành một phần máu thịt của mỗi con người.
- Trong tương lai, Đất Nước hứa hẹn những bước tiến vượt bậc, với thế hệ trẻ được kỳ vọng sẽ tiếp nối và phát huy truyền thống vẻ vang.
3. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân
a. Trên phương diện không gian địa lý:
- Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh nổi tiếng như núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, Đất Tổ Hùng Vương, núi Bút non Nghiên...
- Nhấn mạnh sự thống nhất của non sông, từ đó khơi gợi ý chí đoàn kết dân tộc, Nam Bắc một nhà.
- Những biểu tượng văn hóa phản ánh vẻ đẹp tâm hồn Việt: tình nghĩa vợ chồng thủy chung, ý chí bất khuất chống giặc ngoại xâm, truyền thống hiếu học, và cả những điều giản dị như con cóc, con gà cũng góp phần làm nên thắng cảnh quê hương.
=> Khẳng định mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bởi Đất Nước được tạo nên từ công sức và tâm huyết của mỗi người dân.
b. Phương diện thời gian lịch sử:
- Trải qua 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn là lực lượng nòng cốt đứng lên bảo vệ Tổ quốc, dù “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm nên Đất Nước.
- Nhân dân không chỉ xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà còn gìn giữ, truyền lại cho thế hệ sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần quý báu.
c. Trên bình diện chiều sâu văn hóa:
- Tác giả sử dụng ba câu ca dao tiêu biểu để khắc họa ba nét đẹp tâm hồn và văn hóa của người Việt Nam.
- “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”: vẻ đẹp của tình yêu thương, sự chăm sóc và quan tâm đến những người xung quanh.
- “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”: đề cao giá trị tình nghĩa hơn vật chất phù phiếm.
- “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”: khẳng định tinh thần kiên cường, bền bỉ trong đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc.
III. Kết bài
- Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Nêu cảm nhận chung về bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích Đất Nước - Mẫu 1
Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đề tài chiến tranh cách mạng, nhiều tác giả cũng chọn viết về xây dựng và ca ngợi đất nước với những vần thơ chân thành, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, đã chọn đề tài đất nước với cách thể hiện riêng: không ồn ào, tuyên truyền mà nhẹ nhàng, gần gũi. Ông nhìn đất nước từ những điều giản dị, từ con người bình thường, kết hợp giọng thơ triết luận trữ tình với chất liệu văn hóa dân gian, tạo nên hình tượng Đất Nước thân thương, bình dị, bước ra từ truyền thuyết, phong tục của 4000 năm văn hiến.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm giải đáp câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ?”. Qua 9 câu thơ đầu, ông khẳng định Đất Nước đã tồn tại từ lâu, gắn liền với truyền thuyết, cổ tích, và phong tục dân gian. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi nhớ sự tích Trầu Cau, tượng trưng cho tình anh em, vợ chồng thủy chung, và phong tục ăn trầu của người Việt. Câu “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” nhắc đến truyền thuyết Thánh Gióng, thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất. Đất Nước hình thành từ tình nghĩa dân tộc và lớn lên nhờ tinh thần đấu tranh kiên cường. Tác giả cũng nhấn mạnh Đất Nước bắt nguồn từ thuần phong mỹ tục như búi tóc sau đầu, tình nghĩa vợ chồng “gừng cay muối mặn”, và cuộc sống lao động giản dị như dựng nhà, trồng lúa.
Đất Nước còn được hình thành từ tiến trình phát triển của con người Việt Nam. Từ “cái kèo, cái cột thành tên”, tác giả gợi nhớ quá trình từ hang đá thô sơ đến những ngôi nhà vững chãi. “Hạt gạo phải một nắng hai sương” phản ánh sự chuyển đổi từ hái lượm sang nền văn minh lúa nước. Kết thúc đoạn, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó” – ngày truyền thuyết ra đời, ngày thuần phong mỹ tục hình thành, và ngày nhân dân biết dựng nước, giữ nước. Đất Nước hiện lên gần gũi, thân thuộc, thấm đẫm trong tâm hồn mỗi người.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khám phá khái niệm “Đất Nước là gì?” bằng cách tách “Đất” và “Nước” để định nghĩa. Về không gian, “Đất” là nơi anh đến trường, “Nước” là nơi em tắm – những hình ảnh gần gũi, thân thuộc. Khi anh và em lớn lên, Đất Nước trở thành không gian riêng tư cho tình yêu. Đất Nước cũng hiện lên kỳ vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Dù đi đâu, dân tộc Việt Nam vẫn đoàn tụ nơi Đất Nước – nơi trở về của những tâm hồn yêu quê hương.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Về thời gian lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, khẳng định nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc. Ông gợi nhớ truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông, từ thời vua Hùng đến nay. Những lời dặn dò chân thành: duy trì nòi giống, giữ gìn non sông, và nhớ về cội nguồn với lòng thành kính, trân trọng.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện diện trong mỗi con người, từ ngôn ngữ đến phong tục. Tình yêu lứa đôi góp phần xây dựng Đất Nước hài hòa, nồng thắm. Trách nhiệm của mỗi người là “cầm tay mọi người”, tạo nên khối đại đoàn kết để xây dựng Đất Nước vẹn tròn, to lớn, sánh vai cùng các cường quốc.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong tương lai, Đất Nước sẽ được thế hệ trẻ đưa đi xa, vươn tầm thế giới. Họ sẽ gánh vác trách nhiệm lớn lao, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp, vững mạnh hơn.
Nguyễn Khoa Điềm kết thúc bằng những câu thơ tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân với Đất Nước.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Lời thơ như lời tâm tình của người anh với người em, lời của chàng trai với cô gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ sau, và của cách mạng với tuổi trẻ đô thị miền Nam đang chìm trong cuộc sống hưởng thụ. Đất Nước, vốn là khái niệm trừu tượng, trở nên cụ thể, hữu hình khi được so sánh với “máu xương của mình”. Đây là sự tiếp nối của ý thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, khẳng định Đất Nước là phần căn cơ, cốt yếu trong mỗi con người. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau thể hiện mệnh lệnh, xác định trách nhiệm của mỗi người: yêu nước không chỉ là tư tưởng mà phải được thể hiện qua hành động. Mỗi người cần biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “hóa thân cho dáng hình xứ sở”, dâng hiến cả sự sống và thanh xuân cho Đất Nước, đặt Tổ quốc lên trên hạnh phúc cá nhân.
Sau khi nêu lên sự hình thành và phát triển của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đi sâu vào tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” bằng câu hỏi: Đất Nước do ai làm nên?
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Trên phương diện không gian địa lý, tác giả cảm nhận Đất Nước qua những địa danh nổi tiếng, gắn liền với truyền thuyết, cổ tích dân gian. Những địa danh như “núi Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”, “đất tổ Hùng Vương”, “núi Bút, non Nghiên” không chỉ thể hiện niềm tự hào mà còn khẳng định sự thống nhất của non sông. Mỗi địa danh đại diện cho một vùng đất trên dải đất hình chữ S, từ Lạng Sơn đến Thanh Hóa, Phú Thọ, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, và miền Nam. Việc liệt kê này nhấn mạnh ý chí thống nhất Tổ quốc, đồng thời gợi nhớ những giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc: tình nghĩa vợ chồng, ý chí chống giặc ngoại xâm, truyền thống hiếu học, và cả những điều giản dị như con cóc, con gà cũng góp phần làm nên thắng cảnh quê hương. Cấu trúc thơ độc đáo, kết nối con người với địa danh bằng từ “góp”, khẳng định mạnh mẽ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm nâng tầm ý thơ lên mức khái quát, khẳng định tầm vóc kỳ vĩ của Đất Nước qua không gian “khắp ruộng đồng gò bãi” và thời gian “bốn ngàn năm”. Nhân dân chính là người tạo nên Đất Nước, bằng cuộc đời, ước mơ, và phong tục tập quán in hằn trên dáng hình xứ sở. Những câu thơ tha thiết, nồng đượm yêu thương, khẳng định sự trường tồn của Đất Nước qua bao thế hệ.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” tiếp tục được khẳng định qua phương diện thời gian lịch sử. Trong 4000 năm, nhân dân đã cần cù lao động, xây dựng Đất Nước. Khi chiến tranh xảy ra, người con trai ra trận, người con gái chèo chống gia đình, nuôi con cái, và cả những người phụ nữ kiên cường như Bà Trưng, Bà Triệu cũng tham gia chiến đấu. Dù nhiều người trở thành anh hùng, vẫn có những người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ chính là những người làm nên Đất Nước.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Nhân dân không chỉ xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà còn truyền lại cho thế hệ sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông để lại nền văn minh lúa nước, ngọn lửa sáng ngời, ngôn ngữ, và văn hóa làng xã. Họ đắp đập, be bờ, tạo dựng cơ sở vật chất để thế hệ sau phát triển. Nhân dân cũng là lực lượng chống lại ngoại xâm và nội thù, bảo vệ Đất Nước.
“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm khắc họa nét đẹp tâm hồn Việt qua ca dao, thần thoại. Ba câu ca dao tiêu biểu được nhắc đến: “Yêu em từ thuở trong nôi” thể hiện tình yêu thương; “Cầm vàng mà lội qua sông” khẳng định giá trị tình nghĩa hơn vật chất; và “Thù này ắt hẳn còn lâu” phản ánh tinh thần kiên cường chống giặc ngoại xâm. Những câu ca dao này là minh chứng cho vẻ đẹp văn hóa và tâm hồn người Việt.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Kết thúc đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận vẻ đẹp của quê hương qua hình ảnh dòng sông. Dù bắt nguồn từ đâu, khi chảy về Đất Nước, dòng sông mang theo giọng hát, bản sắc dân tộc. Mỗi người Việt Nam, trong lao động và mưu sinh, đã góp phần tạo nên dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 năm.
Nguyễn Khoa Điềm, qua đoạn trích Đất Nước, đã thể hiện suy nghĩ sâu sắc và tình cảm tha thiết với đất nước trên nhiều bình diện: địa lý, lịch sử, và văn hóa. Tư tưởng xuyên suốt là “Đất Nước của nhân dân”. Về nghệ thuật, đoạn trích kết hợp giọng điệu chính luận trữ tình với chất liệu văn hóa dân gian, tạo nên những xúc cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng thơ tâm tình, tha thiết, làm cho nội dung nghị luận trở nên mềm mại, thấm sâu vào lòng người.
Phân tích Đất Nước - Mẫu 2
"Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông"
Những câu thơ đầy xúc động của Chế Lan Viên về Tổ quốc đã khơi dậy tình yêu nước mãnh liệt. Cùng chung đề tài, Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên bài thơ "Đất Nước", mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về cội nguồn và vẻ đẹp của đất nước, đồng thời nhắc nhở trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ non sông.
Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc trở về với cội nguồn của đất nước:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Câu thơ mở đầu vang lên tự nhiên như một lời kể chuyện. Đất Nước đã tồn tại từ rất lâu, không ai biết chính xác từ khi nào. Đất Nước hiện diện trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà mẹ thường kể, mang theo những bài học đạo lý sâu sắc như "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo". Đất Nước còn hiện hữu trong miếng trầu bà ăn, gợi nhớ "Sự tích trầu cau" – câu chuyện cảm động về tình nghĩa vợ chồng, anh em. Đất Nước cũng được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường của dân tộc, với hình ảnh cây tre tượng trưng cho sức mạnh và ý chí bất khuất. Tác giả sử dụng cấu trúc "Đất Nước đã có", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên" để khắc họa quá trình hình thành và phát triển của đất nước, từ đó làm nổi bật cội nguồn thiêng liêng, gần gũi và thân thương.
Những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa đất nước và mỗi cá nhân:
"Đất là nơi anh đến trường
…
Đều có một phần Đất Nước"
Đất nước gắn liền với những nơi quen thuộc như "nơi anh đến trường", "nơi em tắm", "nơi ta hò hẹn". Đất nước hiện lên qua những điều giản dị, thân thuộc nhất. Tác giả còn nhắc đến huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết các vua Hùng dựng nước, khẳng định bề dày lịch sử của đất nước. Đoạn thơ còn khơi gợi dòng chảy thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, khơi dậy niềm tự hào về cội nguồn dân tộc. Đất nước không xa xôi mà hóa thân trong mỗi con người: "Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước". Mỗi người Việt Nam đều thừa hưởng một phần vật chất và tinh thần của đất nước, từ đó thấy được sự gắn kết sâu sắc giữa cá nhân và Tổ quốc.
Những câu thơ tiếp theo là lời nhắn nhủ chân thành của tác giả:
Em em ơi
…
Làm nên Đất Nước muôn đời"
Giọng thơ ngọt ngào, thiết tha như lời tâm sự của tác giả với thế hệ trẻ và chính bản thân mình. Đó là lời nhắc nhở về trách nhiệm giữ gìn và phát huy giá trị của đất nước, để Đất Nước trường tồn mãi mãi.
Khổ thơ tiếp theo khẳng định tư tưởng "Đất Nước của nhân dân":
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một cái nhìn sâu sắc và đầy tính nhân văn khi hóa thân phẩm chất con người vào những hình ảnh của đất nước. Từ những con người bình dị như "cặp vợ chồng", "người học trò nghèo", "Ông Đốc" đến những anh hùng trong truyền thuyết như "Thánh Gióng", "Hùng Vương", tất cả đều góp phần làm nên Đất Nước. Không chỉ con người, mà cả những con vật bé nhỏ, gần gũi như "con cóc, con gà" hay những loài vật linh thiêng trong tâm linh người Việt như "con rồng, con voi" cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp của quê hương. Không gian địa lý đã mở ra cho nhà thơ những khám phá mới mẻ về vẻ đẹp của đất nước. Đồng thời, tác giả còn nhìn nhận đất nước qua chiều sâu lịch sử, tự hào về những phẩm chất cao đẹp của những người anh hùng bình dị trong cuộc sống thường ngày.
Đến những câu thơ cuối, nhà thơ nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?
…
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông sâu"
Ý thơ "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát" khắc họa đặc điểm địa lý độc đáo của Việt Nam. Từ "trăm màu" trong câu thơ cuối nhấn mạnh sự đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc. Qua đó, tác giả khẳng định Đất Nước được sinh ra từ nhân dân, tồn tại nhờ nhân dân và vì nhân dân.
Với việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian đa dạng, sáng tạo, ngôn ngữ giàu chất suy tư và triết luận sâu sắc, cùng thể thơ tự do và giọng điệu trữ tình - chính luận thiết tha, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh Đất Nước qua nhiều góc độ: lịch sử, địa lý. Từ đó, tác giả nhấn mạnh trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với quê hương, đất nước.
Phân tích Đất Nước - Mẫu 3
Tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm luôn chảy trong huyết quản của người Việt Nam, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ gian khổ, nhiều tác phẩm văn học ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm, với đoạn trích "Đất Nước" nổi bật.
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một trí thức trẻ ý thức sâu sắc về trách nhiệm với đất nước và nhân dân. Trường ca "Mặt đường khát vọng" là tác phẩm tiêu biểu, và đoạn trích "Đất Nước" thuộc chương V mang đến cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất Nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất Nước:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
...
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác giả khẳng định Đất Nước đã tồn tại từ rất lâu, từ khi con người sinh ra trên mảnh đất này. Đất Nước ra đời từ thời xa xưa, trong chiều sâu lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước. Đất Nước không phải là khái niệm trừu tượng mà là những gì gần gũi, thân thuộc trong cuộc sống bình dị. Từ lời ru của mẹ, từ những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, Đất Nước nuôi dưỡng ta khôn lớn, trở thành một phần ký ức không thể quên. Hình ảnh nhai trầu, sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng với cây tre đánh giặc, tất cả đều là biểu tượng của tinh thần yêu nước và sự kiên cường của dân tộc.
Bên cạnh truyền thống yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt Nam:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với mái tóc búi gọn gàng sau đầu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, giản dị nhưng đầy nữ tính. Tác giả sử dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” để nói lên sự thủy chung, tình nghĩa sâu nặng trong mối quan hệ vợ chồng. Ngoài ra, Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến truyền thống lao động sản xuất của người dân, từ việc dựng nhà bằng kèo cột vững chãi đến quy trình sản xuất hạt gạo qua các công đoạn “xay – giã – dần – sàng”. Hạt gạo không chỉ là thành quả lao động mà còn là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, giúp Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Từ những yếu tố trên, tác giả khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” – ngày mà truyền thống, phong tục tập quán và văn hóa riêng biệt của dân tộc Việt Nam được hình thành. Đó là ngày Đất Nước của chúng ta ra đời.
Tiếp theo, tác giả định nghĩa về Đất Nước một cách độc đáo:
“Đất là nơi em đến trường
...
Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất Nước không chỉ là không gian địa lý hay lịch sử mà còn là không gian sinh hoạt gần gũi, thân thuộc. “Đất” gắn với hình ảnh người con trai, “nước” gắn với vẻ đẹp người con gái, và hai tiếng Đất Nước hợp thành tình yêu đôi lứa. Đất Nước cũng là nơi hẹn hò, trao nhau yêu thương, và là nơi con người đoàn tụ, làm ăn sinh sống. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ với bọc trăm trứng là khởi nguồn của dân tộc Việt Nam.
Từ những cảm nhận và lí giải trên, tác giả nhắn nhủ mọi thế hệ phải nhớ về cội nguồn, biết ơn tổ tiên và ngày giỗ Tổ Hùng Vương – người đã gây dựng nền móng đầu tiên cho Đất Nước.
Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận Đất Nước qua bề rộng không gian địa lý, chiều dài lịch sử, và bề dày truyền thống văn hóa. Đất Nước là sự hòa quyện giữa cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, giữa nhân dân và cộng đồng.
Sau những nhận định và lí giải, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi người đối với Đất Nước:
“Trong anh và em hôm nay
...
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất Nước không chỉ là một khái niệm mà còn là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất Nước của tình yêu đôi lứa là một Đất Nước hài hòa, nồng thắm. Đất Nước của cả dân tộc đoàn kết là một Đất Nước vẹn tròn, to lớn, có sức mạnh chống lại mọi thế lực thù địch. Qua đây, tác giả thể hiện niềm tin yêu vào thế hệ mai sau, những người sẽ đưa Đất Nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu và phát triển đến những tầm cao mới.
“Em ơi em” – một tiếng gọi đầy yêu thương, giãi bày và chia sẻ niềm vui sướng khi tác giả cảm nhận và định nghĩa Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước: phải biết gắn bó, san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, và sẵn sàng hy sinh để giữ vững dáng hình xứ sở, đảm bảo Đất Nước tồn tại muôn đời.
Đoạn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người không chỉ thuộc về bản thân mà còn là một phần của Đất Nước. Chúng ta được thừa hưởng di sản văn hóa, tinh thần của Đất Nước và được nuôi dưỡng trong những giá trị đó. Vì vậy, mỗi người đều có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và phát huy nền văn hóa ấy. Qua đây, ta thấy rõ cách cảm nhận đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước: từ địa lý, lịch sử, văn hóa đến phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo vận dụng chất liệu dân gian vào bài thơ, tạo nên nét độc đáo không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ chờ chồng đến hóa đá. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết về tình nghĩa vợ chồng. Dù ở đâu trên Đất Nước, tình yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những giá trị tốt đẹp đáng được tôn vinh.
Không chỉ tình yêu đôi lứa, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh lịch sử và lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc. Đó là hình ảnh Thánh Gióng, cậu bé nhỏ tuổi nhưng anh dũng đánh đuổi giặc Ân, giành lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng linh thiêng với đàn voi chín mươi chín con. Những câu chuyện, sự tích này trở thành niềm tự hào vô bờ của mỗi người dân Việt Nam.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất Nước này là Đất Nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó, trở thành nhân tài cho Đất Nước, ghi dấu ấn bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là người nổi tiếng hay vô danh, họ đều xứng đáng được biết ơn, học tập và noi theo.
Đất Nước còn được hình thành từ những điều nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng góp phần làm nên di sản thế giới Hạ Long. Những ngọn núi khác được đặt tên theo các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên công ơn của họ. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Trên Đất Nước này, đâu đâu cũng in dấu kỷ niệm của thế hệ cha ông. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn tiếp diễn, và sẽ có thêm nhiều giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, lối sống của cha ông mãi mãi là niềm tự hào của con cháu.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
…
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nhắc đến các anh hùng nổi tiếng mà còn nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị nhưng kiên cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đặt tên”, cần cù lao động, xây dựng cuộc sống. Khi Đất Nước có giặc, họ đứng lên chiến đấu, đoàn kết giành lại độc lập. Họ có thể vô danh, nhưng chính họ là người giữ vững non sông này. Không chỉ trên chiến trường, họ còn là những anh hùng trong đời thường, giữ gìn và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất cho thế hệ sau.
Đến đây, tác giả khẳng định tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”: Đất Nước này do nhân dân làm ra, gắn liền với ca dao, thần thoại, cội nguồn dân tộc. Đồng thời, tác giả gửi gắm những bài học quý giá: anh em phải biết đoàn kết, yêu thương từ thuở nằm nôi; biết quý trọng công sức lao động; và nuôi dưỡng ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua đây, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của con người Việt Nam và tình yêu thương trải khắp mọi miền Đất Nước.
Bằng cách vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian và ngôn ngữ giản dị, lời thơ nhẹ nhàng như lời tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho người đọc cái nhìn mới mẻ về cội nguồn Đất Nước, về vẻ đẹp của một Đất Nước giàu truyền thống văn hóa. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” qua ba chiều cảm nhận: địa lý, lịch sử và văn hóa.
Nhiều năm tháng qua đi, nhưng đoạn thơ cùng trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên giá trị tốt đẹp ban đầu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ người Việt Nam. Tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ giúp ta hiểu và yêu Đất Nước hơn mà còn thôi thúc hành động để bảo vệ và phát triển Đất Nước này.
Phân tích Đất Nước - Mẫu 4
Ai đó đã từng hỏi: Có mối tình nào lặng lẽ và sâu nặng hơn tình yêu Tổ quốc? Để trả lời câu hỏi ấy, nhiều vần thơ đã cất cánh. Chúng ta thấy hình ảnh đất nước đau thương nhưng quật cường trong thơ Nguyễn Đình Thi, hay Lê Anh Xuân với “Dáng đứng Việt Nam” bay lên giữa mùa xuân bát ngát. Với Xuân Diệu, “Tổ quốc tôi như một con tàu”, và đến năm 1971, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một ý thơ đẹp về đề tài đất nước qua bài thơ “Đất Nước”.
Tác phẩm “Đất Nước” ra đời cùng thời với trường ca “Theo chân Bác” của Tố Hữu, “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn… Nhưng khác với các tác phẩm kể trên, trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm triển khai cảm xúc theo quá trình thức tỉnh ý thức của tuổi trẻ thành thị Việt Nam, giúp họ nhận rõ kẻ thù và ý thức trách nhiệm của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi....
Đất Nước có từ ngày đó ...”
Đoạn thơ với giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ đưa ta trở về cội nguồn của Đất Nước. Đất Nước có từ khi nào không ai rõ, chỉ biết rằng:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc“
Khi lí giải về cội nguồn Đất Nước, tác giả gắn liền Đất Nước với những thuần phong mỹ tục, cổ tích, truyền thuyết, tập tục ăn trầu, búi tóc, và truyền thống lao động cần cù, đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm. Đất Nước được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Lời thơ như lời kể, hình ảnh giản dị, gần gũi, kết hợp yếu tố văn hóa dân gian để khắc họa cội nguồn Đất Nước vừa thân thuộc vừa thiêng liêng.
Tiếp theo, tác giả cảm nhận Đất Nước qua phương diện địa lý, lịch sử và nhắn nhủ ý thức về cội nguồn dân tộc. Về phương diện địa lý, tác giả viết:
"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc“
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Tác giả định nghĩa rất cụ thể: “Đất là..., Nước là...” và tổng hợp “Đất Nước là...”. Đất Nước được cảm nhận qua những không gian gần gũi, gắn bó như nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc“
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đúng vậy, Đất Nước bắt nguồn từ tình yêu nhỏ bé rồi lớn dần lên thành điều hùng vĩ, thiêng liêng, thống nhất toàn vẹn. Về phương diện lịch sử, Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.
"Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"
Đất Nước là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ, từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng, đến nay và cả mai sau vẫn là nơi tồn tại, phát triển trên một không gian mênh mông. Từ cách cảm nhận đó, nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức về cội nguồn dân tộc, thế hệ sau phải biết nhớ ơn thế hệ trước, hướng về đất Tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ".
Bằng cách diễn đạt bình dị, vừa hiện đại vừa gần gũi, đoạn thơ không chỉ thể hiện cảm nhận về Đất Nước mà còn bộc lộ tình yêu nước tha thiết của tác giả cùng lời nhắn nhủ đến thế hệ sau. Đất Nước hiện lên gần gũi, gắn bó thân thiết với mỗi người:
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
Với giọng thơ tâm tình, ngọt ngào như lời của đôi lứa yêu nhau, tác giả khẳng định con người là hạt nhân làm nên Đất Nước. Mỗi người là một phần của cộng đồng, của Đất Nước, được kết nối bởi sự gần gũi, yêu thương và niềm tự hào.
"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất Nước hiện diện trong không gian sống thân thương, trìu mến. Chính vì thế:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.”
Khi đôi lứa yêu thương, gắn bó, Đất Nước nhỏ được dựng xây để cùng tạo nên Đất Nước lớn lao. Khi mọi người nắm tay nhau, đoàn kết, yêu thương, Đất Nước trở nên vẹn tròn, to lớn, đủ sức mạnh để làm nên lịch sử dân tộc.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông, xây dựng Đất Nước ngày càng tươi đẹp, văn minh. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".
Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “em ơi em” để nhắn nhủ rằng Đất Nước là mồ hôi, xương máu của tổ tiên, của dân tộc qua ngàn đời. Vì vậy, mỗi người phải biết gắn bó, san sẻ, và hi sinh cho dáng hình Đất Nước. Trong hoàn cảnh kháng chiến chống Mỹ, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như hồi trống thúc giục tinh thần quyết chiến của mỗi người để bảo vệ và giữ vững Đất Nước.
Nhà thơ gieo vào từng vần thơ lời ca ngợi Đất Nước:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...."
Đoạn thơ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của Đất Nước, khẳng định những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Đất Nước hiện lên với những danh lam thắng cảnh đã đi vào huyền thoại, cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm mang đến cái nhìn nhân văn: mỗi ngọn núi, hòn đảo đều góp phần làm đẹp thêm cho Đất Nước. Tình yêu đôi lứa hạnh phúc cũng góp phần xây dựng Đất Nước thêm kỳ vĩ, lớn lao.
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước qua lăng kính lịch sử và truyền thống:
"Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"
Dấu tích “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại hàng trăm ao đầm ở vùng Hà Bắc. Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Những từ ngữ “đi qua còn để lại”, “góp mình dựng” tuy bình dị nhưng đầy tự hào, thể hiện sự thiêng liêng của Đất Nước. Đất Nước với núi cao, biển rộng, sông dài, với Sông Hồng “đỏ nặng phù sa”, với Cửu Long Giang thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa như con rồng.
"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm"
Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay, cùng dòng sông xanh thẳm với nước ngọt phù sa, tôm cá, là hình ảnh Đất Nước tươi đẹp và con người Việt Nam tài hoa, chịu thương chịu khó. Ngắm núi Bút, non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nhắc đến “địa linh nhân kiệt” mà còn tôn vinh tinh thần tôn sư trọng đạo của nhân dân. Những học trò nghèo đã góp phần làm nên Núi Bút, non Nghiên. Hạ Long trở thành kỳ quan nhờ “Con cóc, Ông Đốc, Ông Trang…”. Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm của con người, những phẩm chất làm nên Đất Nước muôn đời. Tám câu thơ với nhiều địa danh và huyền thoại thể hiện niềm tự hào và lòng biết ơn của tác giả đối với Đất Nước và Nhân dân, với những phẩm chất như trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng. Chính những vẻ đẹp ấy đã làm cho non sông thêm giàu đẹp.
Sau tám câu thơ, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Bằng giọng văn chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....”
Bốn câu thơ khắc họa dáng hình Đất Nước vừa mộc mạc, đơn sơ, vừa thân thương, gần gũi với đồng lúa, nương ngô. Đất Nước với tất cả sự giản dị ấy là hình ảnh mà cha ông hằng mong ước, hằng gây dựng. Con người chính là hạt nhân làm nên muôn hình vẻ của Đất Nước, khiến nó thêm đẹp, thêm tươi. Qua hình tượng Đất Nước, tác giả ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam, đồng thời bày tỏ lòng yêu mến, tự hào về quê hương.
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được tác giả thể hiện qua từng câu chữ:
“Em ơi em.......
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “Em ơi em”, mời gọi nhìn về bốn nghìn năm lịch sử, nhìn lại quá khứ của nhân dân và Đất Nước với 4000 năm văn hóa, gắn liền với những con người Việt Nam cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Đất Nước, có những con người đã hy sinh thầm lặng mà tác giả không bao giờ quên:
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ làm ra Đất Nước”
Chính nhân dân là lực lượng chủ chốt, đóng góp công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước từ quá khứ, hiện tại đến tương lai.
“Họ là người gìn giữ và trao truyền hạt lúa ta gieo trồng
Họ truyền ngọn lửa ấm áp qua mỗi mái nhà, từ hòn than nhỏ đến con cúi bập bùng
Họ dạy ta tiếng nói đầu đời qua từng lời ru
Họ mang theo tên làng, tên xã trong mỗi bước chân di cư
Họ đắp đập, be bờ để thế hệ sau được hưởng trái ngọt
Khi giặc ngoại xâm đến, họ đứng lên chống trả
Khi nội thù xuất hiện, họ kiên cường đánh đuổi”
Tác giả khéo léo sử dụng phép lặp cùng những hình ảnh giàu tính biểu tượng, nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong việc sáng tạo, bảo tồn các giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả khẳng định chắc chắn:
“Để Đất Nước này mãi là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”
Với giọng thơ trữ tình đậm chất chính luận, tác giả khẳng định nhân dân chính là chủ thể của lịch sử, của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Phải chăng tác giả đang nhắn nhủ mỗi người dân về ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc?
“Dạy anh biết yêu em từ thuở còn nằm nôi
Biết trân quý công sức như vàng qua những ngày vất vả
Biết trồng tre chờ ngày hóa gậy
Đi trả thù mà chẳng ngại đường dài”
Tác giả vận dụng tài tình văn học dân gian để nhắc nhở và tôn vinh những truyền thống cao đẹp của dân tộc: tình yêu say đắm, tinh thần anh dũng trong chiến đấu. Đó chính là nguồn sức mạnh vô tận giúp đất nước vượt qua mọi thử thách và tiến lên phía trước. Nhà thơ thấu hiểu cội nguồn sức mạnh ấy nên luôn tràn đầy hy vọng và niềm tin:
“Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu
Mà khi về với Đất Nước mình lại cất lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Với giọng thơ tha thiết, tâm tình, tác giả đã khéo léo vận dụng các yếu tố văn học dân gian, kết hợp với ý tưởng đẹp và cảm xúc chân thành, thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước.
Như vậy, bằng cách sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo ngôn ngữ, cách diễn đạt vừa bình dị vừa hiện đại, tác giả đã tạo nên sự gần gũi mà vẫn mới mẻ, kết hợp với giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, giàu chất suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã nhắn nhủ thế hệ trẻ hôm nay phải không ngừng phấn đấu vì đất nước và luôn nhớ rằng:
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”
Phân tích Đất Nước - Mẫu 5
Từ xưa đến nay, đề tài đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong nền văn học Việt Nam. Tiếp nối dòng chảy văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã mang đến những góc nhìn mới mẻ và sâu sắc về đất nước. Những quan điểm này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất nước trong mắt mỗi người mang một ý nghĩa khác nhau. Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã cảm nhận và phân tích khái niệm này một cách logic, từng bước hé mở từng lớp ý nghĩa của đất nước. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm trừu tượng mà bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi trong cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước hiện hữu trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn mỗi ngày
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre để chống giặc
Qua cách diễn đạt của tác giả, Đất Nước hiện lên thật gần gũi, bắt nguồn từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu giản dị, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre đánh giặc. Đất Nước đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa trẻ từ thuở ấu thơ.
Không chỉ vậy, Đất Nước còn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ nét đẹp văn hóa và truyền thống của dân tộc. Hình ảnh “Tóc mẹ bới sau đầu” phản ánh nét đẹp văn hóa được lưu truyền qua bao thế hệ. Dù trải qua nghìn năm Bắc thuộc, bị áp đặt văn hóa phương Bắc, nhưng những giá trị văn hóa của dân tộc ta vẫn trường tồn. Đất Nước cũng được xây dựng từ lối sống đầy tình nghĩa, thủy chung, bắt nguồn từ mối quan hệ vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo vận dụng ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để khẳng định Đất Nước được hình thành từ những điều giản dị mà thiêng liêng.
Tiếp tục mạch cảm hứng, Nguyễn Khoa Điềm đã phân tích sâu hơn về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước không xa vời mà chính là không gian sống, gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không ngần ngại khẳng định Đất Nước là nơi ta học tập, sinh hoạt, yêu đương và nhớ nhung. Đất Nước được hình thành từ những điều giản dị nhất. Ông còn truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào ta trong bọc trứng”. Từ sự phân tích sâu sắc về lịch sử và địa lý, ông đã hoàn thiện khái niệm Đất Nước và nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai chữ “gánh vác” đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ sau với công cuộc dựng nước và giữ nước.
“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ khẳng định Đất Nước tồn tại và vững bền nhờ sự đoàn kết, yêu thương của mọi người. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung và cái riêng, Đất Nước mới trở nên trọn vẹn. Từ đó, ông nhắc nhở trách nhiệm của mỗi cá nhân và thế hệ trẻ: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Bởi vì:
Những người vợ nhớ chồng đã góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được tác giả nhắc đến, mỗi nơi gắn liền với một chiến tích, một sự hy sinh thầm lặng để làm nên Đất Nước. Từ đó, ông rút ra kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Để làm nên Đất Nước, không thể chỉ là công lao của một cá nhân mà là sự đóng góp của cả một dân tộc. Vậy họ là ai?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Đó chính là những con người vô danh, họ sống và hy sinh một cách giản dị, bình tâm. Họ đã truyền lại tên làng, tên xã, phong tục tập quán cho thế hệ sau. Chính họ là những người làm nên Đất Nước. Với biện pháp liệt kê và điệp ngữ “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ nên hình ảnh những con người vô danh, từ thế hệ này sang thế hệ khác, tiếp nối nhau gìn giữ và truyền lại những giá trị vật chất và tinh thần cao quý. Và mục đích cuối cùng của họ chính là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định mạnh mẽ tư tưởng đất nước của nhân dân. Trở về với cội nguồn của Đất Nước cũng là trở về với văn hóa dân gian, nơi khởi nguồn của những truyền thống văn hóa tốt đẹp. Đồng thời, đó cũng là nơi nuôi dưỡng và phát huy những giá trị văn hóa cao quý của dân tộc:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết trân trọng công sức như vàng qua những ngày vất vả
Biết trồng tre chờ ngày hóa gậy
Đi trả thù mà chẳng ngại đường dài
Bài thơ khép lại bằng một giai điệu tự hào, lan tỏa khắp núi sông. Âm hưởng ấy không chỉ vang vọng mà còn thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với di sản văn hóa ngàn đời mà cha ông để lại.
Đất Nước là một bài thơ giàu chất suy tư và triết lý, mang đến một góc nhìn độc đáo và mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Qua bài thơ, người đọc không chỉ được mở rộng kiến thức mà còn có thêm một cách nhìn nhận sâu sắc về Đất Nước trong dòng chảy lịch sử. Từ đó, thêm yêu quý và tự hào về nơi mình sinh ra và lớn lên.
...........Xem chi tiết tại file tải dưới đây..........
- Văn mẫu lớp 10: Tóm tắt tác phẩm Xúy Vân giả dại - Phân tích nghệ thuật chèo đặc sắc
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm - Sơ đồ tư duy và 26 bài văn mẫu chọn lọc
- Đề cương ôn tập giữa học kì 1 môn Ngữ văn 7 - Sách Cánh diềuÔn tập giữa kì 1 môn Ngữ văn lớp 7 (Kèm đáp án chi tiết)
- Nói và nghe: Kể về hành động thiết thực bảo vệ môi trường - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tập 2 Bài 6
- Phân tích tác phẩm Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời: Dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu xuất sắc dành cho học sinh lớp 10