Văn mẫu lớp 11: Phân tích 8 câu thơ cuối bài Trao duyên (2 Dàn ý & 14 bài văn mẫu chọn lọc)
Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên bao gồm 14 bài văn mẫu xuất sắc cùng 2 dàn ý chi tiết. Những bài phân tích này không chỉ giúp học sinh củng cố kiến thức mà còn nâng cao kỹ năng cảm thụ văn học, đặc biệt là với đoạn thơ đầy xúc động này.

Phân tích 8 câu cuối Trao duyên giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều khi nghĩ về tình yêu với Kim Trọng. Với 14 bài văn mẫu chất lượng được EduTOPS chia sẻ, học sinh sẽ dễ dàng tham khảo và học hỏi cách viết bài văn sâu sắc. Ngoài ra, bạn có thể tìm hiểu thêm về tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên và các bài phân tích khác liên quan.
Phân tích 8 câu cuối Trao duyên (Đạt điểm cao)
- 1. Dàn ý phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên
- 2. Phân tích 8 câu cuối Trao duyên (4 Mẫu)
- 3. Phân tích 8 câu cuối bài thơ Trao duyên (2 Mẫu)
- 4. Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên (8 Mẫu)
1. Dàn ý phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học, được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung.
- Đoạn cuối 8 câu cuối đoạn: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Trích dẫn thơ:
II. Thân bài:
*Tám câu thơ cuối: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ >< hiện tại
→ Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
- Các hành động
- Nhận mình là "người phụ bạc"
- Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
- Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý
* Tóm lại: 8 câu cuối đoạn
- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân: Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, đem lại nhiều xúc cảm nơi người đọc.
2. Phân tích 8 câu cuối Trao duyên (4 bài văn mẫu chọn lọc)
Bài làm mẫu 1
“Truyện Kiều” - kiệt tác nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công cuộc đời nhân vật Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời gặp nhiều trái ngang, sóng gió. Trích đoạn “Trao duyên” là một trong những minh chứng tiêu biểu thể hiện bi kịch tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh của Thúy Kiều cùng tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng, khắc họa tâm lí nhân vật. Sau khi “trao duyên”, nàng Kiều chìm sâu trong thế giới khổ đau của chính mình, nàng nhớ đến Kim Trọng và mối tình còn dang dở. Thông qua tám câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được sự ý thức của Thúy Kiều về thực tại cùng tiếng lòng khắc khoải, thống thiết của nàng dành cho Kim Trọng:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau khi trao kỉ vật tình yêu, dặn dò Thúy Vân và chìm sâu vào dòng độc thoại nội tâm, Kiều nhận ra bi kịch phũ phàng của thực tại và tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng. Nàng ý thức rất rõ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Những thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” đã diễn tả sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
“Trâm gãy gương tan” - hai vật hoán dụ cho số phận của nàng Kiều, hoán dụ cho tình duyên lỡ dở, hoán dụ cho số phận bất hạnh, khổ đau. “Phận bạc như vôi” để thể hiện số phận mong manh, bạc bẽo. Bên cạnh đó, “nước chảy hoa trôi” đã nhấn mạnh vào sự lênh đênh, chìm nổi giữa sóng gió cuộc đời. Những câu thơ đã gợi lên số phận chung của những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Danh từ chỉ thời gian “Bây giờ” vang lên đầy xót xa, nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ - những năm tháng “Êm đềm trướng rủ màn che” cùng tình yêu đầu đời đẹp như hoa như mộng và hiện tại chia lìa, tan vỡ. Miền kí ức “muôn vàn ái ân” không thể đong đếm đã lùi xa vào tiềm thức, chỉ còn lại nỗi đau đớn, xót xa. Tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự tương phản giữa quá khứ ngọt ngào, ân ái mặn nồng và hiện tại dở dang cùng tương lai vô cùng mịt mờ, đẩy nàng vào bi kịch không có điểm tựa. Vì thế, nàng thổn thức trong nghẹn ngào:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”
Tác giả đã sử dụng số từ “trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường, bất lực. Tác giả đã lấy cái hữu hạn “ngần ấy thôi” để đối lại với cái vô hạn “trăm nghìn” để nói lên tiếng lòng của Thúy Kiều đối với Kim Trọng. Đó là sự day dứt, trăn trở, đau đáu đến khôn nguôi của nàng Kiều. Đặc biệt, hành động “lạy” một lần nữa xuất hiện trong trích đoạn “Trao duyên” đã thể hiện nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nếu ở lần lạy thứ nhất với Thúy Vân, Thúy Kiều hiện lên với vị thế của người chịu ơn đối với ân nhân thì trong lần lạy với Kim Trọng, chúng ta thấy được nỗi đau của nàng. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” chính là cái lạy tạ lỗi, thể hiện niềm day dứt mặc cảm, mong nhận được sự cảm thông của Kim Trọng; đó còn là lời tạm biệt đầy tức tưởi của nàng Kiều.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Trong dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều thu mình vào thế giới đầy khổ đau của chính mình, Kiều thốt lên tiếng kêu thương bi phẫn, oán hờn hiện thực bất công, phi lí, nhưng đó cũng là tiếng kêu xé lòng. Với nhịp thơ 3/3, câu thơ như bẻ gãy làm đôi trong sự nghẹn ngào, nức nở. Các thán từ “ôi”, “hỡi” kết hợp với việc nhắc lại tên gọi của Kim Trọng hai lần đã thể hiện tiếng lòng dồn dập, thống thiết. Điệp từ “Thôi thôi” nhấn mạnh nỗi đau tuyệt vọng, kết hợp từ “phụ” như một lời sám hối đau đớn, thể hiện nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Trong khoảnh khắc, “Trao duyên” đã thể hiện lời trăng trối của người con gái chung tình mà hóa ra phụ tình ấy. Bằng trái tim nhân đạo, tác giả Nguyễn Du đã dùng nỗi đau để bị thiết nỗi đau, cùng nỗi đau để chạm tới trái tim của người đọc.
Như vậy, thông qua tám câu thơ cuối của trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được bi kịch về tình yêu tan vỡ, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Đồng thời, những câu thơ trên còn là minh chứng tiêu biểu cho những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều” qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo cùng từ ngữ trau chuốt, đặc sắc.
Bài làm mẫu 2
“Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”
Bàn về văn học, Standal viết: “Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. Tố Hữu cũng từng cho rằng: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học không là gì nếu vì cuộc đời mà có”. Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của văn học: phản ánh đời sống xã hội. Nguyễn Du – đại thi hào trong nền thơ ca Việt Nam đã thấm nhuần chức năng ấy. Ông sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp, cái xã hội mà mọi thứ đều bị chi phối bởi đồng tiền. Ông đã chứng kiến rất nhiều cảnh bất công cũng như cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người phụ nữ lúc bấy giờ. Đó chính là lí do kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) ra đời. Trong đó, đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả mà đặc biệt phải kể đến tám câu thơ cuối bài đã thể hiện một cách chân xác nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca. Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan ở tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long. Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thía biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy” xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Ngoài “Đoạn trường Tân thanh” (Truyện Kiều); “Văn tế thập loại chúng sinh” (Văn chiêu hồn) và hai bài tồn nghi là “Sinh tế Trường Lưu nhị nữ” (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu) và “Thác lời trai phường nón.” Nguyễn Du còn có ba tập thơ chữ Hán có giá trị. Thanh Hiên tiền hậu tập; Nam trung tạp ngâm; Bắc hành tạp lục. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể.
Theo Giáo sư Nguyễn Lộc, trang 455 viết: “Đoạn trường tân thanh… là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài Nhân, Trung Quốc gồm 3.254 câu thơ. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-20). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-09). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa VN. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu như Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ VN.
Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ, người được xem là “chuyên gia Truyện Kiều” đã có những trang văn nhận định thú vị: “Truyện Kiều nổi lên so với những giá trị văn học đương thời, và khiến sáng tác của Nguyễn Du gần với chúng ta ngày nay, về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nhưng dù sao thì Nguyễn Du vẫn là người của thời đại mình, không thể thoát ly hoàn cảnh xã hội, lịch sử cụ thể, về cả hệ tư tưởng lẫn phương pháp nghệ thuật, thể hiện ở xu hướng lý tưởng hóa, ước lệ. Điều này khó tránh trong tình hình sáng tác chung, trong trình độ tư duy nghệ thuật chung đương thời… Trước sau Truyện Kiều vẫn là di sản vĩ đại, là tuyệt đỉnh của nền văn học dân tộc quá khứ. Quan điểm lịch sử cũng như đòi hỏi muôn đời của giá trị văn học đều cho phép ta khẳng định điều đó”.
Là một đoạn được trích từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” gồm 34 câu thơ. Đây là những câu thơ nằm ở vị trí từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác tác phẩm. Đoạn trích hướng người đọc đến nhân vật trung tâm là Thúy Kiều trong một hoàn cảnh rất đỗi đặc biệt: Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan. Trong đêm trước ngày phải xa gia đình để theo phường buôn phấn bán hương, Kiều đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng; phần còn lại của đoạn trích là những dòng viết về tâm tư nỗi niềm của Thúy Kiều khi nghĩ về cuộc đời mình và khi nhớ đến Kim Trọng. Đoạn trích là tiếng lòng tha thiết của Kiều về hoàn cảnh bi đát của gia đình, của phận mình và của tình yêu đầu đời đẹp đẽ.
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều. Đặc biệt, khi thể hiện nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã gây được ấn tượng trong tám câu thơ cuối đoạn trích:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Sau khi đã nói hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình rồi đau đớn nhận ra sự thật phũ phàng là so với quá khứ thì hiện tại có một sự đối lập đến xót xa:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn đau hơn. Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã mang lại sự biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả đã cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng Kiều về bi kịch hiện tại. Kiều bàng hoàng chua xót khi so với thời quá khứ – những năm tháng Kiều đã thật hạnh phúc với mối tình đầu đời như hoa như mộng, bây giờ còn lại chỉ là những đau đớn tủi phận khi biết bao nhiêu hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.
“Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan của bản thân khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên (để có thể hiện thực hóa những gì mà nàng và người yêu đã từng thề nguyền hẹn ước từ thời khắc “Kể từ khi gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ập đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây thành khói.
“Muôn vàn ái ân” không thể cân đo đong đếm ở miền kí ức thơ mộng có sự hiện diện của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.
Trao duyên cho em, nỗi đau này ai có thể thấu cho nàng Kiều. Trong tột cùng nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng. Với nàng Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hi vọng, là niềm an ủi, chia sẻ với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là trong tưởng tượng. Nàng cất lên lời than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Kiều cất lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mỏng manh, bạc bẽo của bản thân đã khiến cho tơ duyên đứt đoạn chỉ còn “ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Nói ra những lời ấy, Kiều thật mong Trọng cũng chấp nhận cho duyên tình giữa chàng và Kiều chỉ là những kí ức ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từ ‘lạy’ ở đây khác với từ ‘lạy’ ở đoạn đầu. ‘Lạy’ là để Thúy Kiều tạ lỗi với Kim Trọng, để hối lỗi, để vĩnh biệt. Nàng tự cảm thấy được số phận mình là số phận mệnh bạc. Nàng tự thương cho chính mình và đây cũng là nỗi đồng cảm của tác giả với Thúy Kiều.Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã giúp hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.
Lời nhắn nhủ vừa mang nỗi tiếc nuối, vừa cam chịu chỉ “có ngần ấy thôi” ít ỏi quá chàng ơi, nhưng không thể nào kéo dài thêm được nữa. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy.
Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận bạc bẽo của mình giữa cõi đời bất công:
“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của nàng Kiều. Hơn thế nữa, câu thơ cũng là lời dự cảm, một lời lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu. Nỗi đau trào dâng, bao nhiêu tình cảm dồn nén choán đầy cả tâm trí. Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát – lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận.
“Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời nói lên án cả xã hội phong kiến. Nhưng dù như vậy nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Số phận nàng ta cũng bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm như nàng Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng rẫy phải tự vẫn để minh oan, hay những người con gái được phản ánh trong các câu ca dao:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Chính Nguyễn Du cũng đã từng thổn thức:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Rồi đây số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã. Có lẽ rằng đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như thế. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần dường như bao nhiêu tình cảm chất chứa đều được thốt lên qua tiếng gọi người yêu đầy tha thiết của nàng. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều.
“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình. Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm. Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình: “Cạn lời hồn ngất máu sau – Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”. Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. “Ôi”, “Hỡi” Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhòa, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi.
Sự thật ấy làm cho Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho ta thấy được tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thủy sắc son. Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn cả là sự xót xa dành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.
Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) theo bản dịch của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, bình luận: “…Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Trong đoạn trích Trao Duyên, nhà thơ đã khóc cho một tình yêu chân thật, trong sáng giữa Thuý Kiều và Kim Trọng. Tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng là một tình yêu trong sáng, tình yêu đẹp nhưng do sóng gió trong gia đình mà Kiều phải bán mình chuộc cha, làm cho tình yêu này bị chia rẽ. Nàng đành phải trao duyên của mình lại cho Thuý Vân. Sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.
Bên cạnh những nội dung đã điểm qua ở trên, điều làm nên sự thành công trong việc chuyển tải những thông điệp mà tác giả gửi gắm còn nằm ở nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vận dụng thật hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật ở nhân vật những phẩm chất đáng trọng. Bên cạnh đó, khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc bạch những tâm tư cùng với nỗi niềm chất chứa trong lòng của nàng Kiều. Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Trong Lời đầu sách ở Từ điển Truyện Kiều (1974), Giáo sư Đào Duy Anh viết: “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học VN, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ VN đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc… Nguyễn Du sinh quán ở Thăng Long, tổ quán ở Nghệ -Tĩnh, mẫu quán ở Bắc Ninh, đã nhờ những điều kiện ấy mà dựng lên được một ngôn ngữ có thể nói là gồm được đặc sắc của cả ba khu vực quan trọng nhất của của văn hóa nước ta thời trước”.
Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ. Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông đúng như Tố Hữu đã từng ca ngợi:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.
Bài làm mẫu 3
Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều đã cho thấy bút pháp rất mực tài hoa của Nguyễn Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật. Qua trích đoạn, ta càng thấu hiểu, thương cảm cho cho số phận truân chuyên, bạc mệnh của Thuý Kiều. Tám câu cuối bài thơ là đoạn thơ đầy ấn tượng khi tái hiện đầy xót xa tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Sau khi cậy nhờ em thay mình chắp mối "duyên thừa" cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng mình. Đó là nỗi tuyệt vọng, khổ đau lên đến tột cùng khi phải buông tay với mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.
"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân"
Trạng ngữ xác định thời gian "bây giờ" chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ "trâm gãy gương tan" để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.
Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc "muôn vàn ái ân" của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,... Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.
Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi"
Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động "trăm nghìn gửi lạy" cùng lời tha thiết, cảm thán "Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi" là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?
Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:
"Phận sao phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ "bạc như vôi", "nước chảy hoa trôi" như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận "đã dành" cho "nước chảy hoa trôi" cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.
Hai tiếng "Kim Lang" tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ "Kim Lang" kết hợp với thán từ "Ôi", " Hỡi" cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Tám câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.
Trao duyên, đặc biệt là tám câu thơ cuối trong trích đoạn, đã góp phần không nhỏ vào thành công vang dội của kiệt tác Truyện Kiều. Có thể tin chắc rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ mãi mãi giữ nguyên giá trị trường tồn, được các thế hệ độc giả tôn vinh và bảo tồn.
Bài làm mẫu 4
Đoạn thơ kết thúc, bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm. Mâu thuẫn chồng chất mâu thuẫn, Kiều hoàn toàn bất lực trước khát khao níu kéo, cố gắng quay về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa vời và tương lai mịt mù.
Dù có quay về quá khứ hay hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn phải đối mặt với hiện thực phũ phàng:
"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Hàng loạt thành ngữ được sử dụng đã khắc họa rõ nét bi kịch của người con gái. Đó là sự tan vỡ, dở dang của tình yêu và sự trôi nổi, bấp bênh của cuộc đời Kiều. Bi kịch càng trở nên sâu sắc khi trước hiện tại, nàng vẫn không ngừng khao khát một tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ mang tính vô hạn như "muôn vàn, trăm nghìn" thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh cửu. Nhưng oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không thể cứu vãn. Bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm.
Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, xót xa cho duyên phận ngắn ngủi của mình, và tự nhận mình là kẻ phụ bạc. Thật đau đớn biết bao: dù đã trao duyên, nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim, nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng Kiều. Phải chăng, Nguyễn Du một lần nữa đã khắc họa chính xác quy luật tâm lý con người: cái gì đong đầy rồi cũng vơi, nhưng nỗi sầu đong càng lắc càng đầy! Tình duyên dù cố tình dứt bỏ vẫn còn vương vấn trong lòng. Cuối đoạn thơ, dù Kiều đã giãi bày hết nỗi lòng với em, nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng nỗi đau vì tình duyên tan vỡ vẫn không nguôi ngoai. Vẫn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều đau đớn thốt lên:
"Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Phải chăng đây là tiếng kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã thay bao người, bao thế hệ cất lên! Chỉ một câu thơ mà tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ "ôi, hỡi" khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã hết lòng vì chàng Kim, nhưng giờ đây nàng tự nhận mình là kẻ phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng không còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng đều dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn cả bản thân mình.
Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp trong tâm lý nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về ngôn ngữ.
Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim độc giả qua nhiều thế hệ. Đoạn trích "Trao duyên" đã khắc họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, đồng thời làm nổi bật hình ảnh một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, càng cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi lẽ, người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng để cảm phục hay sao?
3. Phân tích 8 câu cuối bài thơ Trao duyên: Khám phá bi kịch tình yêu và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều (2 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Dù chỉ là một đoạn trích ngắn từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” đã khắc họa thành công vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều và tài năng xuất chúng của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích là tiếng lòng đau đớn của Kiều trước bi kịch gia đình, số phận bất hạnh và mối tình đầu tan vỡ. Đặc biệt, tám câu thơ cuối đã làm nổi bật nỗi xót xa của Kiều khi nghĩ về duyên phận với Kim Trọng:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Để cảm nhận sâu sắc 8 câu cuối bài “Trao duyên” cũng như toàn bộ đoạn trích, người đọc cần hiểu rõ về tác giả Nguyễn Du và kiệt tác “Truyện Kiều”.
Nguyễn Du (1765–1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một trong những đại thi hào vĩ đại nhất của nền văn học Việt Nam. Ông được người đời ngưỡng mộ bởi những đóng góp to lớn cho văn chương nước nhà.
Sinh ra tại Hà Tĩnh, vùng đất địa linh nhân kiệt, Nguyễn Du nổi tiếng với các tác phẩm cả bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, các tập thơ chữ Hán như “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” và tác phẩm chữ Nôm như “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh” đã khẳng định tài năng của ông.
Thành công của Nguyễn Du đến từ việc ông biết lồng ghép hiện thực cuộc đời vào tác phẩm, đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Những tác phẩm chữ Hán của ông không chỉ là tự sự về cuộc đời đầy bi kịch của chính mình mà còn phản ánh những biến động dữ dội của thời đại cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Sống trong xã hội loạn lạc, Nguyễn Du chứng kiến nhiều cảnh đời đau thương, đặc biệt là những thân phận nhỏ bé bị chà đạp bởi thế lực đen tối. Qua các tác phẩm, ông bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với những kiếp người khổ đau.
Nguyễn Du không chỉ phản ánh hiện thực mà còn khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp. Ông đặc biệt quan tâm đến số phận người phụ nữ, nhất là những cô gái cầm ca, phải dùng tài sắc làm trò vui cho đời. Qua đó, ông vượt lên định kiến xã hội để tôn vinh phẩm giá con người.
“Trao duyên” là đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong “Truyện Kiều”. Đoạn trích xoay quanh nhân vật Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le: nàng phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha khỏi tai họa.
Trong đêm trước ngày rời xa gia đình, Kiều đã nhờ em gái Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Phần còn lại của đoạn trích là những dòng tâm sự đầy đau đớn của Kiều khi nghĩ về cuộc đời và mối tình dang dở với chàng Kim.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy đây là những dòng tâm trạng đau khổ tột cùng của Kiều sau khi trao duyên.
Sau khi giãi bày hết nỗi lòng với em gái, Kiều nhìn lại cuộc đời và nhận ra sự thật phũ phàng: hiện tại đối lập hoàn toàn với quá khứ tươi đẹp:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” để diễn tả nỗi đau của Kiều. Hình ảnh này cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng về bi kịch hiện tại. Kiều đau đớn khi so sánh hiện tại với quá khứ hạnh phúc bên Kim Trọng, giờ đây chỉ còn lại nỗi tủi phận và những hẹn ước tan vỡ.
“Trâm” và “gương” vốn là biểu tượng của vẻ đẹp người con gái khi bước vào tuổi xuân, khi tình yêu chạm đến trái tim. Nhưng những gì Kiều trân quý, nâng niu để mong một ngày được bên Kim Trọng mãi mãi (như lời thề nguyền từ thuở “Kể từ khi gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc tan vỡ trước tai ương ập đến. Tất cả ước mơ hóa thành mây khói.
“Muôn vàn ái ân” không thể đo đếm được trong ký ức đẹp đẽ của Kiều và Kim Trọng, càng làm nổi bật sự đối lập với nỗi đau hiện tại. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Kiều phải chịu đựng những đau khổ tột cùng ở tuổi xuân xanh, lẽ ra vẫn được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình. Điều này khiến người đọc càng thêm xót xa cho nàng.
Không chỉ Kiều, mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng cho những tháng ngày đen tối sắp tới của nàng. So sánh giữa hiện tại và quá khứ, dù nỗi đau có dâng trào thành nước mắt, Kiều cũng không thể đưa mọi thứ trở lại bình yên như xưa. Vì thế, nàng chỉ còn biết tự an ủi mình và người yêu:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Khi thốt lên những lời này, Kiều mong Kim Trọng cũng chấp nhận rằng mối tình của họ chỉ là ký ức ngắn ngủi dù đẹp đẽ. Cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Kiều đã thành khẩn nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” để giữ duyên. Giờ đây, nàng lại thành khẩn gửi lời xin lỗi đến Kim Trọng. Từng lời nói, hành động của Kiều trong thơ đã khắc họa rõ nét hình ảnh người con gái nặng tình nhưng bất lực trước duyên phận.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã để Kiều trút hết nỗi lòng, khóc than cho thân phận bạc bẽo của mình:
“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Từ đầu buổi “trao duyên” đến lúc này, Kiều đã cố gắng kìm nén cảm xúc để nói trọn vẹn điều mình mong muốn. Khi nhận được sự đồng ý của em gái, nàng mới cho phép bản thân thương xót chính mình một cách chân thành nhất.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Kiều nhận ra số phận mình chẳng khác gì màu vôi bạc. Trước đây, khi sống trong hạnh phúc gia đình, nàng chưa từng tưởng tượng ra cảnh đời đau khổ như hiện tại. Thậm chí, ngay cả trong tưởng tượng, nàng cũng không thể nghĩ đến những đau thương ập đến nhanh chóng và dữ dội đến vậy.
Kiều đối mặt với hiện thực trong bàng hoàng và hoang mang tột độ. Nỗi đau càng nhân lên khi nàng nhìn thấy tương lai mù mịt, tăm tối. Cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Kiều cảm nhận được tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những ngày tháng sắp tới mờ mịt, và có lẽ với Kiều, điều còn lại chỉ là những ký ức đẹp về gia đình và người yêu.
Cuối cùng, nỗi đau và tuyệt vọng tuôn trào thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng đau đớn đến xé lòng:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Mỗi tiếng gọi Kim Trọng của Kiều đều là những lần nàng quặn thắt tâm can. Những từ ngữ diễn tả nỗi đau như “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” tạo thành những đợt sóng đau thương ập đến, bao vây lấy người con gái đáng thương.
Dù cố gắng hết sức, Kiều cũng không thể che giấu được những tổn thương đang gánh chịu. Tiếng gọi Kim Trọng là sự gắng gượng cuối cùng, sau đó nàng nhận lỗi và nói lời tạ từ, đồng thời tự trách mình trong day dứt, dằn vặt.
Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy tiếng kêu của Kiều hòa trong tiếng nấc, thể hiện nỗi thương mình nhưng nhiều hơn là xót xa cho Kim Trọng. Trong bi kịch tình yêu, Kiều nhận hết trách nhiệm về mình, tự coi mình là kẻ phụ bạc. Hành động này đã làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng của nàng.
Đó là vẻ đẹp cao thượng của người con gái trong tình yêu, dù bị hoàn cảnh dồn ép đến bước đường cùng, phải đưa ra quyết định đau đớn nhất – bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Kiều vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, dù tình yêu với Kim Trọng mới chớm nở nhưng đã sâu đậm. Đó chính là phẩm chất đáng quý khiến ta càng thêm yêu mến và cảm phục nàng.
Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta thấy Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét sự trân trọng, thiết tha của Thúy Kiều dành cho tình yêu qua hành động “trao duyên”. Qua đó, tác giả cũng làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của người con gái đầu lòng họ Vương: vừa là tấm gương đạo đức với chữ hiếu làm đầu, vừa là hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ biết trân trọng và nâng niu tình yêu chân chính.
Bên cạnh nội dung sâu sắc, nghệ thuật của đoạn trích cũng góp phần làm nên thành công trong việc truyền tải thông điệp của tác giả. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật để làm nổi bật những phẩm chất đáng quý của Kiều. Đồng thời, khi cảm nhận 8 câu cuối bài “Trao duyên”, ta cũng thấy tài năng của Nguyễn Du trong việc sử dụng hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ những tâm tư, nỗi niềm chất chứa trong lòng nhân vật.
Như vậy, với giá trị nội dung sâu sắc và nghệ thuật đặc sắc, đoạn trích “Trao duyên” nói chung và tám câu thơ cuối nói riêng đã giúp người đọc thấu hiểu và đồng cảm với nỗi lòng của Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những kiếp người tài hoa nhưng bị số phận nghiệt ngã dồn ép đến tận cùng. Dù hoàn cảnh có éo le đến đâu, ở họ vẫn tỏa sáng những vẻ đẹp đáng trân trọng.
Bài làm mẫu 2

Trao duyên cho em, nỗi đau này ai có thể thấu cho nàng Kiều. Sau giây phút vô cùng đau đớn, Kiều rơi vào nỗi đau khổ và tuyệt vọng đến cùng cực, nàng nghĩ về Kim Trọng và càng đau xót hơn, nỗi đau đó được thể hiện trong tám câu thơ cuối trong đoạn trích: “Trao duyên”.
Trong tột cùng nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng. Với nàng Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hy vọng, là niềm an ủi, chia sẻ với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là trong tưởng tượng. Nàng cất lên lời than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu với của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn đau hơn. Lời nàng tạ tội của nàng thật thương tâm: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Kiều cất lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mỏng manh, bạc bẽo của bản thân.
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Dường như lúc này đây tình cảm của nàng đã lấn át cả lý trí. “Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời nói lên án cả xã hội phong kiến. Nhưng dù như vậy nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Số phận nàng ta cũng bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm như nàng Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng rẫy phải tự vẫn để minh oan, hay những người con gái được phản ánh trong các câu ca dao:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của nàng Kiều. Hơn thế nữa, câu thơ cũng là lời dự cảm, một lời lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu. Nỗi đau trào dâng, bao nhiêu tình cảm dồn nén choán đầy cả tâm trí. Bởi vậy, nàng thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn với Kim Trọng:
Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Có lẽ rằng đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như thế. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần dường như bao nhiêu tình cảm chất chứa đều được thốt lên qua tiếng gọi người yêu đầy tha thiết của nàng. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng không thể tiếp tục chịu đựng hơn được nữa, Kiều đã ngất đi:
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng
Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Đoạn trích là sự hòa quyện tinh tế giữa yếu tố tự sự và trữ tình, với ngôn ngữ độc thoại làm nổi bật nỗi đau tột cùng của Thúy Kiều. Qua những câu thơ ngắn gọn nhưng sâu sắc, ta thấy được tình cảm chân thành và nhân cách cao đẹp của nàng. Dù lâm vào cảnh ngộ đau thương và tuyệt vọng tột độ, Kiều vẫn luôn đặt nỗi lo cho người khác lên trên nỗi đau của chính mình, thể hiện một tấm lòng vị tha và đáng trân trọng.
4. Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên: Tình yêu và nỗi đau trong thơ Nguyễn Du (8 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm. Mâu thuẫn chồng chất mâu thuẫn, Kiều hoàn toàn bất lực trước khát khao níu kéo quá khứ và hướng tới tương lai mịt mờ.
Dù cố gắng hướng về quá khứ hay tương lai, Kiều vẫn phải đối mặt với hiện thực phũ phàng:
"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Những thành ngữ liên tiếp xuất hiện, phơi bày bi kịch của người con gái. Đó là sự tan vỡ của tình yêu và số phận bèo bọt, trôi nổi của Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi nàng vẫn khao khát hạnh phúc dù hiện thực phũ phàng. Những từ ngữ như "muôn vàn, trăm nghìn" thể hiện khát vọng tình yêu vĩnh cửu, nhưng đó cũng là hiện thực không thể cứu vãn. Bi kịch tình yêu lên đến đỉnh điểm.
Kiều gọi Kim Trọng là tình quân, xót xa cho duyên phận ngắn ngủi, tự nhận mình là kẻ phụ bạc. Đau đớn thay, dù đã trao duyên, nhờ em trả nghĩa, nỗi buồn vẫn chất chứa trong lòng. Nguyễn Du khắc họa đúng quy luật tâm lý: tình yêu dù cố dứt bỏ vẫn vương vấn. Cuối đoạn, dù đã giãi bày hết nỗi lòng, Kiều vẫn đau đớn thốt lên:
"Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Câu thơ như tiếng kêu xé lòng, tên Kim Trọng được gọi hai lần cùng thán từ "ôi, hỡi" tạo nên âm điệu nghẹn ngào, thảng thốt. Kiều tự nhận mình phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà gánh hết trách nhiệm. Nàng thương Kim Trọng hơn chính bản thân mình.
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du đã khắc họa xuất sắc diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Với ngôn từ điêu luyện, ông xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ.
Tác phẩm làm rung động trái tim bao thế hệ. Đoạn trích "Trao duyên" phác họa bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, đồng thời làm nổi bật nhân cách cao đẹp của nàng. Càng hiểu, ta càng thương, càng cảm phục nàng. Kiều hi sinh tình yêu vì chữ hiếu, điều đó thật đáng trân trọng.
Bài làm mẫu 2
Trong khoảnh khắc ấy, Vân bỗng bị lãng quên. Kiều, dù đang sống, lại cảm thấy như mình đã chết. Nàng nói với em mà chẳng biết đang nói với ai, rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên rõ ràng, khiến Kiều tuyệt vọng tột cùng:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể là sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Lời đối thoại chuyển hướng: từ nói với Vân, Kiều như quay sang nói với Kim Trọng. Trước mắt nàng, Vân trở thành hình bóng của chàng Kim. Tình yêu, nỗi nhớ, nỗi đau vỡ òa. “Bây giờ” của Kiều chỉ còn là mất mát. “Trâm” và “gương”, biểu tượng của tình duyên, giờ đã “gãy”, “tan”. Hình ảnh “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu. Kiều nhận từ Kim Trọng “muôn vàn ái ân”, nhưng giờ đây lại phản bội, khiến “tơ duyên ngắn ngủi”. Nỗi cay đắng, xót xa trào dâng trong lòng nàng.
Dù đã trao duyên cho Vân, nhờ em “thay lời nước non” với Kim Trọng, Kiều vẫn cảm thấy mình mang tội. Nàng gửi “trăm nghìn cái lạy” đến “tình quân” – người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, nhưng giờ đây lại bị nàng phản bội. Cái lạy này không phải là lạy mang ơn, mà là lạy tạ tội, đầy đau đớn. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” vang lên đầy chua chát, thể hiện sự chia ly đau đớn. Kiều nhận ra sự cô đơn và số phận bất hạnh của mình:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Đó là lời oán trách số phận “bạc như vôi” của Kiều. Lời than oán không lời đáp, chỉ là tiếng kêu tuyệt vọng giữa cuộc đời bất công. Số phận nàng sẽ trôi dạt như bông hoa trên dòng nước dơ bẩn, không thể cứu vãn. “Nước chảy hoa trôi” là hình ảnh của tuổi thanh xuân đã kết thúc. Trong giây phút cuối, Kiều cất tiếng gọi người yêu:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
“Thôi thôi” là tiếng than đầy dằn vặt, xác nhận sự phụ bạc của mình. Tiếng gọi của Kiều như tiếng kêu tuyệt vọng, không hồi đáp. Nàng đã cố gắng đến phút cuối, thốt lên tiếng kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh”. Sau tiếng kêu ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy đau thương: “Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”.
Đoạn thơ “Trao Duyên” là lời trăn trối của Kiều. Trước khi trao duyên, tình yêu nồng nàn, hạnh phúc; sau khi trao duyên, tất cả tan vỡ. Kiều từ người sống trở thành hồn oan nơi chín suối. Nguyễn Du đã khắc họa thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời của Kiều qua ngôn từ tinh tế, kết hợp lời kể, tự tình, độc thoại. Đó là lý do “Trao duyên” trở thành đoạn thơ xúc động nhất trong Truyện Kiều, và Truyện Kiều trở thành kiệt tác bất hủ.
Bài làm mẫu 3
Truyện Kiều - một kiệt tác bất hủ của Nguyễn Du, được sáng tác dựa trên tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống vào thời nhà Thanh, Trung Quốc. Tác phẩm kể về cuộc đời đầy đau thương và mất mát của Thúy Kiều, trải qua bao sóng gió, khổ đau, cuối cùng hạnh phúc cũng mỉm cười với nàng. 8 câu cuối bài thơ đã thể hiện trọn vẹn nỗi lòng của Kiều.
Thúy Kiều, một người con gái hiếu thảo, tài đức vẹn toàn.
Vì phải cứu gia đình, nàng buộc lòng bán mình chuộc cha. Nhưng hành động ấy khiến nàng phản bội lời thề nguyền thủy chung với Kim Trọng. Trong tình thế bắt buộc, nàng đành nhờ cậy em gái là Thúy Vân, trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề với Kim Trọng dù lòng nàng đau đớn, day dứt khôn nguôi. Nàng nhắn nhủ với em như thể mình sắp đi xa mãi mãi, “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ như lời trăn trối của Kiều về ngày sau khi nàng qua đời. Mai này, khi em “đốt lò hương”, thấy trời “hiu hiu gió”, hồn nàng sẽ trở về, mang theo nỗi đau của kẻ phụ tình. Trước khi chết, nàng chấp nhận hy sinh thân xác để đền đáp tội lỗi phản bội lời thề nguyền.
Nhưng làm vậy, nàng đã phản bội lời thề nguyền thủy chung với Kim Trọng. Trong tình thế bắt buộc, nàng đành nhờ cậy Thúy Vân, trao duyên lại cho em, dù lòng đau đớn, day dứt. Nàng nhắn nhủ với em như thể mình sắp đi xa mãi mãi, “một đi không trở lại”.
Bốn câu thơ như lời trăn trối của Kiều về ngày sau khi nàng qua đời. Mai này, khi em “đốt lò hương”, thấy trời “hiu hiu gió”, hồn nàng sẽ trở về:
Hồn nàng trở về, mang theo nỗi đau của kẻ phụ tình. Trước khi chết, nàng chấp nhận hy sinh thân xác để đền đáp tội lỗi phản bội lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy nàng mang theo xuống cửu tuyền. Hôm nay nàng trở về, nhưng “âm dương cách biệt đôi đường”, chẳng thể nói gì, chỉ xin rảy chén nước để oan hồn được siêu thoát. Khát vọng của con người và thực tế phũ phàng: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong một cuộc sống bình yên, êm ấm, mong con cái được no đủ, gia đình quây quần.
Nhìn lại hiện tại, nghĩ đến người tình, nàng thốt lên lời tâm sự:
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, làm sao kể hết những ân tình ngọt ngào ngày xưa. Thôi thì nàng đành cam chịu số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc mong manh. Kiếp này đã lỡ phu thê, nàng xin bái biệt, trở về cõi âm. Lời nhắn nhủ vừa tiếc nuối, vừa cam chịu: “có ngần ấy thôi”, ít ỏi quá chàng ơi, nhưng chẳng thể kéo dài thêm được nữa. Khát vọng của con người và thực tế phũ phàng: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong một cuộc sống bình yên, nhưng lại phải đối mặt với bi kịch gia đình, bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Dù thương con, muốn bảo vệ chúng, nhưng nàng vẫn khiến những đứa con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muốn bênh vực mẹ, nhưng do non nớt và bồng bột, đã có hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu không ngăn cản, hành động này sẽ khiến bi kịch chồng chất thêm. Phác, vốn là đứa con thương mẹ, lại trở thành mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ.
Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa cho kiếp người phũ phàng, chua chát - lời thơ như hờn oán, trách móc số phận:
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Lời thơ uất nghẹn, phận gì mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải kiếp người. Vì phải cứu gia đình, nàng đành bán mình chuộc cha, nhưng làm vậy nàng đã phản bội lời thề nguyền với Kim Trọng. Trong tình thế bắt buộc, nàng đành nhờ cậy Thúy Vân, trao duyên lại cho em, dù lòng đau đớn, day dứt. Nàng nhắn nhủ với em như thể mình sắp đi xa mãi mãi, “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ như lời trăn trối của Kiều về ngày sau khi nàng qua đời. Mai này, khi em “đốt lò hương”, thấy trời “hiu hiu gió”, hồn nàng sẽ trở về, mang theo nỗi đau của kẻ phụ tình. Trước khi chết, nàng chấp nhận hy sinh thân xác để đền đáp tội lỗi phản bội lời thề nguyền. Cuộc đời quá cay đắng, bạc bẽo, hay xã hội quá bất công với người tài sắc như Thúy Kiều. Đành rằng cuộc đời “nước chảy hoa trôi”, nhưng sao quá phũ phàng đến vậy. Quay về hiện tại, Thúy Kiều như bừng tỉnh, thốt lên:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Việc “trao duyên” đã xong, việc bán mình cũng đã thành, bi kịch của Thúy Kiều cũng đến hồi kết. “Ôi”, “Hỡi” Kim Lang, Thúy Kiều gọi tên người tình lần cuối trong nước mắt nhạt nhòa, nàng ôm nỗi đau giằng xé khi biết rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi. Vì phải cứu gia đình, nàng đành bán mình chuộc cha, nhưng làm vậy nàng đã phản bội lời thề nguyền với Kim Trọng. Trong tình thế bắt buộc, nàng đành nhờ cậy Thúy Vân, trao duyên lại cho em, dù lòng đau đớn, day dứt. Nàng nhắn nhủ với em như thể mình sắp đi xa mãi mãi, “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ như lời trăn trối của Kiều về ngày sau khi nàng qua đời. Mai này, khi em “đốt lò hương”, thấy trời “hiu hiu gió”, hồn nàng sẽ trở về, mang theo nỗi đau của kẻ phụ tình. Trước khi chết, nàng chấp nhận hy sinh thân xác để đền đáp tội lỗi phản bội lời thề nguyền.
Sự thật phũ phàng khiến Thúy Kiều bật lên tiếng kêu đau đớn “thôi thôi” trong nỗi xót xa tột cùng, như từng khúc ruột đứt lìa. Qua đó, ta thấy được tình cảm nàng dành cho Kim Trọng thật sâu nặng, thủy chung son sắt, không gì có thể lay chuyển.
Sự “hy sinh” cao cả của Thúy Kiều khiến người đời ngưỡng mộ, còn tình yêu chân thành của nàng khiến chúng ta trân trọng và yêu mến. Đó chính là ánh sáng rực rỡ trong nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, khiến hình ảnh nàng mãi mãi khắc sâu trong tâm trí độc giả.
Bài làm mẫu 4
Trao Duyên là một trong những đoạn trích đầy xúc động và đau thương nhất trong Truyện Kiều, nơi Nguyễn Du thể hiện tài năng nắm bắt tâm lý nhân vật tinh tế, đồng thời khắc họa bi kịch tình yêu và nỗi đau tâm hồn giằng xé của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đặc biệt là 8 câu thơ cuối.
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Thúy Kiều thức tỉnh trước nỗi đau của cuộc đời mình, thấm thía hơn hiện thực về mối tình đẹp đẽ, sâu nặng với chàng Kim giờ đành bỏ ngỏ, không thể trở lại như xưa. “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, sự đối lập giữa hiện tại đau đớn và quá khứ ngọt ngào. Hạnh phúc với Kiều lúc này chỉ là một tương lai mờ mịt, xa vời.
“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
“Hồng nhan bạc mệnh”, câu nói ấy như ám ảnh cả cuộc đời nàng, suốt đời ôm lấy kiếp long đong. Xã hội phong kiến thối nát, tàn ác đã đẩy Kiều đến bước đường cùng đầy đau đớn. Dù vậy, nàng chỉ biết cam chịu số phận, “đã đành” như một lời thở than đầy bất lực. Câu thơ như lời độc thoại đớn đau, than cho số kiếp bạc bẽo, thân phận bèo bọt của mình và bao kiếp hồng nhan khác.
Nhưng trong đỉnh điểm của nỗi đau, Kiều lại nghĩ đến chàng Kim. Tên Kim Trọng vang lên như tiếng kêu thương của một người đang chới với trước bờ vực thẳm của cuộc đời:
"Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Có một Thúy Kiều đã chết, đó là cái chết trong tâm hồn, cái chết của mối tình đầu chưa trọn vẹn. Dù đau đớn, Kiều vẫn hướng về Kim Trọng, vẫn một lòng thủy chung son sắt. Nhưng nàng vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau dâng lên không ngừng trong lòng. Sau những dòng tâm tư quằn quại, nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả đêm thức trắng, thể xác mệt mỏi, tâm hồn tan nát, Kiều dường như không thể trụ vững được nữa:
“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng"
Trong tột cùng của nỗi đau, ta vẫn thấy tỏa sáng một tình yêu cao đẹp, đẹp đến đau thương. “Hồn ngất máu say”, “hơi lạnh ngắt”, những cách diễn đạt ấy như ghim sâu nỗi đau vào lòng người đọc, làm dấy lên những dằn vặt bất tận về cái kết bi thương của Kiều. Với nàng, tình yêu dành cho Kim Trọng là lẽ sống, và giờ đây lẽ sống ấy đã không còn.
Nếu không có một trái tim đồng cảm với Thúy Kiều, sao Nguyễn Du có thể viết những câu thơ như rỉ máu đầu ngọn bút như thế? Từng nhịp thơ, lời thơ như tiếng lòng gào thét, đầy uất nghẹn và bế tắc của Thúy Kiều. Đó là sự đồng điệu đến từng điệu hồn tế vi nhất giữa tác giả và nhân vật.
...........
Tải file về để xem thêm bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối Trao duyên
- Hướng dẫn Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 103 - Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức tập 1
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 54 - Cánh Diều 6: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 6 tập 2
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 64 - Kết nối tri thức 7: Ngữ văn lớp 7, sách Kết nối tri thức tập 1
- Soạn bài Thực hành đọc: Chiều biên giới - Ngữ văn lớp 7 trang 104 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Phân tích vẻ đẹp nhân vật Phương Định trong tác phẩm 'Những ngôi sao xa xôi' của Lê Minh Khuê (2 dàn ý + 8 bài mẫu)