Văn mẫu lớp 10: Phân tích hai đoạn đầu Bình Ngô Đại Cáo - Dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu đặc sắc
TOP 11 bài phân tích đoạn 1 và 2 Bình Ngô Đại Cáo do EduTOPS biên soạn sẽ là nguồn tài liệu quý giá dành cho học sinh lớp 10. Với 11 bài mẫu phân tích hai đoạn đầu của Bình Ngô Đại Cáo, các bạn sẽ nắm vững các luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và mạch lạc. Qua đó, học sinh sẽ biết cách sắp xếp và trình bày các lí lẽ một cách hợp lý để làm nổi bật vấn đề cần phân tích.

Qua hai đoạn đầu ngắn gọn nhưng súc tích của Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng và sự sắc sảo trong ngòi bút của mình, khắc họa rõ nét tư tưởng nhân nghĩa và lòng vì dân. Điều này không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho các phần tiếp theo của tác phẩm mà còn khơi gợi sự đồng cảm sâu sắc từ độc giả. Bên cạnh đó, các bạn có thể tham khảo thêm bài văn mẫu phân tích tinh thần yêu nước trong Bình Ngô Đại Cáo để hiểu rõ hơn về giá trị của tác phẩm.
Phân tích hai đoạn đầu Bình Ngô Đại Cáo - Những bài văn mẫu xuất sắc nhất
- Dàn ý phân tích hai đoạn thơ đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
- Phân tích đoạn 1 và 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Phân tích hai đoạn thơ đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
Dàn ý phân tích hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (tiểu sử, phẩm chất, sự nghiệp văn chương,...).
- Giới thiệu tổng quan về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” (bối cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật nổi bật,...).
- Khái quát về đoạn 1 và đoạn 2 của “Bình Ngô đại cáo” (ý nghĩa, nội dung chính và đặc sắc nghệ thuật,...).
III. Thân bài:
* Khẳng định luận đề chính nghĩa và chân lý độc lập dân tộc, làm nền tảng lý luận cho cuộc kháng chiến
- Luận đề chính nghĩa:
- “Nhân nghĩa” là tư tưởng trọng yếu của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý.
- Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” gắn liền với “yên dân”, và muốn “yên dân” thì phải diệt trừ bạo ngược để nhân dân được sống trong hòa bình, ấm no.
- Chân lý độc lập của dân tộc:
- Dân tộc Đại Việt sở hữu nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng biệt, và phong tục tập quán đặc trưng của hai miền Nam Bắc.
- Trải qua nhiều triều đại, dân tộc ta đã sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc.
- Lịch sử ghi nhận những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trước quân xâm lược.
* Áp dụng lý luận vào thực tiễn để vạch trần tội ác của kẻ thù
- Tội ác đầu tiên của giặc là lợi dụng tình hình rối ren trong nước để xâm lược.
- Thực hiện các chính sách tàn bạo, phi nhân tính: “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”, đẩy nhân dân vào cảnh nguy hiểm chết chóc,...
- Vơ vét tài nguyên, áp đặt thuế khóa nặng nề và tàn phá môi trường, cảnh quan đất nước.
→ Tác giả kết thúc đoạn hai bằng hai câu thơ giàu hình ảnh, khắc họa sâu sắc tội ác của giặc Minh trên đất nước ta.
III. Kết bài:
- Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn 1 và đoạn 2 trong “Bình Ngô đại cáo”, đồng thời nêu cảm nhận cá nhân.
..........
Tải file tài liệu để xem thêm dàn ý chi tiết
Phân tích hai đoạn đầu Bình Ngô Đại Cáo
Bài làm mẫu 1
Vua Lê Thánh Tông từng ca ngợi: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Qua bao thế kỷ, Nguyễn Trãi vẫn được tôn vinh như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một nhà tư tưởng và chính trị kiệt xuất của thế kỷ XV. Các tác phẩm của ông là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước với lập luận sắc bén, giọng văn hùng hồn, đầy sức thuyết phục, luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ tư tưởng này là “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm được viết khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời), và giao cho Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh, mở ra thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước.
“Bình Ngô đại cáo” là một áng văn chính trị xuất sắc, tổng kết cuộc khởi nghĩa Lam Sơn một cách chặt chẽ và súc tích, dựa trên nền tảng tư tưởng yêu nước nồng nàn và nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân và dân tộc. Bài cáo tràn đầy niềm tự hào về chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến, khẳng định khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ qua hai đoạn đầu của tác phẩm:
Ngay từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Trãi đã khẳng định mục đích của cuộc đấu tranh là vì lợi ích của nhân dân:
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyễn Trãi viết từ tận đáy lòng, không chỉ là lời nói suông. Ông coi việc nhân nghĩa, yên dân là mục tiêu cao nhất của đời mình. Trong đạo đức Nho giáo, nhân nghĩa là phẩm chất cần có của mỗi người, thể hiện qua cách đối nhân xử thế. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa được nâng lên tầm cao mới, mở rộng thành tư tưởng lo cho dân, vì dân – với “dân” ở đây bao trùm cả thiên hạ.
Tác giả đưa vào “yên dân” để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật bất biến của mọi thời đại. Dân là nền tảng, là sức mạnh, là sinh khí của quốc gia. Nhân nghĩa còn là “trừ bạo”, bạo ở đây chính là quân Minh, những kẻ tàn ác chuyên hà hiếp nhân dân. Nguyễn Trãi coi “dân” là trụ cột của quốc gia, người chèo thuyền và cũng là người có thể lật thuyền. Tư tưởng này tuy giản dị nhưng mang ý nghĩa sâu sắc.
Trong mọi cuộc kháng chiến, nhân dân luôn đóng vai trò quyết định đến thắng lợi hay thất bại. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì chắc chắn sẽ đánh bại mọi sự tàn bạo của kẻ thù. Quan niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không còn bó hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã trở thành một lý tưởng xã hội. Ông nâng tư tưởng này lên thành chân lý, khẳng định giá trị vĩnh cửu của nó.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nguyễn Trãi không chỉ nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà qua vài câu ngắn gọn, ông đã khẳng định những giá trị cốt lõi nhất. Nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định tinh thần độc lập dân tộc:
Khẳng định chân lý này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm toàn diện về các yếu tố tạo nên một quốc gia độc lập. Nếu như 400 năm trước, trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố là lãnh thổ và chủ quyền, thì trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn yếu tố: văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài.
Để làm nổi bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã song song tồn tại qua nhiều thời đại. “Văn hiến” của nước Nam là thành quả của nhân dân Việt Nam, trải qua bao thăng trầm, mất mát mới có được. Lãnh thổ, núi sông, đồng ruộng, biển cả đều được phân định rõ ràng. Phong tục tập quán và văn hóa của hai miền Bắc, Nam cũng khác biệt.
Nguyễn Trãi nhấn mạnh rằng cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể pha trộn hay xóa bỏ. Các triều đại của hai quốc gia cũng song hành tồn tại, khẳng định chủ quyền độc lập. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc, thể hiện lòng tự hào dân tộc mãnh liệt. Cuối cùng, nhân tài cũng là yếu tố quan trọng khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Dù thời thế có “mạnh, yếu từng lúc khác nhau”, nhưng hào kiệt thì đời nào cũng có. Câu thơ như một lời cảnh báo đối với bất kỳ ai, bất kỳ quốc gia nào có ý định xâm lược Đại Việt. Để tăng tính thuyết phục, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ khẳng định sự hiển nhiên của sự tồn tại Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”.
Nghệ thuật nổi bật nhất của đoạn một – và cũng là toàn bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi sử dụng một cách tài tình. Ông khẳng định nền độc lập và tư tưởng của mình bằng cách nhắc lại những thất bại thảm hại của kẻ thù phương Bắc trong lịch sử:
Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi đã tái hiện những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Cách dẫn chứng rõ ràng, cụ thể với giọng văn hào hùng, thể hiện niềm tự hào và lòng tự tôn dân tộc.
Nội dung được diễn đạt qua những vế câu không cân xứng, nhưng nếu để ý, ta thấy tác giả luôn đặt trọng tâm về phía Đại Việt với những chiến công vang dội như “Hàm Tử”, “Bạch Đằng”. Đồng thời, ông thể hiện sự khinh bỉ đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết lượng sức: “Lưu Cung... tham công”, “Triệu Tiết... thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã – tất cả đều phải chết thảm.
Đoạn thơ một lần nữa khẳng định rằng Đại Việt là một quốc gia độc lập, tự chủ, có nhân tài, tướng giỏi, không thua kém bất kỳ quốc gia nào. Những trang sử hào hùng ấy đã được ghi chép cẩn thận, không thể phủ nhận hay thay đổi. Trong suốt bài cáo, Nguyễn Trãi luôn thể hiện lòng thương dân sâu sắc. Ông đau xót trước những đau thương mà quân Minh gây ra, khi chúng lợi dụng tình hình rối ren để gây họa:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha?
Ai bảo thần dân chịu được
Lợi dụng tình hình chính trị rối ren, giặc Minh cùng bọn Việt gian bán nước đã xâm lược nước ta, xâm phạm chủ quyền dân tộc và gây ra vô số tội ác tày trời: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, “Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Những câu thơ này không phải là sự cường điệu mà là sự thật lịch sử: giặc Minh tàn bạo, chúng tra tấn dân lành bằng những cách man rợ như rút ruột người, nấu xác lấy mỡ thắp đèn, và thậm chí nướng người để mua vui.
Ngoài ra, chúng còn áp đặt chế độ sưu thuế nặng nề để vơ vét của cải (“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”). Lòng tham vô đáy của chúng đã đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng, sản xuất đình trệ (“tan tác cả nghề canh cửi”), cuộc sống bị hủy hoại (“tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”), và đẩy con người vào cảnh lầm than (“nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”).
Tội ác của giặc Minh chất chồng đến mức “trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, khiến trời đất không thể dung tha, thần dân không thể chịu đựng. Nguyễn Trãi đã vạch trần bản chất tàn bạo của kẻ xâm lược bằng những câu văn đầy phẫn nộ và bi thương.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm tràn đầy cảm hứng trữ tình và mang tính hào hùng hiếm có. Đoạn trích này không chỉ khẳng định tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc mà còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chủ quyền lãnh thổ, lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông. Qua đó, tác phẩm bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, và quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
Bài làm mẫu 2
Nguyễn Trãi luôn đề cao nguyên lý chính nghĩa của dân tộc Đại Việt. Ông khẳng định chính nghĩa qua những luận điểm cụ thể và tố cáo tội ác của giặc bằng một bản cáo trạng đầy máu và nước mắt, hùng hồn và sâu sắc.
Từ xưa đến nay, dù là trong đạo Nho hay bất kỳ quốc gia nào, vấn đề chính nghĩa luôn được coi là sợi dây gắn kết tình cảm giữa con người với nhau, trở thành đạo lý bất biến từ thuở khai sinh. Từ nền tảng tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã mở rộng và phát triển thành một hệ thống lý luận chặt chẽ, làm cơ sở để vạch trần tội ác của giặc Minh. Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của chúng ta là chính đáng, thể hiện tư tưởng nhân đạo mà mọi dân tộc đều hướng tới. Chúng ta có nền độc lập tự do là điều đúng đắn, phù hợp với lẽ phải, bởi chúng ta có lãnh thổ riêng, nền văn hiến lâu đời, lịch sử và chế độ riêng, cùng những hào kiệt xuất chúng qua các thời đại. Điều này khẳng định sự trang nghiêm, hào hùng và sắc thái đanh thép của một bản tuyên ngôn độc lập.
Nếu như “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định độc lập dân tộc qua hai yếu tố là lãnh thổ và chủ quyền, thì Nguyễn Trãi đã mở rộng và làm sâu sắc hơn bằng cách dựa vào thực tiễn lịch sử thay vì yếu tố thần linh. Ông ý thức rõ về nền văn hiến, truyền thống lịch sử, và những con người sẵn sàng hy sinh vì nước, vì dân. Đoạn một đóng vai trò quan trọng, là nền tảng để triển khai các luận điểm tiếp theo, khẳng định luận đề chính nghĩa làm nên tư tưởng cốt lõi, tạo chỗ dựa tinh thần cho chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm gian khổ. Nguyễn Trãi luôn đề cao tính nhân dân và tính dân tộc.
Tác giả vạch trần âm mưu và tội ác của kẻ thù, phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Đứng trên lập trường dân tộc và nhân dân, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ sự tàn bạo, man rợ trong chính sách cai trị của giặc Minh. Chúng tàn sát nhân dân, bóc lột kiệt quệ, hủy hoại môi trường sống, đẩy nhân dân vào cảnh cùng cực, đói nghèo, không lối thoát. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, trong khi kẻ thù ngày càng trở nên tàn bạo, vô nhân tính như những con quỷ dữ. Nguyễn Trãi vạch trần luận điệu lừa bịp của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta. Tội ác của chúng đối với nhân dân ta là vô cùng dã man. Đoạn văn thể hiện nỗi lòng đau xót của tác giả trước nỗi khổ của nhân dân, giọng văn khi giận dữ, khi đau thương, đậm chất trữ tình và chính luận. Dựa vào quyền sống của người vô tội để lên án tội ác của giặc, “Bình Ngô đại cáo” mang yếu tố của một bản tuyên ngôn nhân quyền, là bài học lịch sử, là sự phục hưng và nền tảng cho một đất nước tươi sáng.
Đây là bản anh hùng ca tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, gian khổ mà hào hùng, kiên cường của quân và dân Đại Việt. Đây cũng là bản tuyên ngôn độc lập mang giá trị lớn về tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước và khát vọng hòa bình của dân tộc.
Bài làm mẫu 3
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hòa bình lâu dài cho dân tộc.
Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo”. Đây là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại, được viết để báo cáo rộng rãi cho toàn dân. “Bình Ngô đại cáo” được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước ta. Đặc biệt, hai đoạn đầu của bài cáo không chỉ nêu lên luận đề chính nghĩa và chân lý độc lập của dân tộc mà còn vạch trần những tội ác không thể tha thứ của kẻ thù.
Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kỳ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung “Bình Ngô đại cáo” được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.
Có một chi tiết ít được chú ý nhưng mang ý nghĩa sâu sắc: tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là “giặc Ngô” và viết “Bình Ngô đại cáo”? Từ “Ngô” xuất phát từ thời nhà Ngô đời Tam Quốc, khi chúng xâm lược và cai trị nước ta một cách tàn bạo. Từ đó, “Ngô” trở thành cách gọi quen thuộc trong dân gian để chỉ quân giặc phương Bắc, thể hiện thái độ khinh bỉ. Nguyễn Trãi đã cố ý sử dụng cách gọi này để bày tỏ sự căm phẫn và coi thường đối với kẻ thù.
Đoạn 1: Đạo lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lý nhân nghĩa, được xây dựng trên nền tảng tư tưởng thân dân mà ông luôn đề cao:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người, được xây dựng trên tình thương yêu và đạo lý. Điều đáng chú ý là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới, rút ra từ thực tiễn lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để nhân dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập và hòa bình.
Trong bài văn này cũng như các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, “dân” không chỉ là khái niệm chung chung mà được cụ thể hóa thành những người nông dân, kẻ đi cày, người đi ở, những người dân lao động khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đồng nghĩa với giày xéo nhân dân. Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.
Nhân nghĩa không còn bó hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã trở thành một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản). Vì thế, phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên. Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy, Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa giả tạo của kẻ thù và khẳng định rõ ràng ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lý nhân nghĩa, và sự tồn tại độc lập của quốc gia Đại Việt là một chân lý khách quan. Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định điều này bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào về một đất nước có nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng, từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác biệt hoàn toàn. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến ngàn năm cùng với những hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự do.
So với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi thực sự là một bước tiến dài trong việc hoàn thiện khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lý Thường Kiệt nhấn mạnh chủ quyền dân tộc qua lãnh thổ riêng biệt và ý chí độc lập, nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên một tầm mới. Các vua Nam xưng đế ngang hàng với các đời vua Trung Quốc, hoàn toàn bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nhấn mạnh truyền thống văn hiến, khẳng định sự độc lập của dân tộc không chỉ qua lãnh thổ mà còn qua nền văn hóa và con người.
Nguyễn Trãi đã chứng minh đạo lý nhân nghĩa bằng những chứng cứ lịch sử cụ thể, khẳng định chủ quyền độc lập của Đại Việt là một chân lý không thể chối cãi. Ông đã dùng những chiến công oanh liệt của dân tộc để minh chứng cho sự tồn tại vững chắc của quốc gia Đại Việt.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh rằng những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn thuộc về những người đấu tranh vì chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này vừa hùng hồn vừa sắc sảo.
Đoạn 2: Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh. Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ nên bức tranh thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Đất nước chỗ nào cũng rướm máu, vang lên tiếng thét căm giận và oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép, kết tội bọn bán nước và quân cướp nước. Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc, và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán giận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh, đồng thời phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa “phù Trần diệt Hồ” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa. Những từ như “nhân” (nhân dịp), “thừa cơ” đã góp phần phơi bày bộ mặt giả tạo của chúng. Điều đáng chú ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo tội ác của giặc, ông lại đứng trên lập trường nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ông đã tố cáo tội ác của chúng qua hai hình ảnh đầy ấn tượng: “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”, vừa cụ thể hóa sự tàn bạo man rợ của giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân Việt nguyền rủa quân xâm lược.
Trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi không chỉ tố cáo chủ trương đồng hóa thâm độc mà còn vạch trần những chính sách cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét của cải quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của qua thuế má, phu phen, và hủy hoại môi trường sống. Người dân nước Nam sống trong cảnh bi đát, cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, như lời bài cáo đã miêu tả:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Câu văn đã khắc họa bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược. Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân, Nguyễn Trãi kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã dùng cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với tội ác vô hạn của giặc, và dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói về sự dơ bẩn không thể rửa sạch của kẻ thù. Câu văn đầy hình tượng này giúp người đọc cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh. Dân tộc ta chỉ còn một con đường duy nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn hét thật to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. “Bình Ngô đại cáo” chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền và ý chí quật cường của dân tộc.
Phân tích hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
Bài làm mẫu 1
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được mệnh danh là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc, áng văn chính luận mẫu mực và là thiên cổ hùng văn còn vang mãi nghìn đời. Được viết vào năm 1428, tác phẩm bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường và chủ quyền của đất nước. Mỗi phần của tác phẩm đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt phần đầu đã thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào dân tộc và sự tàn bạo của quân Minh khi giày xéo lên đất nước ta.
Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo “Bình Ngô đại cáo” để công bố chiến thắng chống quân Minh xâm lược. Từ những ngày đầu khởi nghĩa gian khổ nơi rừng núi hiểm trở đến những chiến công rực rỡ, cuộc kháng chiến là một chặng đường đầy gian nan nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc.
Ngay từ nhan đề “Bình Ngô đại cáo” đã gợi lên nhiều suy ngẫm. “Bình Ngô” nghĩa là dẹp yên giặc Minh xâm lược. Gọi giặc Minh là “Ngô” vì Nguyễn Trãi muốn nhắc đến nguồn gốc của Chu Nguyên Chương – người sáng lập nhà Minh. Trong suốt chiều dài lịch sử, giặc phương Bắc nhiều lần xâm lược nhưng đều thất bại, minh chứng cho tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt.
“Đại cáo” thể hiện quy mô rộng lớn và tính chất trọng đại của bài cáo. “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn, mang tính toàn dân, thông báo chiến thắng chống quân Minh và khẳng định nền độc lập của dân tộc. Phần một và phần hai là nền tảng cho cuộc kháng chiến, bao gồm tư tưởng nhân nghĩa và bản cáo trạng tội ác của giặc.
Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông thừa nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người, được xây dựng trên tình thương và đạo đức. Trong quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa là cách đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ để phục vụ mục đích quản lý xã hội.
Tuy nhiên, trong “Bình Ngô đại cáo”, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành mục đích của cuộc kháng chiến. Trong hoàn cảnh thực tiễn, nhân nghĩa được cụ thể hóa thành “yên dân”, tức là đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn vậy, phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt là quân Minh xâm lược. Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã chuyển hóa vào thực tiễn đất nước, biến nó thành lý tưởng cao đẹp mà ông theo đuổi suốt đời.
Khi phân tích đoạn 1 bài “Bình Ngô đại cáo”, ta thấy sau khi nêu cơ sở chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ lịch sử vững chắc, kết hợp với giọng văn hào hùng, đầy tự tin:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
………….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nguyễn Trãi đã nêu ra các phương diện để khẳng định chủ quyền: văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, và nhân tài. Những yếu tố này đều được hình thành và phát triển qua chiều dài lịch sử, mang dấu ấn riêng của dân tộc. Dù lịch sử nước ta không dài bằng Trung Hoa, nhưng chúng ta đã để lại những dấu ấn và tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Việc liệt kê các triều đại Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã thể hiện rõ sự ngang hàng. Ta không hề thua kém Trung Hoa. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, phong tục tập quán độc đáo, và tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế thể hiện ý chí tự tôn dân tộc, khẳng định rằng ta và Trung Hoa là hai quốc gia độc lập, bình đẳng. Do đó, không có lý do gì để Trung Hoa xâm lược nước ta.
Nhân tài là yếu tố quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một quốc gia. Trong suốt chiều dài lịch sử, đã có biết bao anh hùng làm rạng danh non sông, cùng với vô số người vô danh đã hy sinh để bảo vệ độc lập. Giọng thơ hào hùng, lập luận chặt chẽ và thuyết phục từ những chứng cứ lịch sử không thể chối cãi đã thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Sau khi khẳng định tiền đề chính nghĩa và chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra những chứng cứ lịch sử về sự thất bại nhục nhã của giặc khi xâm lược nước ta.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Nguyễn Trãi đã lần lượt nêu ra những tên tướng giặc bại trận trong các cuộc chiến phi nghĩa xâm lược Đại Việt. Đó là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã. Chúng thất bại vì đây là cuộc chiến phi nghĩa, không nhằm bảo vệ nhân dân mà chỉ để thỏa mãn khát vọng bành trướng quyền lực của kẻ cầm đầu, gieo rắc tai họa cho bao người dân vô tội.
Ngay từ mục đích xâm lược đã phi nghĩa, nên chắc chắn cuộc xâm lược này sẽ “thất bại”, “tiêu vong”. Nguyễn Trãi cũng nhắc đến những địa danh lịch sử gắn liền với chiến công vĩ đại của dân tộc, như cửa sông Bạch Đằng, nơi đã tiêu diệt hàng vạn quân Nam Hán, chấm dứt một ngàn năm đô hộ của ngoại xâm phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập cho đất nước. Cửa Hàm Tử cũng được nhắc đến, gắn liền với chiến công của quân dân nhà Trần, từng được Trần Quang Khải ca ngợi:
“Chương Dương cướp giáo giặc.
Hàm Tử bắt quân thù”
Dù không trực tiếp nhắc đến chiến thắng của quân ta, nhưng qua cách diễn đạt, ta vẫn thấy hiện lên vẻ đẹp oai hùng của những chiến công lịch sử vang dội. Đây là minh chứng rõ nét nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải thuộc về nghĩa quân, thuộc về dân tộc Đại Việt, nên chiến thắng chắc chắn sẽ thuộc về ta.
Sau khi nêu ra tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã vạch trần bộ mặt xâm lược của giặc Minh:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.
Trong tình cảnh đất nước rối ren, nhân dân bất mãn dưới chế độ nhà Hồ của Hồ Quý Ly, giặc Minh đã lợi dụng cơ hội, núp dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để xâm lược nước ta. Thực chất, chúng không hề có ý tốt mà chỉ lấy đó làm cớ để thực hiện âm mưu bành trướng. Điều này được thể hiện rõ qua các từ “nhân”, “thừa cơ gây họa”, cho thấy thái độ căm phẫn của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù.
Chúng xâm lược nước ta chỉ để thỏa mãn khát vọng bá chủ, mở rộng quyền lực, chứ không vì mục đích chính nghĩa nào. Không chỉ vạch trần bộ mặt thật của giặc, Nguyễn Trãi còn thể hiện thái độ đối với những kẻ gian thần, vì tham vinh hoa phú quý mà đẩy đất nước vào cảnh lầm than.
Không chỉ vạch trần bộ mặt giặc, tác giả còn tố cáo những tội ác tày trời của chúng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
………..
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Tội ác của giặc Minh không thể kể xiết. Chúng tàn sát dã man người dân vô tội, cướp đi mạng sống và hạnh phúc của bao gia đình. Hình ảnh “con đỏ”, “dân đen” ám chỉ những người dân Đại Việt nghèo khổ, chỉ mong có cuộc sống bình yên nhưng ngay cả ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng bị chà đạp.
Quân Minh không chỉ phá hủy cuộc sống của nhân dân mà còn đặt ra những thứ thuế vô lý, bóc lột đến tận xương tủy. Lòng tham vô đáy của chúng còn thể hiện qua việc khai thác cạn kiệt tài nguyên, bất chấp sinh mạng con người. Chúng tàn phá môi trường sống, vơ vét sản vật từ chim trả đến hươu đen, thậm chí cả “côn trùng cây cỏ” cũng không tha.
Quân Minh còn phá hoại nền sản xuất, khiến “nghề canh cửi” tan tác. Chúng biến nhân dân thành nô lệ, bóc lột sức lao động đến kiệt quệ. Tội ác của chúng không chỉ hủy hoại cuộc sống mà còn khiến đất trời phẫn nộ. Hình ảnh kẻ thù hiện lên man rợ: “thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Tội ác ấy khiến trời đất không thể dung tha:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?…”
Những tội ác ấy chất chồng, những lời ai oán không thể giãi bày. Nhân dân rơi vào cảnh khốn cùng, kêu trời không thấu, kêu đất không nghe. Đây là hình ảnh phóng đại mang tính biểu tượng cao. Tội ác ấy không thể ghi chép hết, không thể rửa sạch được. Không ai có thể bù đắp những tổn thương về vật chất, tinh thần và sinh mạng cho người dân Đại Việt. Đất trời cũng ngùn ngụt căm phẫn trước tội ác của quân giặc.
Bằng những lập luận sắc bén và cách dẫn dắt chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã nêu bật tiền đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến. Chúng ta chiến đấu để bảo vệ đất nước, vì mục đích nhân nghĩa – bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân, vì độc lập dân tộc – bảo vệ cơ đồ ngàn năm của tổ tiên, và cuối cùng, vì không thể làm ngơ trước cảnh đất nước lầm than. Những hình ảnh mạnh mẽ, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật, đã tạo nên giọng điệu đanh thép, hào hùng cho bài cáo.
Với hai đoạn thơ ngắn gọn nhưng súc tích, cùng ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trãi, tác phẩm đã làm nổi bật tư tưởng chính nghĩa. Khi cảm nhận đoạn 1 và 2 của “Bình Ngô đại cáo”, ta thấy tác phẩm không chỉ tố cáo mạnh mẽ tội ác man rợ của kẻ thù mà còn thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt của tác giả.
Bài làm mẫu 2
Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lý cho toàn bài.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lý lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ: quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời. Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, khẳng định lịch sử lâu đời của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ. Đặc biệt, nghệ thuật so sánh càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không thể có một sự so sánh như vậy.
Đoạn 2 là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh đã thừa cơ vào cướp nước ta:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
…….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát, giết hại nhân dân, kể cả các em nhỏ cũng không tha: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”. Chúng còn bóc lột dân ta bằng thuế khóa nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm chí tính mạng không được đảm bảo:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Còn dã man, tàn bạo đến mức:
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Hậu quả bọn chúng để lại thật tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân khổ cực.
Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, kết hợp với những câu văn giàu hình ảnh và giọng điệu linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Khi thì căm phẫn, tức giận trước sự tàn bạo của kẻ thù, khi thì xót xa, đau đớn cho số phận nhân dân ta.
Phần đầu bản cáo trạng mở ra với hình ảnh đầy ám ảnh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, và kết thúc bằng một hình ảnh mang tính tổng kết sâu sắc: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội - Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
.........
Tải file tài liệu để xem thêm Phân tích 2 đoạn thơ đầu bài Bình Ngô Đại Cáo
- Soạn bài Giới thiệu một cuốn sách Cánh diều - Ngữ văn lớp 8, trang 119, sách Cánh diều tập 2 - Hướng dẫn chi tiết và đầy đủ
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 90 - Ngữ văn lớp 8 tập 2 sách Cánh Diều
- Bộ đề ôn thi học kì 2 môn Tiếng Việt lớp 4 năm 2023 - 2024 sách Cánh diều (Kèm ma trận và đáp án chi tiết)
- Soạn bài Thực hành đọc: Khám phá Ca nhạc Miệt Vườn - Ngữ văn lớp 11, trang 89, sách Kết nối tri thức tập 2
- Soạn bài Vẻ đẹp bài thơ “Cảnh khuya” - Ngữ văn 8 Cánh diều (Trang 82, Tập 2)