Văn mẫu lớp 12: Khám phá giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân - 2 Dàn ý chi tiết & 5 bài phân tích đặc sắc
Khám phá giá trị hiện thực trong Vợ nhặt của Kim Lân - Tuyển tập 5 bài văn mẫu xuất sắc, bao gồm phân tích ngắn gọn, chi tiết và bài làm của học sinh giỏi. Những bài viết này sẽ giúp học sinh lớp 12 tự học, mở rộng kiến thức và nâng cao kỹ năng viết Văn một cách hiệu quả.

Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt được khắc họa một cách chân thực và sâu sắc. Dưới đây là những bài phân tích đặc sắc, giúp các em lựa chọn cách tiếp cận và giọng văn phù hợp, biến kiến thức thành hành trang tâm đắc. Hy vọng tài liệu này sẽ đồng hành cùng bạn trong quá trình học tập và ôn thi THPT Quốc gia. Bên cạnh đó, các bạn có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu như: phân tích nhân vật Thị, tóm tắt Vợ nhặt, phân tích bà cụ Tứ, và phân tích nhân vật Tràng.
Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt - Những phân tích xuất sắc nhất
- Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong Vợ nhặt
- Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt
- Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Đề tài người nông dân trước cách mạng.
- Sơ lược về Kim Lân và giá trị hiện thực trong Vợ nhặt.
2. Thân bài:
a. Kim Lân đã phản ánh một cách chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói những năm 1944-1945 thông qua ba nhân vật Tràng, thị và bà cụ Tứ.
- Tràng, một chàng trai còn trẻ, vô tư, nhưng cuộc sống nghèo khổ, sống vật vờ lay lắt như một cành củi khô dưới bầu trời u ám, ngày ngày lao động quần quật với công việc kéo xe.
- Thị, một người đàn bà, bị cái đói hành hạ đến độ cong cớn, sưng sỉa vì miếng ăn, rồi cuối cùng vì 4 bát bánh đúc mà đánh đổi cả một đời làm vợ người.
- Cụ Tứ, một người đàn bà tội nghiệp, tuổi cao sức yếu, đăm đăm nỗi lo không lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất, rồi cả nỗi lo đói kém, bà vẫn phải lao động miệt mài, với một tương lai u ám và một tia niềm tin còn lóe sáng, rằng cầm cự được qua cơn đói này tương lai sẽ tốt hơn.
b. Xóm ngụ cư:
- Bi kịch nạn đói kinh hoàng và ám ảnh, những người dân tản cư, bồng bế, dắt díu nhau nhếch nhác “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Khung cảnh thê lương, tối tăm và lạnh lẽo, “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp”.
=> Nạn đói đã biến một ngôi làng thành nơi mà cái chết hiện diện, bao trùm khắp không gian và thời gian, khiến con người ta không thể trốn chạy, vật vờ, ngột ngạt và tuyệt vọng.
c. Bức tranh sinh hoạt gia đình Tràng:
- “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”.
- Hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là món “chè khoán” để mừng tân hôn. Vị đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ họng của Tràng chính là hương vị của sự cùng cực trong những năm tháng kinh hoàng ấy, khi con người phải ăn cả thức ăn của gia súc để giành giật sự sống.
- Trong đêm tân hôn của Tràng và thị, Kim Lân vẫn khéo léo lồng vào đó “Tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”, một âm thanh u ám và não nề, càng tô đậm hiện thực khắc nghiệt của người nông dân trong nạn đói.
3. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề
Dàn ý số 2
I. Mở bài
Giới thiệu chung về truyện ngắn "Vợ nhặt" và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. Thân bài
1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945
* Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
a. Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.
- Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám lại như những bóng ma.
- Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, toả mùi gây gây của xác chết.
- Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy. Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.
b. Tình cảnh của gia đình Tràng
- Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.
- Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.
- Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới (nồi cháo loãng và bát cám).
2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ
Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm tin hy vọng của họ.
a. Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa
- Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là truyện nghiêm chỉnh của đời mình
- Dẫn và phân lích những lời nói, hàng động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà.
b. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành
- Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.
- Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng và người vợ nhặt.
- Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng của người mẹ.
- Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng.
3. Kết bài:
Khẳng định lại vấn đề
Bức tranh nạn đói trong Vợ nhặt
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng góp tích cực về thể loại truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai đoạn sáng tác ông viết không nhiều, nhưng khi nhắc đến ông, người đọc không thể không nhớ đến các truyện ngắn như: Làng, Đứa con người vợ lẽ, Vợ nhặt…
Trong đó, có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ nhặt người đàn bà về làm vợ trong hoàn cảnh xã hội đang diễn ra nạn đói khủng khiếp, Kim Lân đã đặt ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá trị nhân phẩm của con người và những phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn cảnh xã hội tối tăm.
Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém. Anh có một ngoại hình xấu, quê kệch với đôi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống với bà mẹ già trong một ngôi nhà rúm ró, xiêu vẹo. Bản thân anh cũng không có một nghề nghiệp vững chắc, ổn định. Hằng ngày, anh gò lưng kéo xe bò chở thóc mướn để kiếm miếng ăn nuôi thân và nuôi bà mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân lép vế nhất trong hệ thống làng xã Việt Nam trước kia.
Với thân phận và địa vị như thế, theo lẽ thường, cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong cảnh cô đơn, bần cùng, nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ không một người đàn bà nào lại dại dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế nhưng, trong diễn biến câu chuyện, Tràng lại có vợ, hay nói đúng hơn là tình cờ nhặt được vợ mà không phải mất tiền tổ chức nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.
Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất, khi kéo xe bò vào dốc tỉnh, thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đỡ mệt: “Muốn ăn cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh ni”. Tràng không có chủ tâm chọc ghẹo cô nào, nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe bò lên dốc. Lần thứ hai, khi Tràng đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là “điêu”. Ban đầu, Tràng không nhận ra chị là ai, khi người đàn bà gợi nhắc, Tràng mới nhớ ra. Và bất đắc dĩ, Tràng phải mời chị ăn trầu, nhưng chị không chịu ăn trầu mà lại đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều: “Muốn ăn gì thì ăn”. Thế là chị xà xuống ăn một chập hết bốn bát bánh đúc mà chẳng nói năng gì. Chị ăn xong, Tràng ờm ờ nửa đùa nửa thật, tán tỉnh mà như nói chơi: “Này, nói đùa chớ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng không ngờ người đàn bà đồng ý. Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.
Tràng có vợ là việc khác thường, ngoài sức tưởng tượng của mọi người, từ người dân xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nữa vì sự kiện ấy diễn ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình ở Nam Định, Thái Bình phải rời bỏ quê hương, dắt díu nhau lên, xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ, người chết đói như ngã rạ. Không buổi sáng nào, người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai. Trong hoàn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang hoành hành, một thanh niên có thân phận và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm, đó là vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu có ý nghĩa phê phán xã hội gay gắt.
“Vợ nhặt” không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo, vạch tội các thế lực thống trị, tác phẩm còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc, thể hiện qua cái nhìn phát hiện và khẳng định những phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh xã hội tối tăm.
Trước hết, đó là khát vọng về hạnh phúc đôi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc lướt qua truyện, chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung sống với nhau diễn ra hình như là hết sức ngẫu nhiên, tình cờ, nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ ấy không tiềm ẩn nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi thì chắc hẳn họ đã không nên vợ nên chồng, và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn đến một cuộc mua bán đổi chác giữa kẻ có cái ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ những tình cảm mới lạ. Trên đường về nhà, mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường, anh tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc, Tràng quên đi cuộc sống tối tăm, ê chề hằng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa. Anh cảm thấy một cái gì mới mẻ, lạ lắm, nó ôm ấp mênh mang khắp da thịt. Còn người đàn bà, mặc dù chị có vẻ khó chịu trước ánh mắt tò mò và những lời trêu chọc trong xóm ngụ cư, nhưng vẫn không giấu được vẻ e thẹn.
Đặc biệt là sau đêm chung sống với nhau, Tràng và người đàn bà như được lột xác, biến thành hai con người khác hẳn. Người đàn bà thì trông hiền hậu đúng mực, còn Tràng thì cảm thấy một niềm vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Hơn nữa, anh còn ý thức được rằng mình là một người chồng, người chủ gia đình phải có trách nhiệm gánh vác.
Rõ ràng là đằng sau vẻ tình cờ, ngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt được vợ, thì chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thúc đẩy Tràng và người đàn bà đến với nhau và nên vợ nên chồng, bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè nặng lên xã hội. Đáng lưu ý hơn nữa, dù sống trong cảnh tối tăm, thê thảm, nhưng người lao động vẫn thể hiện một tấm lòng nhân hậu, vị tha cao cả. Điều đó thể hiện tập trung qua thái độ, suy nghĩ của bà cụ Tứ đối với người đàn bà xa lạ mà Tràng nhặt về nhà làm vợ. Theo lẽ thường, trong hoàn cảnh nạn đói đang đe dọa từng ngày, từng giờ, bà cụ Tứ có đủ lí do ngăn cấm và xua đuổi người đàn bà kia. Bởi vì, nếu bà đồng ý cho người đàn bà về chung sống với con mình, thì điều đó cũng có nghĩa là rước về nhà thêm một miệng ăn, trước cái đói về nhà. Thế nhưng, bà cụ Tứ lại không làm như vậy. Trái lại, bà cụ còn cảm thông, tủi hổ cho chị và vui vẻ chấp nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Không xua đuổi, hắt hủi một con người cùng đường khốn khổ, mà còn xem như là một ân nhân, tấm lòng nhân hậu, vị tha của bà cụ Tứ thật là cao cả, hiếm thấy. Cùng với khát vọng hạnh phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm, giành lấy sự sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính đáng ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe bà cụ Tứ nói đến chuyện đóng thuế. Đặc biệt là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện ra trong suy nghĩ của Tràng. Truyện thành công với tình huống truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và cách dùng ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của người dân lao động. “Vợ nhặt” được xem là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân.
“Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân, lấy đề tài về nạn đói 1945, nhưng truyện được sáng tác sau Cách mạng tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng thời gian cần thiết để suy ngẫm, nhìn nhận vấn đề và dụng công nghệ thuật. Nhờ đó, Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề xã hội, con người một cách sâu sắc, dựa trên tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nghệ thuật kể chuyện linh hoạt và ngòi bút miêu tả tinh tế.
Giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Bài làm mẫu 1
Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đưa người đọc tới với những số phận của con người bên bờ vực thẳm của nạn đói lịch sử năm 1945, một thảm họa đã cướp đi sinh mạng của hai triệu người dân, trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Trong tác phẩm, Kim Lân đã viết một câu vô cùng sâu sắc: “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Đây là câu nói đầy tính nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo của tác giả dành cho những nhân vật của mình.
Chính câu nói này của Kim Lân đã thôi thúc chúng ta đi sâu tìm hiểu giá trị hiện thực và nhân văn trong tác phẩm Vợ nhặt, để giải đáp những thắc mắc về số phận của người nông dân trong thời kỳ phong kiến nửa thực dân.
Kim Lân là nhà văn của nông thôn, người thấu hiểu bản chất và thói quen của người nông dân. Ông cũng là nhân chứng sống của nạn đói khủng khiếp năm 1945, nên chỉ có ông mới thực sự thấu cảm nỗi khốn khổ của người dân.
Thông qua Vợ nhặt, Kim Lân tố cáo tội ác của giặc và chế độ phong kiến. Chính chế độ xã hội tàn ác đã chà đạp lên số phận người dân, bóc lột đến tận cùng, khiến họ không còn đường sống. Nhưng khi bị dồn đến đường cùng, họ buộc phải đứng lên đòi quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc.
Kim Lân đặt câu chuyện trong bối cảnh xã hội đầy bi thảm của nạn đói. Những người nghèo khổ, xanh xám như bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ, tạo nên một bức tranh hiện thực đầy ám ảnh.
Những người đói dật dờ đi lại như bóng ma, người chết như ngả rạ. Mỗi buổi sáng, người đi làm đồng lại thấy vài xác chết nằm còng queo bên đường, trong không khí vẩn lên mùi hôi thối của xác người.
Nạn đói tràn đến xóm ngụ cư, bao vây mọi gia đình. Nhân vật Tràng cũng không ngoại lệ. Anh sống trong cảnh mẹ góa con côi, nghèo khổ, lầm lũi, côi cút.
Bức tranh xã hội lúc đó là sự sống và cái chết đan xen. Người chết nhiều hơn người sống, những người sống thì vật vờ như thây ma. Cuộc sống lay lắt như ngọn đèn trước gió, sống hôm nay không biết ngày mai ra sao.
Xóm ngụ cư toàn những người dân tứ xứ, khuôn mặt hốc hác, gầy gò như bóng ma. Cuộc sống đói khát, không nhà nào có ánh đèn, chỉ có bóng tối bao trùm, ngồi ủ rũ trong xó đường, bất động như thây ma.
Gia đình Tràng sống trong cảnh mẹ góa con côi. Tràng làm nghề kéo xe, mẹ anh, bà cụ Tứ, đã già yếu, chỉ có thể làm việc nhà. Tràng không giàu có, ngoại hình thô kệch, hai quai hàm bạnh ra. Trong hoàn cảnh đó, việc lấy vợ là điều khó khăn, nhưng nạn đói đã khiến anh dễ dàng “nhặt” được vợ.
Tình huống Tràng “nhặt” được vợ phản ánh sự tinh tế và giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Mạng người trở nên rẻ rúng, như một món đồ vứt bỏ ngoài đường. Người vợ của Tràng chấp nhận về làm vợ mà không cần cưới xin, chỉ để có một nơi nương tựa.
Bữa cơm đầu tiên sau đêm tân hôn với nồi cháo cám là hình ảnh đầy xúc động, tái hiện hiện thực khắc nghiệt của nạn đói. Trong bữa ăn, họ nói về việc người dân phá kho thóc Nhật, mơ ước về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Nạn đói và số phận bi thảm của người nông dân là nhân chứng sống làm nên tính hiện thực sâu sắc trong Vợ nhặt của Kim Lân. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực mà còn khơi gợi niềm tin vào tương lai tươi sáng hơn.
Bài làm mẫu 2
Kim Lân, nhà văn của nông thôn, thấu hiểu sâu sắc người nông dân và chính là nhân chứng sống của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Trong tác phẩm Vợ nhặt, ông đã khắc họa một bức tranh cô đúc nhưng đầy đủ, khái quát mà cụ thể, để lại ấn tượng sâu sắc:
Bức tranh toàn cảnh về nạn đói năm 1945 với hình ảnh người đói bồng bế, dắt díu nhau, xanh xám như bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Những bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ, người chết như ngả rạ, thây nằm còng queo bên đường, không khí vẩn lên mùi gây của xác người, mùi đốt đống rấm từ những nhà có người chết, và tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya. Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, đe dọa số phận từng con người.
Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: Ở xóm ngụ cư là những khuôn mặt hốc hác, u tối trong cuộc sống đói khát, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Trẻ con ngồi ủ rũ dưới xó đất, không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng, bà cụ Tứ già yếu, anh con trai làm nghề đẩy xe bò thuê, người con dâu áo quần rách rưới, gầy gò, hai mắt trũng sâu. Số phận họ chẳng khác gì ngôi nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn đầy cỏ dại, và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ.
Một hiện thực khác, tuy chưa rõ nét, nhưng đã hiện ra trong ý nghĩ của Tràng: cảnh những người nghèo đói kéo nhau đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lớn. Đó là hình ảnh đoàn người phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh, vừa là hiện thực, vừa là ước mơ của những người như Tràng.
Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của người dân, và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu của hiện thực lúc bấy giờ. Kim Lân đã phản ánh những nét bản chất này, tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm, như một chứng tích văn học về sự kiện lịch sử không thể nào quên.
Bài làm mẫu 3
Trên văn đàn Việt Nam, đề tài người nông dân trước cách mạng đã được nhiều tác giả xuất sắc khai thác, mỗi người mang một góc nhìn riêng. Nguyễn Công Hoan với giọt nước mắt đau đớn qua những truyện ngắn như Tinh thần thể dục hay Kép tư bền. Ngô Tất Tố xót xa cho kiếp người cùng cực trong Tắt đèn. Nam Cao lạnh lùng phơi bày hiện thực trần trụi qua bi kịch của Chí Phèo.
Kim Lân, dù có số lượng tác phẩm ít ỏi, lại là một trong mười tác giả tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam với Làng và Vợ nhặt. Thành công của ông đến từ lối hành văn độc đáo, dùng hiện thực để làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của con người. Ông không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mở ra lối thoát cho nhân vật qua Cách mạng, điều mà các nhà văn trước chưa làm được. Trong Vợ nhặt, bức tranh hiện thực hiện lên qua ngòi bút nhẹ nhàng nhưng ám ảnh và u ám.
Bối cảnh của Vợ nhặt là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc. Kim Lân phản ánh chân thực tình cảnh khốn khổ của người nông dân trong nạn đói 1944-1945 qua ba nhân vật: Tràng, thị và bà cụ Tứ. Tràng, một thanh niên trẻ, sống lay lắt trong nghèo khổ, ngày ngày kéo xe kiếm sống. Thị, người đàn bà bị cái đói hành hạ, phải đánh đổi cả đời làm vợ người chỉ vì bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ, tuổi già sức yếu, vẫn lo lắng cho con trai và tương lai u ám, nhưng vẫn giữ niềm tin vào ngày mai tươi sáng hơn.
Nạn đói không chỉ hiện lên qua số phận ba nhân vật chính mà còn qua cảnh tượng kinh hoàng ngoài xóm ngụ cư. Những người dân tản cư, bồng bế nhau, xanh xám như bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và xác người. Khung cảnh thê lương, tối tăm, tiếng quạ gào lên từng hồi khủng khiếp như tiếng vẫy gọi của tử thần. Nạn đói biến ngôi làng thành nơi cái chết hiện diện, bao trùm không gian và thời gian, khiến con người tuyệt vọng, vật vờ chờ đợi cái chết.
Bi kịch nạn đói còn thể hiện qua bữa cơm gia đình Tràng: “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo”. Trong hoàn cảnh khác, bữa cơm ấy chẳng ai nuốt nổi, nhưng cả nhà Tràng đều ăn ngon lành. Đặc biệt, hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là món “chè khoán” mừng tân hôn, vị đắng nghẹn ứ trong cổ họng Tràng chính là mùi vị của sự khốn khổ. Trong đêm tân hôn, tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê, càng tô đậm hiện thực khốc liệt của nạn đói.
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm hiện thực xuất sắc, phản ánh nạn đói kinh hoàng với những sinh linh bé nhỏ, tàn tạ bước về nghĩa địa. Không khí tang thương, u uất, mùi tử thi bao trùm xóm nhỏ. Tác phẩm còn tố cáo sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, những kẻ gây ra thảm kịch cho hơn hai triệu đồng bào.
Bài làm mẫu 4
Ban-giắc từng nói: “Nghệ thuật phải là tấm gương xê dịch trên con đường lớn”. Câu nói này nhấn mạnh giá trị hiện thực, một trong những chức năng quan trọng của văn học – phản ánh và cải tạo xã hội. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam.
Trước hết, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống thê thảm của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Giá trị con người trở nên rẻ mạt khi anh phu Tràng chỉ cần một câu hò tầm phào và bốn bát bánh đúc để “nhặt” được vợ. Cô vợ nhặt, vì cái đói, đã liều lĩnh theo một người đàn ông xa lạ. Đám cưới kỳ lạ ấy diễn ra trong bối cảnh tang thương của nạn đói. Kim Lân đã khắc họa không khí ảm đạm, thê lương của xã hội lúc bấy giờ. Nạn đói năm 1945 không chỉ là dấu mốc lịch sử mà còn là nỗi ám ảnh tinh thần khủng khiếp. Không gian sống trở thành bãi tha ma lớn với người chết đói như ngả rạ, thây ma nằm còng queo bên đường. Cái chết hiện hữu qua mùi vị, hình ảnh, màu sắc, và âm thanh. Sự sống đang dần tàn lụi, cái chết bao trùm mọi nơi. Cái đói như dịch bệnh, cái chết như định mệnh không thể tránh khỏi. Con người bị bao vây bởi cái chết, lằn ranh giữa sự sống và cái chết quá mong manh. Qua ngòi bút Kim Lân, không gian sống chỉ là bãi tha ma, nơi cái đói và cái chết đeo bám từng bước chân con người.
Thứ hai, Kim Lân còn thể hiện tấm lòng của người dân hướng về cách mạng. Tiếng thúc thuế dồn dập và những lời trao đổi của vợ chồng Tràng về Việt Minh phản ánh khao khát cách mạng của người dân lao động nghèo khổ. Chỉ có cách mạng mới giúp họ thoát khỏi cái đói, cái chết. Giá trị hiện thực của tác phẩm không chỉ nằm ở việc diễn tả hiện thực đang diễn ra mà còn dự báo tương lai. Truyện ngắn phản ánh xu thế cách mạng, dự báo cuộc cách mạng tháng Tám “long trời lở đất” sẽ nổ ra như một tất yếu. Qua đó, Kim Lân khơi gợi niềm tin vào tương lai tươi sáng cho người nông dân.
Tóm lại, giá trị hiện thực sâu sắc trong “Vợ nhặt” đã đưa tác phẩm này trở thành một trong những kiệt tác văn học hiện đại xuất sắc nhất. Đây cũng là lý do làm nên sức sống bất diệt của truyện ngắn và tên tuổi Kim Lân trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam.
- Hướng dẫn Soạn bài Tự đánh giá: Tỏ lòng - Ngữ văn lớp 10 trang 59 sách Cánh diều tập 1 chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 12: Tuyển tập 42 kết bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Phân tích sâu sắc và đầy cảm xúc
- Soạn bài Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác - Chân trời sáng tạo Ngữ văn lớp 8, trang 15, tập 2
- Soạn bài Đẽo cày giữa đường - Ngữ văn lớp 7 trang 6 sách Cánh diều tập 2 | Hướng dẫn chi tiết
- Soạn bài Tượng đài vĩ đại nhất - Ngữ văn lớp 7 trang 43 sách Cánh diều tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc