Văn mẫu lớp 11: Khám phá vẻ đẹp sông Hương qua tác phẩm 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' - 4 dàn ý & 19 bài văn mẫu xuất sắc
Khám phá vẻ đẹp sông Hương qua tác phẩm 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' giúp ta thấu hiểu niềm tự hào sâu sắc của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên Huế và tình yêu quê hương đất nước. Bài phân tích sông Hương bao gồm 4 dàn ý chi tiết cùng 19 bài văn mẫu độc đáo, ấn tượng, mang đến nguồn cảm hứng và gợi ý phong phú để bạn viết nên những tác phẩm xuất sắc.

Sông Hương không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp xứ Huế mà còn là nhân chứng lịch sử, chứng kiến bao thăng trầm của thời gian. Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông này chắc chắn sẽ mang lại cho bạn những cảm xúc khó quên. Dưới đây là 19 bài phân tích sâu sắc về vẻ đẹp sông Hương, mời bạn cùng khám phá. Để trau dồi kỹ năng viết văn, bạn có thể tham khảo thêm các bài phân tích tác phẩm 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' và cách viết mở bài ấn tượng cho tác phẩm này.
Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp dòng sông Hương
I. Mở bài
- Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: nhà văn gắn bó với xứ Huế, sở hữu trí tưởng tượng phong phú, lối viết đầy mê hoặc, chuyên về thể loại bút ký.
- Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu, thể hiện phong cách văn chương độc đáo: kết hợp hài hòa giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc sảo và suy tư đa chiều.
- Hình tượng trung tâm của tác phẩm là dòng sông Hương.
II. Thân bài
1. Dòng sông thiên nhiên
a. Ở thượng nguồn:
- Là “bản trường ca của rừng già”, “rầm rộ dưới bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”; khi thì dịu dàng, say đắm dưới dặm dài rực rỡ hoa đỗ quyên...
- “Cô gái Di-gan”: phóng khoáng, hoang dại, tâm hồn tự do, trong sáng, bản lĩnh gan dạ, mang sức mạnh bản năng.
- Vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
b. Sông Hương từ thượng nguồn đến Huế:
- Sông Hương “như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng...” được đánh thức bởi tiếng gọi tình yêu, bắt đầu hành trình gian truân, “tìm kiếm có ý thức” đến với Huế, lần đầu đến với tình yêu vừa e lệ, vừa táo bạo, chủ động “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
- Sông Hương chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa” (liên hệ hình ảnh sông Đà như “áng tóc trữ tình”).
- Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ: mang vẻ trầm mặc khi chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng liên tục.
- Từ chân đồi Thiên Mụ đến khi gặp Huế: “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về.
- Khi gặp Huế, sông Hương không vội vàng mà “uốn một cánh cung... tình yêu” như người con gái bẽn lẽn, ngại ngùng.
c. Trong lòng Huế
- Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng thế giới, sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, như người con gái chung thủy.
- Sông Hương mang đến cho Huế vẻ đẹp cổ kính, dân dã: “ánh lửa thuyền chài... xưa cũ”, trôi chậm như mặt hồ.
- Người con gái đắm say tình tứ khi bên người yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
d. Từ biệt Huế ra biển: như người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
- Nhận xét: tác giả cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu, khiến sông Hương hiện lên như người con gái chung tình, hết lòng vì tình yêu.
2. Dòng sông lịch sử
- Sông Hương là nhân chứng lịch sử của Huế và đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương qua các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, ...
- Sông Hương như một công dân mang trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”, ...
- Là người con gái anh hùng: gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu oanh liệt từ thời trung đại đến cách mạng tháng Tám, ...
3. Dòng sông văn hóa
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành từ sông nước Hương Giang.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng sông Hương.
- Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, ngôn từ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong việc xây dựng hình tượng sông Hương.
- Qua tác phẩm, ta cảm nhận được niềm tự hào sâu sắc của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế và tình yêu đất nước.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương đạt 9+ - Mẫu 1
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều và vốn kiến thức sâu rộng. Là nhà văn với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm mà tài hoa. Nằm trong dòng chảy cảm xúc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam một hình tượng sông Hương độc đáo trong bút ký 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?'. Với ngôn từ hoa lệ giàu sức biểu đạt cùng vốn hiểu biết sâu rộng, ông đã khắc họa dòng sông Hương như một biểu tượng văn hóa và tâm hồn của người con xứ Huế.
Pautopxki từng nói, 'Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở đẹp'. Với tình yêu và sự am hiểu sâu sắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc đến với sông Hương, mang lại cho mảnh đất cố đô Huế một chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng và hài hòa trong nét đẹp của chiều sâu văn hiến.
Trước hết, vẻ đẹp và sức mạnh của sông Hương được ví như 'bản trường ca của rừng già', gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, một bản trường ca bất tận của thiên nhiên: 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy giữa cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn', rồi lại trở nên 'dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Câu văn dài như dư vang của bản trường ca. Với liên tưởng độc đáo và phép nhân hóa táo bạo, nhà văn đã tạo ra hình ảnh 'giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại'. Có lẽ rừng già đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, dòng sông như người con gái đầy cá tính hoang dại đầy tình tứ. Dòng sông không còn là vật vô tri vô giác mà trở thành cô gái mạnh mẽ, quyến rũ tràn ngập mê say.
Sông Hương là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Khi đi ra khỏi rừng, 'sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ'. Từ một 'cô gái', sông Hương đã được nhân cách hóa thành 'người mẹ' bởi sự đằm thắm, phì nhiêu, màu mỡ của đồng bằng châu thổ. Người mẹ đã bồi dưỡng đưa con cố đô thân yêu bằng phù sa ngọt ngào và những nét văn hóa lâu đời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa sông Hương trở nên có lòng yêu thương, biết hi sinh và đặc biệt là mối quan hệ mẫu tử thiêng liêng giữa dòng sông Hương và thành phố Huế. Dù có sôi nổi nhiệt huyết đến đâu, sông Hương vẫn muốn giữ lại cho riêng mình một điều gì đó bí ẩn, thu liễu lại tính khí để trở nên trang nghiêm cổ kính, giấu trọn trong rừng già 'đóng kín lại ở rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng'. Chỉ có người yêu vẻ đẹp của thiên nhiên đến da diết, ham muốn được tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc của thiên nhiên, hay cũng có thể hiểu ông yêu cảnh đẹp của Huế, yêu dòng sông của Huế và yêu lịch sử hình thành của Huế mới muốn tìm tòi khám phá những điều mà sông Hương vẫn giấu kín. Đó là hành trình đòi hỏi tâm huyết, tâm hồn tinh tế nhạy cảm và kiên nhẫn của người làm nghệ thuật.
Vượt ra khỏi Trường Sơn, sự lột xác của sông Hương khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến 'người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại'. Với vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý cùng năng lực quan sát tinh tế, nhà văn đã gợi ra những dáng hình của sông 'chuyển dòng một cách liên tục', 'uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Cái mượt mà ấy khiến người đọc liên tưởng đến người con gái e ấp dịu dàng nhưng cũng không kém phần chủ động mãnh liệt. Nhà văn miêu tả dòng sông như một cuộc tìm kiếm có ý thức, sử dụng hàng loạt động từ mạnh 'liên tục', 'đột ngột' để miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ, thể hiện sự trăn trở của sông Hương khi chưa tìm thấy 'người tình mong đợi'.
Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng vẫn mang dư vang của Trường Sơn, trôi qua 'giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách' để gợi lên sự hùng vĩ mạnh mẽ của thiên nhiên. Sông Hương lại trở nên mĩ miều với sắc nước 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Khác với con sông Đà của Nguyễn Tuân thay đổi sắc nước theo mùa, sông Hương hiện thân của xứ Huế với sắc tím đặc trưng.
Khi sông Hương lững lờ chảy ngang qua những lăng tẩm của ông hoàng bà chúa khi xưa, nó lại mang một vẻ trầm mặc, cổ thi tựa như bức tranh thủy mặc. Dường như con sông đang cố tỏ tấm lòng thành kính, là những hoài niệm về kinh thành Huế vẻ vang.
“Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”
Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi – một vẻ đẹp đặc trưng của miền đất cố đô. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức con sông ra khỏi dòng hoài niệm, gọi về với sự hồn nhiên vui tươi 'những bãi biển xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long', tựa như đứa con thấy đường về nhà, một cảm giác an tâm và yên bình. Đến đây, tài năng văn chương của ông lại có dịp thăng hoa khi chảy vào thành phố Huế. Ta không còn bắt gặp những cảm xúc băn khoăn trăn trở 'đổi dòng, vặn mình' liên tục mà là 'kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc'. Không còn cảm thấy lạc lõng bơ vơ, sông Hương đã tìm thấy 'người tình' được ôm ấp trong lòng của một cố đô cổ kính. Nổi bật trên nền xanh của sông Hương là 'chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một chiếc vành trăng non'. Nhà thơ Nguyễn Bính đã có câu thơ lục bát để nói về vẻ đẹp của cầu Tràng Tiền xứ Huế:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”
Khác với sự so sánh cây cầu với chiếc lược ngà của Nguyễn Bính, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thấy cầu Tràng Tiền như một vành trăng khuyết – một hình ảnh tinh khôi trong ngần, cũng có thể hiểu đó là tuổi đẹp nhất của người con gái độ đương thì đang làm dáng làm duyên 'làm cho sông như mềm hẳn đi, một tiếng 'vâng' của tình yêu'. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ tương quan của dòng sông và người con gái cố đô dịu dàng, duyên dáng mà nết na ý nhị.
Cố đô Huế luôn được nhớ đến với thành phố của nỗi buồn trầm mặc. Bởi vậy, khi tiến hẳn vào Huế, sông Hương lại được ví như 'một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế'. Bởi tác giả đã tinh tế nhận ra khi tiến đến gần Huế, dòng chảy sông Hương bỗng chậm rãi rất nhiều, tựa như 'mặt hồ yên tĩnh'. Câu văn êm đềm tựa như tiếng nhạc chậm rãi, du dương, làm con người chìm vào khoảng không gian bình yên trữ tình hiếm hoi. Đặc biệt, trình độ văn hóa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những con sông lớn trên thế giới như sông Nê-va của Lê-nin-grat, sông Xen của Paris… để làm nổi bật nên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương vào ban đêm 'lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài'. Nhà văn say đắm trong điệu lững lờ của sông Hương qua thành phố Huế, nhớ lại dòng sông Hương thân yêu dịu hiền trong lòng xứ Huế mộng mơ.
Khi rời khỏi thành phố Huế, sông Hương vẫn quyến luyến, bịn rịn 'ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng'. Thế nên, sông Hương 'đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ'. Nhà văn đã nhân hóa dòng sông, biến nhớ nhung tiếc nuối thành vương vấn.
Vẻ đẹp lịch sử của Huế là điều không thể phủ nhận và bàn cãi. Suốt bao nhiêu năm lịch sử, sông Hương đã chứng kiến bao thăng trầm của thời nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: 'Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc'. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam tổ quốc. Mọi sự kiện lịch sử trọng đại nào cũng diễn ra ở kinh thành Huế. Sông Hương là 'dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi dưới màu cỏ lá xanh biếc'. Với những sự kiện lịch sử trọng đại, những biến cố thay đổi, sông Hương cũng âm thầm khắc ghi, cất giấu như một nhà sử thi với vốn hiểu biết tường tận sâu rộng mà kín tiếng. Dù đã trải qua những mấy ngàn năm lịch sử, chịu tác động trực tiếp bởi chiến tranh, nhưng tâm hồn dòng sông Hương chưa bao giờ già nua héo úa. Đâu đó vẫn là hình ảnh cô gái Di-gan hoang dại cá tính, hay dáng vẻ yêu kiều của cô gái tuổi đôi mươi đang tìm kiếm hạnh phúc. Mặt khác, sông Hương là cội nguồn của thi ca nghệ thuật, có biết bao thi nhân rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Mỗi nhà văn đều đem đến cho người đọc một dòng sông Hương mới mẻ khác lạ, nhưng đều đẹp đến say đắm lòng người. Như Hàn Mặc Tử so sánh sông Hương như dải sông trăng vô tận:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét tinh tế về phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Bởi lẽ, ông đã dành trọn tình yêu cho xứ Huế mộng mơ, khiến độc giả yêu mến thành phố cổ kính trầm lắng và dòng sông Hương thơ mộng. Với ngòi bút tài hoa và vốn hiểu biết sâu rộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa vẻ đẹp của sông Hương êm đềm, lững lờ ôm trọn Huế. Phải trân trọng đến nhường nào, ông mới miệt mài nghiên cứu, tìm tòi sông Hương từ thượng nguồn rừng già đến những bí ẩn mà dòng sông muốn giữ riêng cho mình. 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' không chỉ khám phá vẻ đẹp của sông Hương mà còn đi sâu vào địa lý, lịch sử, văn hóa và con người xứ Huế. Tổng hòa những yếu tố ấy đã tạo nên một tuyệt bút xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cũng viết về dòng sông, nhưng Nguyễn Tuân trong 'Người lái đò sông Đà' lại có một góc nhìn rất khác biệt và độc đáo. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân tập trung tô đậm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà, ví con sông như kẻ thù hiểm độc và tàn bạo. Nét hung bạo ấy được thể hiện rõ qua diện mạo khác thường của dòng sông với cảnh 'đá bờ sông dựng đứng vách thành', nơi 'mặt sông chỉ đúng chính ngọ mới có mặt trời', vách đá chắn ngang lòng sông như một 'yết hầu' hay 'có chỗ con nai, con hổ có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia'. Không chỉ vách đá ven sông, hình ảnh sóng nước trên mặt ghềnh Hát Lóng cũng dữ dội: 'dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm'.
Nhưng đáng sợ hơn cả là quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La với những cái hút nước sông Đà đầy hung tợn: 'Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc'. Nhà văn đã mang đến một loạt hình ảnh và âm thanh rùng rợn, độc đáo qua biện pháp so sánh thường thấy trong tùy bút này. Âm thanh của cái giếng nước ấy càng ghê rợn hơn khi nó phát ra tiếng 'ùng ục' như bị nghẹt lại, bị chặn đứng ở cuống họng mà sặc sụa, đau điếng. Không chỉ vậy, trên quãng sông lúc bấy giờ, nước gầm réo lên, tung bọt trắng xóa như bị rót dầu sôi vào lúc đang nóng bừng bừng. Tất cả hình ảnh và âm thanh đó kết hợp lại tạo nên một 'ngoại hình' đáng sợ cho cái hút nước sông Đà. Sức mạnh của những cái hút nước hiện lên qua sự tái hiện một chiếc bè gỗ khi vô tình lọt vào: 'trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ… nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô lý là những cái giếng ấy nó lôi tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi'.
Hình tượng con sông Đà hung tợn, dữ dội được đặc tả đậm đặc nhất ở thác đá sông Đà – nơi có mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thủy trận vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử. Ở đây, thác đá sông Đà được cảm nhận trực tiếp qua hình ảnh và gián tiếp qua âm thanh. Khi ở xa, tiếng thác gào lên rùng rợn, đầy hoang dã. Khi đến gần, những âm thanh đó không còn là các cấp độ chậm rãi, mà biến thành một trường đoạn âm thanh liên hồi khủng khiếp, một tổ hợp âm thanh làm người ta bàng hoàng.
Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn cho mình lối viết 'độc bạch', thiên về tư duy hướng nội, lắng đọng suy tư để miêu tả hình tượng sông Hương. Chính vì thế, sông Hương được tô đậm ở nét trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh với tình yêu say đắm. 'Ở thượng nguồn, sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại… rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và phóng khoáng'. Tác giả đã miêu tả sông Hương ở thượng nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng, say đắm. Dòng sông được thổi hồn bằng ngọn gió tâm hồn dào dạt, nhạy cảm, liên tưởng tự do, phong phú. Khi ra khỏi rừng, sông Hương thay đổi tính cách: 'sông như chế ngự được bản năng con gái để mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa cho một vùng văn hóa xứ sở'.
Sông Hương trở thành niềm tự hào của Huế, vì vậy khi nhắc về nó, người ta thường hình dung đến gương mặt kinh thành đầy trữ tình như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm tận nguồn cội để phát hiện bản chất của cô gái Di-gan: cá tính, mạnh mẽ, bản lĩnh, gan dạ và vững vàng. Đó là một phát hiện đầy lý thú về một dòng sông quen thuộc. Miêu tả sông Hương, nhà văn không nhìn nhận nó trong tư thế độc lập mà đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với kinh thành Huế. Dòng sông mang linh hồn và cảm xúc như một tình nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực.
Đã có bao đêm sông Hương tình tự bên thành phố thân yêu của mình, để rồi đến lúc phải rời đi, nó lại chẳng muốn chia xa mà bịn rịn, quyến luyến. Sông Hương gặp lại thành phố Huế ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ như để nói một lời thề chung thủy với mảnh đất cố đô. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi chung tình với quê hương, xứ sở. Một cái nhìn nghệ sĩ tài hoa, đa tình mà có lẽ chỉ riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được.
Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian, với điểm nhìn khác nhau. Bên cạnh đó, cũng không ít điểm chung được hai nhà văn khắc họa khi khám phá những dòng sông này. Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ và dữ dội.
Lấy cảm hứng từ vẻ đẹp lộng lẫy của thiên nhiên, hai con sông với hai góc nhìn khác nhau nhưng để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Chúng đều được nhìn nhận như hai nhân vật trữ tình, có tâm tư và suy nghĩ riêng. Cũng như con người, cả hai dòng sông đều được đánh giá dựa trên hai mặt đối lập: trữ tình – hung bạo, để người ta có thể hình dung toàn diện về chúng. Một đặc điểm không thể không kể đến đó là ngòi bút miêu tả tài hoa, uyên bác của hai tác giả khi miêu tả về dòng sông: chúng đều được nhìn nhận dưới phương tiện văn hóa – thẩm mỹ. Sông Đà đại diện cho thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình, còn sông Hương lại là hiện thân cho nét đặc sắc của âm nhạc, thi ca, lịch sử và con người kinh thành Huế.
Có thể nói, 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo về sông Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương, một dòng sông mang dáng vẻ hoang dại ở khúc thượng nguồn. Sông Hương, trở nên dịu dàng và say đắm, thủy chung khi gặp được người tình của mình là xứ Huế đầy thơ mộng, trữ tình. Sông Hương đi vào trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không đơn thuần là một cảnh quan thiên nhiên vô tri vô giác mà còn chứa đựng trong tâm hồn đầy rẫy cung bậc cảm xúc và tình yêu.
Phân tích sông Hương - Mẫu 2
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết bút ký. Với vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực, ông đã có nhiều tác phẩm sâu sắc và giàu giá trị. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bút ký 'Ai đã đặt tên cho dòng sông'. Tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương. Đây không chỉ đơn thuần là một dòng chảy địa lý mà còn là một thực thể có tính cách, có tâm hồn, mang vẻ đẹp riêng biệt.
Với cái tôi mê đắm, tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang đến cho người đọc những cảm nhận khác nhau về con sông của đất nước. Bằng việc sử dụng liên tưởng so sánh độc đáo, tác giả ví sông Hương như 'Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại'. Sông Hương hiện lên là người con gái của rừng, và chính rừng Trường Sơn đã hun đúc lên ở dòng sông một bản lĩnh gan dạ. Không chỉ vậy, sông Hương còn như 'người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở'. Ở đây, tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp mẫu tính của sông Hương, ngợi ca sông Hương như một 'đấng sáng tạo'. Từ ngàn năm nay, sông Hương đã lặng thầm bồi đắp phù sa để góp phần hình thành một vùng văn hóa thẩm mỹ dọc hai bên bờ sông. Nó là cội nguồn của không gian văn hóa Huế. Nhưng sông Hương không bao giờ muốn bộc lộ mình như một người mẹ bao dung, hiền từ và thầm lặng. Đó chính là những nét bí ẩn của dòng sông, dẫn dụ tâm hồn nghệ sĩ 'khám phá, kiếm tìm'.
Ngoài ra, tác giả còn giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế. Khi về đến đồng bằng, sông Hương như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Phép so sánh liên tưởng tài hoa được nảy ra trong một khoảnh khắc bừng sáng của trí tuệ và cảm xúc. Phép liên tưởng ấy đã ngợi ca vẻ đẹp như cổ tích, như huyền thoại của sông Hương. Người con gái đẹp sông Hương được đánh thức bằng tình yêu, bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, mang một diện mạo hoàn toàn mới đầy lãng mạn và đam mê. Dòng sông bắt đầu chủ động dấn thân vào một hành trình 'tìm kiếm có ý thức' để đi tới nơi gặp gỡ với những người tình mong đợi. Trên hành trình ấy, dòng sông phô diễn toàn bộ vẻ kiều diễm và quyến rũ của mình với những đường cong tuyệt mỹ. Sông Hương vượt qua một lòng vực sâu để sắc nước trở nên xanh thẳm, trải qua giữa những dãy đồi sừng sững, với những điểm cao đột ngột để dòng sông mềm như tấm lụa, nước sông phản chiếu 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Sông Hương đi qua những rừng thông u tịch, nơi phòng kín giấc ngủ ngàn năm của vua chúa nhà Nguyễn và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ. Qua đây, độc giả có thể thấy được sông Hương hiện lên như một người con gái ý nhị, biết tự thay đổi để tránh làm kinh động đến giấc ngủ của người xưa. Sông Hương đi qua những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà. Mặt nước dòng sông như sinh động hẳn lên khi nghe tiếng gọi ngân nga của Huế qua tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Trong hành trình tìm đến với tình yêu của mình, sông Hương không ngừng phô diễn vẻ đẹp của mình, khi thì lung linh, huyền ảo, đầy mộng mơ, lúc lại mang vẻ đẹp vừa bình dị vừa thiêng liêng. Đó chính là vẻ đẹp đơn thuần của tình yêu.
Còn trong lòng thành phố Huế, sông Hương giống như một người đi xa đã tìm đúng đường về, 'tâm trạng vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long'. Không chỉ vậy, nó còn 'kéo một nét thẳng thực yên tâm để nơi cuối đường nhìn thấy tín hiệu của Huế là cây cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non'. Để đáp lại tình cảm của Huế, sông Hương đã hiến dâng toàn bộ tinh hoa của mình. Một vẻ đẹp chẳng nơi nào có được. Trong lòng thành phố Huế, lưu tốc của sông Hương giảm đột ngột. Nó trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Với cái nhìn sắc sảo và vốn hiểu biết sâu rộng của một nhà khoa học, tác giả đã lý giải những chi lưu nhỏ cộng với hai hòn đảo nhỏ trên sông làm vận tốc của dòng sông giảm hẳn đi. Còn với cái nhìn mê đắm, tài hoa của một tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn, ông lý giải sở dĩ sông Hương trôi đi thật chậm vì dòng sông còn vấn vương với Huế, ngập ngừng không nỡ rời xa. Nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng phải chia xa. Sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Nhưng như sực nhớ một điều gì đó chưa kịp nói, sông Hương đột ngột đổi dòng, quay trở lại gặp Huế lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
Sông Hương trong lịch sử là dòng sông hùng tráng với những chiến công hiển hách. Nhưng cũng là dòng sông đau thương với nhiều mất mát, hy sinh. Dòng sông mang số phận chung của con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Còn giữa đời thường, sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Dòng sông đó không chỉ mang vẻ đẹp của con người Huế mà còn mang vẻ đẹp của con người Việt Nam. Giữa đời thường, nó như một cô gái Huế dịu dàng, kín đáo.
Có một dòng thi ca về sông Hương, và dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ. Sông Hương từng là 'dòng sông trắng - lá cây xanh' trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà. Từ tha thướt, mơ màng, nó chợt hiện lên hùng tráng 'như kiếm dựng trời xanh' trong khí phách của Cao Bá Quát. Có một sự đồng điệu trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tố Hữu về dòng chảy này. Tác giả 'Từ ấy' nhìn thấy một nàng Kiều trên sông Hương, còn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương đích thực là nàng Kiều rất mực chung tình.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương ở cái nhìn đa chiều và với đôi mắt lãng mạn, tài hoa nghệ sĩ. Từ đó, mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của dòng sông đất nước. Với việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế, mỹ lệ, giàu chất thơ, nên có những ý văn đẹp như những ý thơ. Người đọc còn cảm nhận được tài năng của tác giả ở thể bút ký.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương học sinh giỏi - Mẫu 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về thể loại bút ký. Nét đặc sắc trong những sáng tác của ông chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình. Các tác phẩm của ông còn là sự giao hòa nhuần nhuyễn giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, lịch sử, văn hóa, địa lý,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của nhà văn. Chính lối văn phong ấy, ông đã thổi hồn vào 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?', biến tác phẩm trở thành bài bút ký xuất sắc. Trong tác phẩm này, tác giả đã khắc họa nên một dòng sông Hương – một dòng sông đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận đối với văn nhân, nghệ sĩ – với một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê đắm. Vẻ đẹp của sông Hương không chỉ được lột tả qua dáng vẻ bên ngoài mà còn là độ sâu lắng của nét đẹp bên trong tâm hồn.
Khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, ta thấy trong đoạn trích của bài bút ký 'Ai đã đặt tên cho dòng sông', dưới sự am hiểu sâu sắc về địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc thấy được vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng, phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông Hương. Cái đẹp của dòng sông được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế, và ngược lại, vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ, làm nổi bật.
Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn: chảy giữa lòng Trường Sơn, vào ngoại vi thành phố và chảy đến giữa lòng thành phố. Lúc này đây, dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân, rồi lưu luyến khi chảy ra ngoài thành về hạ nguồn.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy không gian của núi rừng Trường Sơn đã góp phần làm cho hình ảnh sông Hương trở nên xinh đẹp. Để làm rõ điều này, tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh đặc biệt ấn tượng. Trước hết, sông Hương 'đã là một bản trường ca của rừng già' – một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo, cho thấy cá tính của tác giả trong việc liên tưởng phong phú.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này mang cái chất hào hùng, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt hùng vĩ, vừa hùng tráng cũng rất đỗi trữ tình. Trong cái nhịp chảy của sông Hương 'rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua từng ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn', tác giả đã sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh sự hùng tráng của dòng sông.
Nhưng bên cạnh đó, dòng Hương Giang cũng chẳng kém phần trữ tình thơ mộng khi thả mình qua 'những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Ngay lúc này đây, sông Hương 'trở nên dịu dàng và say đắm', mang thêm cho mình một diện mạo khác hẳn giữa rừng núi Trường Sơn đại ngàn, hùng vĩ.
Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng cũng rất hài hòa, tạo nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng, mang lại một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương Giang ở thượng nguồn. Chưa dừng lại ở đó, cảm thấy vẫn chưa lột tả được hết vẻ đẹp, tính cách của dòng sông Hương, tác giả đã sử dụng thêm một hình ảnh so sánh đầy sáng tạo: 'sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại'. Với hình ảnh so sánh này, độc giả liên tưởng đến những cô gái du mục với những vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, làm say đắm lòng người.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy dưới ngòi bút so sánh của nhà văn, dòng sông trở nên có cá tính và tâm hồn tự do, trong sáng. Chính vẻ đẹp của cấu trúc rừng núi thượng nguồn đã chế ngự sức mạnh bản năng của cô gái phóng khoáng ấy, để khi ra khỏi rừng, sông Hương dưới ngòi bút của tác giả trở thành 'người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở', mang một vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cố đô bằng những dòng phù sa ngọt ngào.
Bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã biến sông Hương – một cảnh quan của thiên nhiên vốn vô tri vô giác – nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hy sinh như một người thực thụ, để lại cho độc giả những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến tận vùng thượng nguồn của dòng sông, nơi núi rừng Trường Sơn, cho thấy được sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, đồng thời thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.
Hết phần chảy giữa Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua 'cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại', hết sức lãng mạn, hết sức thi vị, mang vẻ đẹp của 'người gái đẹp'. Trong cảm nhận của nhà văn, cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, đợi người tình mong đợi đến và đánh thức.
Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau, tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm hoàng tử trong mơ của mình.
Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới, những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục 'vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, ta thấy tác giả ngắm nhìn dòng sông mà liên tưởng đến 'người gái đẹp' đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình. Đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.
Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại, quyến rũ của người con gái mà còn mang nhiều vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú khác. Rồi dòng sông đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những màu rực rỡ 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím' thật kỳ thú, làm cho dòng Hương Giang như bức tranh nhiệm màu.
Khi đi qua những lăng tẩm, sông Hương lại trở nên trầm mặc, tạo cho độc giả cảm giác như dòng sông đang chiêm nghiệm, thành kính suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào.
Và rồi, sông Hương bỗng bừng sáng hơn khi nghe thấy âm thanh thành phố. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo: 'chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vầng trăng non', rồi thì 'dòng sông mềm hẳn đi như tiếng 'vâng' không nói ra của tình yêu' – như tiếng lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ nhận thấy tác giả so sánh sông Hương như một 'mặt hồ yên tĩnh', 'điệu nhảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố' – những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại. Một sự liên tưởng hết sức thú vị: 'sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô', 'mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với những chiếc thuyền xinh đẹp của chúng'.
Tác giả như muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc thuyền thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ tàu vì trôi nhanh quá. Thế, tác giả mới thấm thía nhớ thương về sông Hương và 'chợt thấy quý cái điệu nhảy chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố'.
Với lối viết sinh động, sáng tạo, nhà văn đã khoác lên mình Hương Giang diện mạo của một 'nàng thơ xứ Huế' – vừa cá tính, vừa e ấp, đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai Huế đầy mộng mơ.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này càng đẹp hơn khi được soi chiếu và trở thành một phần của lịch sử nước nhà. Hơn thế nữa, sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm, hưng thịnh của cố đô Huế: 'vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân'. Những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ.
Dòng sông trải qua biết bao đau thương của chiến tranh, nhưng khi hòa bình lập lại, dòng sông cũng nhanh chóng thay đổi, trở về vẻ dịu dàng vốn có. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh đẹp thơ mộng. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó từ lâu, nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.
Rời khỏi kinh thành, sông Hương lưu luyến không muốn rời xa: 'đột ngột đổi dòng, rồi rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.' Bên cạnh đó, 'là nỗi vấn vương, là cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự…'
Bằng nghệ thuật nhân hóa sinh động, nhà văn đã cho độc giả thấy được tình cảm của sông Hương đối với Huế, như người tình dịu dàng, chung thủy của xứ Huế đầy thơ mộng, trữ tình. Từ đây, khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, độc giả thấy được sự quan tế tinh tế cùng với vốn từ ngữ phong phú, cùng với sự tài hoa uyên bác trên mỗi trang viết của tác giả trong việc khắc họa vẻ đẹp của sông Hương vô cùng độc đáo.
Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, sự am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế, pha vào đó là sự thành thạo, điêu luyện trong việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, nhân hóa, tác giả đã cho độc giả thấy được vẻ đẹp của sông Hương mang những bộ mặt khác nhau ở mỗi vùng đất mà nó chảy qua.
Với những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết về mọi mặt, cùng với văn chương tao nhã, hướng nội và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút ký đặc sắc, một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp – vẻ đẹp gần gũi, thiêng liêng nhưng rất dịu êm.
Có thể nói, 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương, một dòng sông mang dáng vẻ hoang dại ở khúc thượng nguồn. Sông Hương, trở nên dịu dàng và say đắm, thủy chung khi gặp được người tình của mình là xứ Huế đầy thơ mộng, trữ tình. Sông Hương đi vào trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không đơn thuần là một cảnh quan thiên nhiên vô tri vô giác mà còn chứa đựng trong tâm hồn đầy rẫy cung bậc cảm xúc và tình yêu.
Phân tích sông Hương ngắn gọn - Mẫu 4
Từ xưa đến nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn tìm kiếm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng tâm hồn mình đến mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, tửu – những thú vui tao nhã ở đời – thì các tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của mình về những cảnh sắc thiên nhiên của đất nước. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy. Dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào, khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật. 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tác phẩm như thế. Tác phẩm ra đời từ chính sự thôi thúc trước cái đẹp của nhà văn.
Tác phẩm được viết năm 1981, bằng tình yêu và sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút ký cùng tên năm 1986.
Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: 'Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất'. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế. Ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh 'bản trường ca của rừng già' khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn.
Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã, khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió. Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn: '… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng'.
Tiếp đến là những hình ảnh ngoại vi thành phố Huế. Tác giả sử dụng một loạt động từ mang sắc thái nhân hóa, sông Hương như bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khát khao thanh xuân. Những cô gái đẹp nằm ngủ trong mơ màng. Hành trình đầy gian truân để gặp 'người tình mong đợi'. Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự bắt bóng kỳ diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế. Thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương – người con gái dịu dàng của mình. Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Sông Hương thực sự là một bức tranh với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
Sông Hương hiện ra như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét mềm mại, hài hòa, tinh tế. Qua cách cảm nhận của âm nhạc, sông Hương đẹp như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng.
Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh vật. Chất nhạc trước hết thể hiện ở chính âm hưởng, nhịp điệu, tiết tấu của văn bản ngôn từ. Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả nhịp điệu dòng chảy của sông Hương. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường, huyền hoặc của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia. Âm thanh nồng ấm thân yêu của những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà. Âm thanh không lời của một tình yêu e ấp. Âm thanh của chính dòng sông được ví như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Âm thanh được gợi ra trong những liên tưởng đến nền âm nhạc cổ điển Huế – một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô được sinh thành và tồn tại trên chính dòng sông. Sông Hương thực sự như một bản nhạc êm đềm giữa lòng thành phố Huế.
Tóm lại, bằng những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình, sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương; vừa dịu dàng, mềm mại như bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết, đắm say như một bản nhạc êm đềm.
Phân tích sông Hương - Mẫu 5
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
(Tố Hữu)
Chẳng biết tự bao giờ, sông Hương núi Ngự đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhiều văn nhân, nghệ sĩ. Nằm trong dòng cảm xúc ấy, nhà văn chuyên về bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành một bài bút ký tài hoa, sang trọng 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' để khắc họa vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Hương Giang. Bằng ngôn từ mỹ lệ, giàu sức biểu đạt, cùng trí tưởng tượng phong phú và sự hiểu biết uyên bác về địa lý, lịch sử, văn hóa, văn học… Nhà văn đã tái hiện thành công vẻ đẹp của sông Hương như một biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế.
Nếu nhắc tới thủ đô Paris hoa lệ, người ta không thể không nhắc tới dòng sông Xen nổi tiếng đã đi vào biết bao trang văn, trang thơ đặc sắc của nhân loại, là đề tài của những tác phẩm điện ảnh kinh điển thế giới, thì nhắc đến cố đô Huế, người ta cũng không thể quên dòng Hương Giang chảy lững lờ giữa lòng thành phố. Nói về dòng sông này, câu mở đầu đoạn trích bài bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: 'Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất'. – một nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn, không chỉ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả khi đặt con sông Hương ngang hàng với vẻ đẹp những dòng sông nổi tiếng trên thế giới.
Ngược dòng Hương Giang, cùng tác giả trở về thượng nguồn của nó, ta ngạc nhiên thú vị trước những nét tính cách phong phú đến khó hiểu của dòng sông. Sông Hương ở thượng nguồn được nhà văn miêu tả với một sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng có lúc lại dịu dàng, say đắm. Cảnh sông ở đây được tác giả khắc họa đầy ấn tượng: 'nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn'. Hình ảnh so sánh với bản trường ca kết hợp với tính từ đặc tả 'rầm rộ', 'mãnh liệt' cùng với động từ mạnh 'cuộn xoáy', nhà văn đã thể hiện thật rõ sức mạnh hoang dại của dòng sông – một vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên, của đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Chi tiết này đã gây ấn tượng mạnh với bạn đọc bởi nhà văn đã cho bạn đọc được khám phá tính cách mới mẻ của sông Hương mà nếu chỉ ngắm khuôn mặt kinh thành của nó sẽ không nhận ra được: đó là sức mạnh hùng vĩ, man dại của đời sống.
Bên cạnh vẻ đẹp mãnh liệt đó, Hương Giang vẫn giữ được nét dịu dàng, duyên dáng của dòng sông ở xứ mơ màng: 'dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Hoàng Phủ Ngọc Tường có đôi bàn tay của người họa sĩ tài hoa khi ông phối hai màu xanh – đỏ trong bức tranh của sông Hương. Vậy là trong cái lạnh lẽo, âm u đã xuất hiện ngọn lửa ấm nóng của hoa đỗ quyên rừng, khiến con sông rực rỡ, lung linh, tỏa sáng.
Đến giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại… trong sáng… gan dạ”. Sông Hương được nhân hóa như một cô gái Di-gan – cô gái của một bộ tộc người ưa sống tự do, phóng khoáng, mạnh mẽ, khiến dòng sông không còn là sinh vật vô tri, vô giác mà trở thành một sinh thể đầy cá tính, mạnh mẽ, quyến rũ, mê say.
Khi ra khỏi rừng, 'sông Hương nhanh chóng mang một màu sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở'. Từ 'cô gái', sông Hương được nâng lên thành người mẹ, gợi ra sự đằm thắm, phì nhiêu, màu mỡ của đồng bằng châu thổ. Tác giả tỏ ra là người am hiểu dòng sông Hương khi ông nhắc nhở: 'nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương… núi Kim Phụng'. Từ lời nhắc nhở của nhà văn, ta nhận thấy: vậy là có một dòng sông ở phía bên kia cửa rừng và một dòng sông ở kinh thành. Sông Hương trở nên sâu sắc, kín đáo và giàu tâm trạng biết bao.
Trong hành trình xuôi về đồng bằng, nhà văn đã nhận ra sự thay đổi về tính cách của sông Hương. Bởi lẽ, trước khi trở thành người tình chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Xuôi theo dòng Hương Giang về vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế, ta bắt gặp nét đẹp khác của dòng sông: 'người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại' – hình tượng người con gái đẹp gợi mở cho người đọc về vẻ đẹp mới mẻ của dòng sông, hứa hẹn nhiều điều thú vị, hấp dẫn và đem đến cho ta một liên tưởng đẹp đẽ đến một huyền thoại cổ tích: nàng công chúa ngủ trong rừng. Sự hiểu biết về địa lý cùng năng lực quan sát tinh tế, nhà văn gợi ra thật đẹp dáng hình của sông Hương: 'chuyển dòng một cách liên tục… uốn mình theo những đường cong thật mềm…' Những từ 'liên tục', 'đột ngột' là những trạng từ miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ, thể hiện sự trăn trở của dòng sông khi chưa gặp người tình cố đô. Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn. Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách. Nếu cái sừng sững của núi đồi gợi ra sự hùng vĩ, mạnh mẽ, thì sông Hương lại trở nên hùng vĩ, duyên dáng, mỹ miều, đặc biệt với sắc nước của dòng sông: 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Màu tím ấy phải chăng là màu tím của:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
(Thanh Hải)
Hay màu hoa lục bình trong thơ của Lê Anh Xuân:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
Có lẽ màu 'tím' trong chữ 'chiều tím' của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tím Huế, sắc màu đặc trưng của không gian Huế 'mà chẳng nơi nào có được'. Đặc biệt, đoạn sông Hương chảy vào ngoại vi thành phố Huế được nhà văn diễn tả: 'giữa đám quần sơn lô xô ấy… bát ngát tiếng gà'. Có lẽ, qua tất cả chặng đường đi của mình, đây là lúc duy nhất sông Hương mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u, triết lý – một vẻ đẹp đặc trưng cho miền đất cố đô.
Tài năng văn chương của tác giả được thể hiện một cách xuất sắc, như một viên ngọc quý tỏa sáng. Đoạn văn này có thể ví như một tác phẩm điêu khắc tinh xảo, khắc họa tên tuổi của nhà văn lên bức tường nghệ thuật, làm rạng danh một đời cầm bút. Sự miêu tả tài tình về vẻ đẹp và tính cách của sông Hương khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là một nhà văn mà còn là một nghệ sĩ hội họa, với những nét vẽ uyển chuyển, mềm mại, tái hiện hình ảnh dòng sông một cách sống động. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương không còn những băn khoăn, trăn trở mà trở nên bình yên, “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”. Sự yên tâm ấy đến từ hình ảnh cây cầu trắng của thành phố, như một điểm nhấn hoàn hảo. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, có tâm hồn, ý thức, được ôm ấp trong lòng cố đô cổ kính. Nổi bật trên nền xanh của dòng sông là “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”.
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”
Nếu Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền với chiếc lược ngà, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại ví von nó như vành trăng non – một hình ảnh độc đáo, gợi lên vẻ tinh khôi, duyên dáng của cây cầu. Khi gặp người yêu, cô gái nào cũng muốn làm duyên, làm dáng, và sông Hương cũng không ngoại lệ. Dòng sông “uốn mình một cách nhẹ nhàng… như một tiếng vang không lời của tình yêu”. Cách so sánh tinh tế này của tác giả đã khắc họa vẻ đẹp tình tứ, kín đáo của cô gái Huế. Sông Hương mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế, khác biệt hoàn toàn với những dòng sông khác trên thế giới như sông Xen của Pan, sông Đa-nuýp của Bu-Đan-phét. Sông Hương nằm giữa lòng tác phẩm yêu quý của mình, thể hiện niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả về dòng sông quê hương.
Âm nhạc của dòng sông được thể hiện qua nhịp điệu êm đềm của bài bút ký, với những câu văn dài miên man, lưu tốc và dòng chảy của sông Hương. “Dòng sông Hương khi đi qua tác phẩm đã trôi đi thật chậm, thực cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để nhấn mạnh vẻ lững lờ của Hương giang, nhà văn đã liên tưởng đến dòng sông Nê-va của Lê-nin-grat và nhắc đến tư tưởng triết học của Hê-ra-clit: “2000 năm trước trôi đi quá nhanh”, nhưng sông Hương thì khác, dòng sông êm đềm mà nhà văn gọi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Thu Bồn đã viết hai câu thơ đặc sắc:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
Dường như sông Hương đang hòa điệu với tâm hồn Huế, tôn lên vẻ đẹp thơ mộng của cố đô. Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ chiêm ngưỡng một bức tranh sông nước diễm lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế, tâm hồn Huế, văn hóa Huế. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đối với nhà văn, âm nhạc cổ điển Huế phải được trình diễn trên một con thuyền, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya, mới có thể chinh phục được lòng người. Bởi tác giả hình dung rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên không gian mặt nước.
Có thể nói, dòng sông đã sinh ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế, góp phần tạo nên một xứ Huế “trong sáng và thư thái” (UNESCO). Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng chính không gian âm nhạc của sông Hương và hình tượng người tài nữ đánh đàn đầy nữ tính đã tạo nên bản nhạc đầy tâm trạng trong cuộc đời Kiều. Nguyễn Du đã lấy cảm hứng từ bản “Tứ đại cảnh” và nhiều lần lênh đênh trên dòng sông này. Nhà văn còn nhận định rằng có một dòng thi ca về sông Hương, mỗi nhà thơ yêu sông Hương bằng một tình yêu riêng và thể hiện theo cách riêng. Tác giả thú vị khi nhận xét: “Có một dòng thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Qua lời nhận xét này, sông Hương hiện lên với vẻ đẹp đa chiều, lung linh, từ sự tinh tế của Tản Đà, khí phách của Cao Bá Quát, đến sự dịu dàng của Thu Bồn. Mỗi thi sĩ đều khám phá những nét riêng, nhưng qua đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương không chỉ ở phương diện tự nhiên mà còn là dòng sông của văn hóa, thi ca.
Sông Hương gắn liền với những chiến tích hào hùng của dân tộc trong cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước. Tựa như cái đòn gánh gánh hai đầu đất nước, mọi sức nặng của lịch sử đều đổ xuống đôi vai kinh thành Huế và sông Hương. Đó là dòng sông của thời gian ngân vang, của lịch sử được viết giữa màu cỏ xanh. Sông Hương là dòng sông thiêng liêng của tổ quốc, là dòng Linh Giang trong sử sách, từng chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới đất Việt, từng soi bóng xuống kinh thành Phú Xuân, chứng kiến những bước ngoặt lịch sử như Cách mạng tháng Tám và chiến dịch Mậu Thân 1968. Đó là dòng sông của lịch sử.
Bài ký khép lại với câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Một câu hỏi mà chính thiên bút ký này là câu trả lời đầy đủ nhất. Câu hỏi này không chỉ nhắc nhở độc giả về cái tên đẹp của dòng sông mà còn bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên, thú vị của tác giả trước mối duyên đẹp giữa Huế và Hương giang. “Hương” là hoa từ thượng nguồn rụng xuống tỏa hương, hay là người dân hai bên bờ đã nấu nước thơm đổ xuống dòng sông, muốn mang cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử cố đô. Đọc tác phẩm, ta thấm thía ý nghĩa sâu sắc trong khúc đoạn trường ca của Nguyễn Khoa Điềm:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút ký tài hoa, dạt dào cảm xúc và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm là những cảm xúc sâu lắng được thể hiện qua văn phong tao nhã, tinh tế. Tác phẩm đã lôi cuốn và đọng lại trong lòng độc giả bởi tình yêu say đắm, chân thành của nhà văn đối với Huế mộng mơ và vẻ đẹp kiều diễm của sông Hương.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương - Mẫu 6
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là một tác phẩm bút ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, khắc họa vẻ đẹp trữ tình và thơ mộng của dòng sông Hương chảy qua thành phố Huế. Mạch cảm xúc của bài ký tập trung vào nét đẹp độc đáo, riêng biệt của con sông duy nhất ôm ấp lòng thành phố cổ kính. Với ngòi bút tài hoa, tác giả đã lột tả trọn vẹn vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đậm dấu ấn Huế.
Nhờ đặc trưng của thể loại bút ký, lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở nên phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và uyển chuyển. Với tình yêu sâu sắc dành cho Huế, cảnh sắc thiên nhiên và dòng sông Hương, tác giả đã khoác lên bài ký một màu sắc và âm hưởng riêng, đậm chất Huế.
Sông Hương được tác giả ngợi ca là “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”. Dòng sông ấy vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao đổi thay của mảnh đất cố đô qua thời gian.
Khi miêu tả sông Hương từ thượng nguồn, tác giả đã liên tưởng đến hình ảnh một cô gái Di-gan phóng khoáng, mê đắm và đầy sức hút. Qua ngòi bút tài hoa, sông Hương hiện lên như một bản trường ca hùng vĩ của rừng già: “khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu, lúc dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với vài nét phác họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa được vẻ đẹp vừa mãnh liệt, vừa dịu êm của sông Hương. Đây chính là nét đặc trưng của dòng sông khi ở thượng nguồn, nơi nó hứng chịu nhiều biến đổi của thiên nhiên.
Độc đáo hơn, tác giả còn ví sông Hương như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Phép nhân hóa đầy ẩn ý này gợi lên vẻ đẹp hoang sơ nhưng đầy quyến rũ của dòng sông. Qua ngòi bút phóng khoáng, sông Hương vùng thượng nguồn hiện lên với vẻ đẹp kỳ bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên, vẻ đẹp của sông Hương không dừng lại ở thượng nguồn. Khi chảy về thành phố Huế, dòng sông mang một vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển. Tác giả đã ví von sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Sự so sánh này không chỉ giàu tính nghệ thuật mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả dành cho dòng sông.
Sông Hương khi chảy vào thành phố mang một sức hút kỳ lạ. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế và đầy tài hoa của tác giả đã vẽ nên bức tranh sông Hương không chỉ bằng ngôn từ mà còn bằng cả trái tim. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp đậm màu sắc cổ tích. Dòng sông “chuyển dòng liên tục”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Cách diễn tả trữ tình và độc đáo này khiến người đọc khó lòng rời mắt khỏi vẻ đẹp tuyệt vời ấy.
Sông Hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo thời gian đã tạo nên nét đặc trưng riêng, thu hút bất kỳ ai muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên một bức tranh hoàn mỹ về sông Hương – dòng sông huyền thoại của cố đô Huế. Sông Hương không chỉ tô điểm cho vẻ đẹp của Huế mà còn ẩn chứa trong mình những giá trị văn hóa, lịch sử hàng nghìn năm.
Đặc biệt, khi sông Hương chảy vào lòng thành phố, tác giả cảm nhận rằng dòng sông như tìm thấy chính mình, trở nên tươi vui và rạng rỡ hơn.
Vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Dưới con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét tinh tế, góp phần làm nên vẻ đẹp cổ kính của Huế. Qua góc nhìn âm nhạc, sông Hương như một điệu slow chậm rãi, sâu lắng và trữ tình. Một vẻ đẹp khiến người ta say đắm, khó lòng rời bỏ.
Sông Hương còn là chứng nhân lịch sử, chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế qua thời gian. Trong sách Dư địa chí, dòng sông được nhắc đến như một chiến binh oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt, soi bóng kinh thành Phú Xuân thời Nguyễn Huệ.
Để cảm nhận sông Hương từ nhiều góc độ, Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sở hữu một trái tim nhạy cảm và tình yêu tha thiết dành cho dòng sông thơ mộng này. Lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể dứt ra khỏi mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy tối đa đặc trưng của thể loại bút ký, kết hợp giữa sự sắc bén và tình cảm chân thành.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là một bài bút ký độc đáo. Sông Hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang trong mình, từ vẻ đẹp thiên nhiên đến giá trị văn hóa, lịch sử.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương - Mẫu 7
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn với phong cách độc đáo, nổi bật trong thể loại bút ký và tùy bút. Văn phong của ông được xây dựng bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, đầy ám ảnh và thấm đẫm chất trữ tình, phản ánh cái tôi uyên bác và tài hoa.
Là một trí thức yêu nước, ông đã gắn bó cuộc đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ và anh hùng của dân tộc. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã viết nên tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn kết hợp tình yêu nước, tinh thần dân tộc với tình cảm sâu sắc dành cho thiên nhiên và truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc. Tất cả những giá trị ấy được thể hiện rõ nét qua cách ông khắc họa vẻ đẹp của sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi kỳ diệu theo không gian và thời gian.
Sông Hương hiện lên qua nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hóa đến nghệ thuật. “Hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng cũng có lúc, sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một “lối chơi độc tấu”, mạch văn tuôn chảy theo cảm hứng, đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ. Ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, và cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già, mang trong mình tâm hồn tự do và trong sáng.
Với con mắt khảo sát nghiêm túc của một nhà địa lý và vốn văn hóa sâu rộng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện hành trình của sông Hương từ trung du xuôi về đồng bằng. Dòng sông liên tục chuyển mình, “theo những đường cong mềm mại, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đến với thành phố tương lai của nó”. Ông đặt sông Hương giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, và bãi biển vùng ngoại ô tây-nam Huế, tạo nên những mảng phản quang đa sắc trên nền trời: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sông Hương, trong mắt nhà văn, là một chủ thể có ý thức, góp phần tôn vinh vẻ đẹp của xứ Huế.
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Seine của Paris, sông Đa-nuýp của Budapest, hay sông Nê-va của Nga. Ông tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của sông Hương về đêm, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mộc mạc xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Ông yêu quý nhịp chảy lững lờ của sông Hương qua Huế, coi đó là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ nhìn sông Hương trong hiện tại, mà còn thấy nó như một khởi nguồn của những giá trị tinh thần và lịch sử. Sông Hương từng mang tên Linh Giang, là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Nó đã từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, và đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng.
Từ hiện thực hào hùng của Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận định: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Sông Hương cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca nghệ thuật. Nhiều văn nhân, thi sĩ như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, và Tố Hữu đã từng rung động trước vẻ đẹp của dòng sông này. Nhà văn tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương, và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Việt Nam có nhiều dòng sông chảy qua mọi miền đất nước, và chúng đã đi vào thơ ca, văn học một cách tuyệt vời. Sông Hương, dù chỉ khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, qua ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đã hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm nên bức tranh sơn thủy hữu tình của Huế. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông của lịch sử, văn hóa, và nghệ thuật. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khơi gợi trong lòng độc giả nhiều suy ngẫm về một dòng sông tưởng chừng quen thuộc, nhưng lại ẩn chứa nhiều bí ẩn cần khám phá.
Phân tích vẻ đẹp của sông Hương - Mẫu 8
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên về bút ký, thể loại văn học giàu tính chân thực và gần gũi với đời sống. Điểm nổi bật trong sáng tác của ông là sự kết hợp hài hòa giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa lập luận sắc bén và tư duy đa chiều. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm giá trị, trong đó tập bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” (1986) là một tác phẩm tiêu biểu. Bài bút ký cùng tên trong tập sách này là một tác phẩm đặc sắc, khắc họa vẻ đẹp đa chiều của sông Hương trong mối quan hệ với địa lý, lịch sử và thi ca. Qua bài viết, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về sắc diện và tâm hồn của dòng sông thơ mộng này.
Bài viết mang đậm chất bút ký, nên khi giới thiệu về sông Hương, tác giả bắt đầu từ thượng nguồn của dòng sông. Nhận xét chung của tác giả về sông Hương ở thượng nguồn là “một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc: mạnh mẽ, hoang dại và dịu dàng, say đắm.
Trước hết, vì sinh ra giữa rừng già, sông Hương mang âm hưởng của núi rừng hùng vĩ. Nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Tuy nhiên, cũng có lúc nó “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đôi khi, nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Di-gan” từ vùng đất xa xôi của nước Nga.
Ngoài những đặc điểm trên, tác giả nhìn nhận sông Hương ở thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá”, như thể giữ nguyên vẹn điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo, sông Hương ở thượng nguồn hiện lên với sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính bí ẩn.
Khác với sông Hương ở thượng nguồn, khi về đến đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế, dòng sông mang một hình dáng và màu sắc mới. Nó trở nên uốn lượn, xanh thẳm và trầm mặc.
Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục”, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng đồng bằng, sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Dòng sông chảy qua những vùng đồi, những rừng thông với lăng mộ của các vua chúa, mang trong mình “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.
Nếu sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp hoang dại, mãnh liệt, thì khi về đồng bằng, nó lại hiện lên với vẻ đẹp uốn lượn, trầm mặc và đầy suy tư.
Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được tác giả miêu tả một cách tinh tế và chi tiết. Đoạn sông này vừa mang nét dịu dàng, xanh thẳm của vùng ngoại ô, vừa có nét riêng biệt: mềm mại, dịu dàng và yên tĩnh.
Khi “giáp mặt thành phố”, sông Hương “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông khi chảy qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ”, rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố, sông Hương “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”.
Nếu so sánh với dòng sông Neva ở nước Nga, chảy qua thành phố với tốc độ nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với bờ”, thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Khi bắt đầu rời khỏi Huế, dòng sông như “ngập ngừng, vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải đã viết:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Ở những phần trước, tác giả đặt sông Hương trong mối quan hệ với rừng già, lăng tẩm và thành phố Huế để ca ngợi vẻ đẹp của nó. Đến phần cuối, nhà văn đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thi ca của dân tộc, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mang tầm vóc lớn lao của sông Hương.
Theo tác giả, sông Hương có mối quan hệ sâu sắc với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỷ 18. Sông Hương còn gắn liền với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỷ 19, chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng Tám”, và “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.
Không chỉ gắn liền với lịch sử, sông Hương còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca. Điều đặc biệt là mỗi nghệ sĩ khi viết về sông Hương đều mang đến một góc nhìn độc đáo, không lặp lại. Nhiều thi nhân đã viết về sông Hương với những vẻ đẹp khác nhau: với Tản Đà là “dòng sông trắng, lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với Bà Huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, và với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.
Với vốn kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa và văn chương, cùng văn phong tao nhã, hào hoa và tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa chân dung sông Hương với vẻ đẹp đa chiều, phong phú và độc đáo.
Phân tích vẻ đẹp của sông Hương - Mẫu 9
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn gắn bó sâu sắc với xứ Huế mộng mơ và dòng sông Hương hiền hòa. Tình yêu của ông dành cho mảnh đất này được thể hiện qua những trang văn bình dị, mộc mạc nhưng đầy lãng mạn và trữ tình. Bài ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là một trong những tác phẩm thành công nhất của ông, khắc họa vẻ đẹp đa chiều của sông Hương – một vẻ đẹp trầm lắng, dịu dàng, nên thơ và đậm chất cổ kính.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” được viết theo thể ký, một thể loại cho phép tác giả ghi lại cảm xúc, suy nghĩ và những khoảnh khắc bất chợt một cách chân thực và sâu sắc. Chính thể loại này đã giúp bài viết đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên và đầy xúc động. Vẻ đẹp của sông Hương qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên sống động, khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng và say mê.
Sông Hương là dòng sông “duy nhất” chảy qua lòng thành phố Huế, mang trong mình những nét đẹp độc đáo mà không nơi nào có được. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc dành cho dòng sông này qua từng câu chữ.
Vẻ đẹp của sông Hương được khắc họa từ nhiều góc nhìn, từ chiều dài thời gian đến chiều sâu không gian. Dù ở góc độ nào, sông Hương vẫn mang một nét đẹp riêng, đậm chất Huế.
Ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên với vẻ đẹp hoang dại và mê đắm. Tác giả ví von sông Hương như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, với tâm hồn tự do và trong sáng. Qua ngòi bút tài hoa, sông Hương được miêu tả như “bản trường ca của rừng già”, khi thì rầm rộ, mãnh liệt, khi lại dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài hoa đỗ quyên rừng đỏ rực. Vẻ đẹp ấy vừa bình dị, vừa ám ảnh, làm nên nét đặc trưng của sông Hương và xứ Huế.
Sông Hương được biết đến là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – Huế. Vẻ đẹp của nó là sự kết tinh của một nền văn hóa trầm tích, đầy thăng trầm nhưng không kém phần dịu dàng và quyến rũ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên tưởng sông Hương như “người con gái dịu dàng, đằm thắm, mềm mại trong lòng Huế”. Một hình ảnh thật lãng mạn và đầy tình tứ.
Khi rời thượng nguồn về với thành phố, sông Hương trở nên lãng mạn và đắm say hơn bao giờ hết. Tác giả miêu tả: “Cô gái Di-gan ấy đã vượt qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi nghe tiếng chuông Thiên Mụ, âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng muốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt thành phố, đường cong ấy làm nàng mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đoạn văn nhẹ nhàng, tình tứ và đầy duyên dáng, khiến người đọc không khỏi say mê trước vẻ đẹp của dòng sông.
Sông Hương như một “nàng thơ” đắm mình trong lòng thành phố Huế, và trong những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Sông Hương không chỉ là dòng sông của thiên nhiên, mà còn là nhân chứng lịch sử, chứng kiến bao đổi thay của Huế. Nó là “dòng sông của thời gian ngân vang, của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…”. Sông Hương đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và bền bỉ qua thời gian.
Từ một dòng sông hoang dại, phóng khoáng, sông Hương đã trở nên dịu dàng, tài hoa và đầy ý chí kiên cường.
Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường và người dân Huế, sông Hương là biểu tượng đẹp đẽ nhất, góp phần tạo nên vẻ đẹp của Huế qua hàng nghìn năm lịch sử.
Với ngòi bút tinh tế, cảm xúc chân thành và tình yêu sâu sắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp về sông Hương. Một vẻ đẹp dịu dàng, đậm chất Huế, khiến người đọc muốn một lần được đắm mình trong không gian ấy.
..............
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích sông Hương
- Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Cái Tôi Trong 'Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông' của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Dàn Ý + 4 Bài Mẫu)
- Văn mẫu lớp 11: Tóm tắt tác phẩm Cõi lá của nhà văn Đỗ Phấn một cách súc tích và giàu cảm xúc
- Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận sâu sắc về tản văn Trăng sáng trên đầm sen (2 Mẫu) - Tuyển tập bài văn hay và ý nghĩa dành cho học sinh lớp 11
- Soạn bài Ngôi nhà tranh của Phan Bội Châu tại Bến Ngự - Chân trời sáng tạo Ngữ văn 11, trang 79, sách Chân trời sáng tạo tập 2
- Mở bài Chiều xuân của Anh Thơ - Tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 9