Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo - Dàn ý chi tiết và 13 bài văn mẫu đặc sắc kèm sơ đồ tư duy
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi bao gồm 13 bài văn mẫu xuất sắc, kèm theo hướng dẫn viết chi tiết. Những bài văn mẫu này không chỉ bám sát chương trình học mà còn giúp học sinh nâng cao kỹ năng cảm thụ văn học, từ đó viết lách sáng tạo và sâu sắc hơn.

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo dưới đây là nguồn tài liệu quý giá, hỗ trợ học sinh trong quá trình tự học và nâng cao khả năng cảm thụ văn học. Hãy đọc kỹ từng bài phân tích, suy ngẫm và tham khảo một cách chủ động, tránh sao chép máy móc. Để hiểu sâu hơn về tác phẩm, bạn có thể tham khảo thêm phần phân tích đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo: Khám phá bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh
- Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
- Sơ đồ tư duy đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô ngắn gọn
- Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn
- Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 đầy đủ
Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm và đoạn cần phân tích
- Nêu bối cảnh lịch sử hình thành tác phẩm
2. Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Đoạn đầu tiên khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, làm nền tảng để xác lập chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tưởng này bắt nguồn từ thực tiễn đất nước, được Nguyễn Trãi khái quát thành chân lý: nhân nghĩa là chống lại quân xâm lược, vạch trần luận điệu gian trá của chúng. Đoạn hai là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh:
- Tàn sát dã man người dân vô tội
- Bóc lột tàn bạo qua thuế má, phu phen
- Hủy hoại môi trường sống
⇒ Tội ác của chúng chất cao như núi, không thể dung thứ
Tư tưởng nhân nghĩa càng được khẳng định khi đối mặt với tội ác của kẻ thù. Bởi lẽ:
- Chủ quyền dân tộc ta là thiên nhiên, vốn có từ ngàn đời
- Khẳng định nền văn hiến lâu đời với phong tục, lịch sử, hào kiệt riêng
- Nền văn hiến hàng ngàn năm là cơ sở vững chắc cho chủ quyền dân tộc
Nguyễn Trãi vạch trần luận điệu xảo trá của giặc Minh, chỉ rõ âm mưu cướp nước dưới chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ”.
Tội ác của chúng đối với nhân dân ta là vô cùng tàn bạo và dã man.
Trước nỗi đau của nhân dân, tác giả thể hiện sự xót xa, căm phẫn tột độ trước tội ác của kẻ thù.
Nghệ thuật so sánh: Tội ác giặc cao như núi Nam Sơn, dơ bẩn như nước Đông Hải. Dùng cái vô hạn để diễn tả cái vô hạn, tội ác của chúng không thể nào kể xiết.
3. Kết bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Khái quát ý nghĩa tác phẩm và cảm nhận cá nhân
- Khẳng định tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và tài năng của Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù, khẳng định chủ quyền dân tộc
Sơ đồ tư duy đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo: Khám phá bản cáo trạng đanh thép

Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô ngắn gọn
"Bình Ngô Đại Cáo" là kiệt tác của Nguyễn Trãi, được soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay mặt Lê Lợi tuyên bố chiến thắng quân Minh. Tác phẩm không chỉ khẳng định chủ quyền Đại Việt mà còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của kẻ thù. Cùng phân tích đoạn 2 để hiểu rõ hơn!
Đoạn một, Nguyễn Trãi tự hào về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, khẳng định chủ quyền văn hóa và lãnh thổ. Sang đoạn hai, tác giả vạch rõ nguyên nhân cuộc chiến giữa Đại Việt và nhà Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Chỉ qua 5 câu thơ, Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh xã hội hỗn loạn: lãnh đạo yếu kém, nhân dân oán hận, giặc Minh nhân cơ hội gây loạn. Lập luận sắc bén của ông cho thấy sự thất bại của chính quyền và âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Tác phẩm tố cáo âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn bán nước cầu vinh.
Đại Việt lâm nguy, nhân dân chịu cảnh lầm than. Quân Minh thi hành chính sách tàn bạo, gây ra bao tội ác trong suốt hai mươi năm.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Nguyễn Trãi khẳng định tội ác của giặc Minh là "Bại nhân nghĩa nát cả đất trời". Đoạn thơ vừa thể hiện nỗi đau của tác giả, vừa là lời lên án kẻ thù. Chúng không chỉ cướp bóc mà còn tàn phá môi trường, giết hại người vô tội. Bằng cách liệt kê tội ác, tác giả bày tỏ sự căm phẫn, khơi dậy tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Phân tích đoạn 2, ta thấy rõ tài năng nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Ông dùng phép nhân hóa để vạch trần tội ác của giặc, khiến người đọc cảm nhận sâu sắc sự tàn bạo của chúng.
Phân tích đoạn 2, người đọc như chứng kiến cảnh tang tóc của dân tộc. Đó không chỉ là hình ảnh trong văn chương mà là sự thật lịch sử đau lòng.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự tàn ác của giặc khiến cả thiên nhiên căm phẫn. Nguyễn Trãi dùng phép đối xứng và hình ảnh thiên nhiên để nhấn mạnh tội ác không thể dung thứ của kẻ thù. Ông khẳng định mọi sinh vật đều có quyền sống, và xâm phạm quyền đó là tội lỗi.
Phân tích đoạn 2, người đọc như xem một bộ phim lịch sử đẫm máu và nước mắt. Tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác mà còn khơi dậy niềm tự hào về tinh thần bất khuất của dân tộc. Nguyễn Trãi đã thành công trong việc lên án kẻ thù và khẳng định chủ quyền Đại Việt.
Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2
Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử vĩ đại, luôn sống vì dân, vì nước. Ông không chỉ là một nhà văn chính luận kiệt xuất mà còn là người có lòng nhân hậu, đau đáu thương dân. Trong Bình Ngô Đại Cáo, ông đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Minh và kể lại những tội ác tày trời mà chúng gây ra cho dân tộc ta. Tác phẩm này trở thành áng văn bất hủ, khẳng định sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông đất nước.
Nguyễn Trãi đã khắc tên mình vào lịch sử dân tộc. Ông là người đã dùng ngòi bút để tố cáo tội ác của kẻ thù và khơi dậy tinh thần yêu nước. Sự trường tồn của tên tuổi ông cùng với Bình Ngô Đại Cáo là minh chứng hùng hồn cho giá trị vĩnh hằng của văn chương và lòng yêu nước.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Nhà Minh lợi dụng việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để đưa quân xâm lược nước ta. Với lực lượng hùng hậu, chúng chia làm hai cánh tiến vào theo đường sông Hồng. Trong suốt hai mươi năm đô hộ, chúng thi hành nhiều chính sách tàn bạo, gây ra bao đau thương cho nhân dân.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Giặc Minh dùng chiêu bài "phù Trần diệt Hồ" để che đậy âm mưu xâm lược. Chúng lừa gạt nhân dân, bán rẻ lương tâm để mưu cầu lợi ích cá nhân. Những kẻ bán nước cầu vinh đã mở đường cho giặc vào tàn sát đồng bào mình, gây nên cảnh tang thương khôn xiết.
Từ khi giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có ngày nào được sống yên ổn. Chúng tàn sát dã man, dùng mọi thủ đoạn để đàn áp những người kháng cự. Những hành động như "nướng dân đen", "vùi con đỏ" cho thấy sự tàn bạo không thể dung thứ của chúng. Chúng còn bóc lột nhân dân, biến họ thành nô lệ, bắt họ khai thác tài nguyên để phục vụ cho mình.
Tội ác của giặc Minh không thể kể xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Nguyễn Trãi dùng hình ảnh trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để diễn tả tội ác chất chồng của giặc. Hậu quả chúng để lại là cảnh tang thương: mẹ mất con, vợ mất chồng, nhân dân lầm than, muôn loài bị hủy diệt.
Để tố cáo tội ác của giặc, Nguyễn Trãi sử dụng phương pháp liệt kê kết hợp với hình ảnh sinh động. Giọng văn lúc căm phẫn, lúc đau xót, thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân. Hai câu kết án đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể tha thứ. Nguyễn Trãi tin rằng trời đất có mắt, kẻ ác sẽ bị trừng phạt. Câu hỏi cuối là lời cảnh báo đầy căm phẫn dành cho quân thù.
Trong khi nhân dân ta chịu cảnh lầm than, giặc Minh lại sống trong cảnh no nê, phè phỡn. Chúng bóc lột sức lao động của nhân dân, bắt họ xây nhà, đắp đất, còn mình thì nghênh ngang đánh đập, sai bảo. Tội ác của chúng được Nguyễn Trãi so sánh với những thứ vô cùng của thiên nhiên: trúc Nam Sơn không đủ để ghi tội, nước Đông Hải không đủ để rửa sạch mùi dơ bẩn. Nguyễn Trãi kết án chúng bằng giọng văn đầy đau đớn và căm phẫn, tin rằng trời đất sẽ không dung tha cho những kẻ tàn ác.
Với giọng văn đầy đau xót và bi thương, Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Minh mà còn phản ánh sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Ông thể hiện tư tưởng nhân nghĩa khi đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của kẻ thù và bày tỏ sự xót thương sâu sắc trước cảnh quyền sống của người dân bị chà đạp. Phần hai của tác phẩm như một bản cáo trạng đanh thép, vừa buộc tội kẻ phạm tội, vừa là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
"Bình Ngô Đại Cáo" là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi, được soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Lê Lợi tuyên bố chiến thắng giặc Minh. Bài cáo không chỉ khẳng định chủ quyền Đại Việt mà còn là bản cáo trạng đanh thép lên án tội ác của bọn bán nước và cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 để hiểu rõ hơn!
Đoạn đầu, Nguyễn Trãi tự hào về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, khẳng định chủ quyền văn hóa và lãnh thổ. Sang đoạn hai, tác giả vạch rõ nguyên nhân cuộc chiến giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Chỉ qua 5 câu thơ, Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh xã hội hỗn loạn: lãnh đạo yếu kém, nhân dân oán hận, giặc Minh nhân cơ hội gây loạn. Lập luận sắc bén của ông cho thấy sự thất bại của chính quyền và âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Đoạn thơ này tố cáo âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn bán nước cầu vinh.
Đại Việt lâm nguy, nhân dân chịu cảnh lầm than. Quân Minh thi hành chính sách tàn bạo, gây ra bao tội ác trong suốt hai mươi năm.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…………………
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Nguyễn Trãi khẳng định tội ác của giặc Minh là "Bại nhân nghĩa nát cả đất trời". Đoạn thơ vừa thể hiện nỗi đau của tác giả, vừa là lời lên án kẻ thù. Chúng không chỉ cướp bóc mà còn tàn phá môi trường, giết hại người vô tội. Bằng cách liệt kê tội ác, tác giả bày tỏ sự căm phẫn, khơi dậy tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Phân tích đoạn 2, ta thấy rõ tài năng nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Ông dùng phép nhân hóa để vạch trần tội ác của giặc, khiến người đọc cảm nhận sâu sắc sự tàn bạo của chúng.
Phân tích đoạn 2, người đọc như chứng kiến cảnh tang tóc của dân tộc. Đó không chỉ là hình ảnh trong văn chương mà là sự thật lịch sử đau lòng.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự tàn ác của giặc khiến cả thiên nhiên căm phẫn. Nguyễn Trãi dùng hình ảnh trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để diễn tả tội ác chất chồng của giặc. Ông khẳng định mọi sinh vật đều có quyền sống, và xâm phạm quyền đó là tội lỗi.
Phân tích đoạn 2, người đọc như xem một bộ phim lịch sử đẫm máu và nước mắt. Tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác mà còn khơi dậy niềm tự hào về tinh thần bất khuất của dân tộc. Nguyễn Trãi đã thành công trong việc lên án kẻ thù và khẳng định chủ quyền Đại Việt.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác.” (Thạch Lam). Đúng vậy, văn chương chính là công cụ đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội giả dối và lên án những thế lực bạo tàn. Với tư cách ấy, đoạn thứ hai của áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô Đại Cáo” đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược, tội ác mà hàng năm sau cũng không thể rửa sạch.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi luôn sắc sảo, mạch lạc, với lập luận logic chặt chẽ. Ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận của ông vẫn đanh thép và rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu, người đọc đã thấy rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, đồng thời vạch trần bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của chúng. Chúng sử dụng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình, nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe mình để đô hộ nước ta. Những chính sách của chúng đều thấm đẫm sự dối trá, lừa lọc:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh và đanh thép của Nguyễn Trãi, ta nhận ra bộ mặt bất nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng. Đáng tiếc thay, công lý không bao giờ đứng về phía những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung, đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn cả là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ, đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân hiện lên chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân hiền lành, quanh năm lo làm ăn, một lòng gắn bó với ruộng vườn, đâu ngờ lại bị chúng giày xéo dưới gót giày nhơ nhuốc. Hình ảnh nhân hóa và thủ pháp đặc tả của Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược. Chúng coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng chà đạp, giết hại không chút thương xót. Tội ác của chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung, đất không tha. Chưa dừng lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách bức ép, bóc lột, đe dọa người dân phải săn lùng sản vật để cống nộp, bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được sử dụng đắc dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh thêm tội ác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được sự sục sôi, căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình của chúng không chỉ khiến dân chúng lầm than, oán than mà còn khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, muốn gào thét để diệt sạch lũ cuồng quân này, thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ với vế đối cân xứng đã phần nào cho thấy tội ác khó lòng dung tha của quân xâm lược, đầy bất mãn và ác độc. Đồng thời, nó gợi lên một thời kỳ lịch sử đầy đau thương của dân tộc, khi những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó bị cuốn vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng câu chữ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc và lột trần bản chất bất nhân, bất nghĩa, thú tính ác độc của quân xâm lược.
Cảm nhận đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của Việt Nam, với nhiều công lao và sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước trong ông như ngọn lửa luôn rực cháy, được thổi bùng lên từ những năm tháng nước mất nhà tan, tôi luyện nên một Nguyễn Trãi với trái tim nồng nàn yêu nước. Không chỉ là nhà chính trị, quân sự tài ba, ông còn là một nhà văn lỗi lạc với những tác phẩm để đời.
Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Trãi đều thấm đẫm tình yêu nước, lí tưởng cao cả và đặc biệt là sự tố cáo tội ác của kẻ thù. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn 2 của “Bình Ngô Đại Cáo”, nơi ông lên án những tội ác mà quân Minh xâm lược đã gây ra cho dân tộc ta. Tác phẩm được viết sau chiến thắng quân Minh, khẳng định tình yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh đã lợi dụng tình thế loạn lạc khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Chúng không chỉ dừng lại ở việc chiếm đóng mà còn thực hiện chính sách đồng hóa, hủy diệt văn hóa và lịch sử của dân tộc ta. Ngay cả trẻ em cũng không được tha, cho thấy sự tàn độc và hung bạo của chúng.
Nhưng quân dân ta chưa bao giờ khuất phục. Dù mệt mỏi, dù gục ngã, chúng ta vẫn đứng lên chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn cai trị, muốn thay đổi chính sách và bắt dân ta phục tùng. Càng về sau, sự tàn ác của chúng càng lộ rõ qua việc bóc lột sức người, tàn phá thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân vô tội, thấp cổ bé họng, luôn phải chịu sự áp bức nặng nề từ quân giặc. Càng yếu thế, họ càng bị đàn áp dã man. Tội ác của quân Minh đến mức trời đất cũng không thể dung tha. Hai câu thơ như một lời cáo trạng đanh thép về tội lỗi của kẻ thù.
Nguyễn Trãi đã sử dụng hình ảnh “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” để nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả. “Trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” được dùng để khẳng định tội ác của chúng không thể kể xiết. Chúng không biết yêu thương, hủy hoại cả con người lẫn thiên nhiên. Sự tham lam, ích kỷ của chúng đã khiến bao gia đình tan nát.
Chúng khiến đất nước ta chìm trong loạn lạc, không một phút bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp liệt kê cùng những hình ảnh sinh động để tố cáo tội ác tày trời của quân Minh.
Hai câu kết của đoạn trích là lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của quân Minh không thể đếm xuể, chúng đã đẩy đất nước ta vào cảnh nước mất nhà tan. Với giọng văn đanh thép, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự uất hận không chỉ của bản thân mà còn của toàn dân tộc dành cho quân thù.
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi đã khắc họa sâu sắc tình yêu nước và tinh thần bất khuất của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốc liệt nhất, nhân dân ta vẫn kiên cường, đoàn kết một lòng để đánh bại kẻ thù, mang lại vinh quang cho đất nước.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo: Tóm tắt ngắn gọn và súc tích
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi đã khắc tên mình vào lịch sử dân tộc. Sự trường tồn của ông cùng non sông đất nước là minh chứng hùng hồn cho giá trị vĩnh hằng. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại, thì Bình Ngô Đại Cáo chính là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lợi dụng việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, quân Minh đã huy động hai mươi vạn bộ binh xâm lược nước ta. Chúng chia làm hai cánh tiến vào theo đường sông Hồng. Trong suốt hai mươi năm đô hộ, chúng thi hành nhiều chính sách tàn bạo, gây ra bao đau thương cho nhân dân.
Nhưng với tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước, chúng ta đã không để quân Minh xâm chiếm thành công. Lịch sử đã ghi lại tội ác của chúng, và Bình Ngô Đại Cáo một lần nữa tố cáo những hành động tàn bạo đó.
Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác của chúng là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể lại những hành động dã man. Chúng không chỉ vơ vét tài sản, bóc lột sức người mà còn hủy hoại môi trường sống, tàn phá cả côn trùng và cây cỏ. Hơn thế, chúng còn thẳng tay tàn sát người dân vô tội:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Hình ảnh này vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của quân giặc. “Dân đen” là những kiếp người nhỏ bé, tận cùng dưới đáy xã hội, trở thành nạn nhân của tội ác mà quân thù gieo rắc lên đất nước ta. Hai câu thơ được viết nên từ máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.
Tội ác của giặc Minh không thể kể xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Nguyễn Trãi dùng hình ảnh trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để diễn tả tội ác chất chồng của quân giặc. Hậu quả chúng để lại là cảnh tang thương: mẹ mất con, vợ mất chồng, nhân dân lầm than, muôn loài bị hủy diệt.
Để tố cáo tội ác của giặc, Nguyễn Trãi sử dụng phương pháp liệt kê kết hợp với hình ảnh sinh động. Giọng văn lúc căm phẫn, lúc đau xót, thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân. Hai câu kết án đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể tha thứ. Nguyễn Trãi tin rằng trời đất có mắt, kẻ ác sẽ bị trừng phạt. Câu hỏi cuối là lời cảnh báo đầy căm phẫn dành cho quân thù.
Tóm lại, đoạn thơ này là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh trong hai mươi năm đô hộ đất nước ta.
Để tăng tính thuyết phục và đạt được sự cô đọng, hàm súc trong ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi đã khéo léo kết hợp giữa hình ảnh khái quát và hình ảnh cụ thể, sinh động, tạo nên sự hài hòa và sâu sắc.
Với tài năng và tâm huyết của mình, Nguyễn Trãi đã khiến tác phẩm trở thành niềm tự hào, xứng đáng được người đời sau trân trọng và tôn vinh.
Bài làm mẫu 2
Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, Bình Ngô Đại Cáo là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau Nam quốc sơn hà. Tác phẩm này không chỉ thể hiện tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi mà còn bộc lộ tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, cùng lòng căm thù quân giặc mãnh liệt. Dựa trên chân lý chủ quyền dân tộc và tư tưởng nhân nghĩa "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", tác phẩm đã mang đến những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo thành bốn phần, trong đó phần phản ánh tội ác của giặc Minh trong thời kỳ đô hộ là phần quan trọng, giúp người đọc thấm thía hơn nỗi đau mất nước.
Giặc Minh, với âm mưu xâm lược lâu đời, đã dùng chiêu bài "phù Trần diệt Hồ" để lừa gạt nhân dân ta, tạo cớ đưa quân sang xâm chiếm. Chúng bán rẻ lương tâm, mở đường cho quân thù tàn sát đồng bào mình. Sự bất nhân, bất nghĩa của chúng khiến lòng dân oán hận ngập trời.
Từ khi giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có ngày nào được sống yên ổn. Chúng tàn sát dã man, dùng mọi thủ đoạn để đàn áp những người kháng cự. Những hành động như "nướng dân đen", "vùi con đỏ" cho thấy sự tàn bạo không thể dung thứ của chúng. Chúng còn bóc lột nhân dân, biến họ thành nô lệ, bắt họ khai thác tài nguyên để phục vụ cho mình.
"Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."
Những thứ quý hiếm không dễ tìm, người xuống biển sâu chết không thấy xác, kẻ lên rừng thì hùm beo rình rập. Chúng còn bắt nhân dân ta tìm kiếm những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy, có khi chẳng bắt được gì mà còn gặp nguy hiểm. Hậu quả là môi trường bị hủy hoại, chim muông cây cỏ không còn chỗ nương thân, gia đình tan nát, làng quê yên bình không còn.
Trong khi nhân dân ta chịu cảnh lầm than, giặc Minh lại sống trong cảnh no nê, phè phỡn. Chúng bóc lột sức lao động của nhân dân, bắt họ xây nhà, đắp đất, còn mình thì nghênh ngang đánh đập, sai bảo. Tội ác của chúng được Nguyễn Trãi so sánh với những thứ vô cùng của thiên nhiên: trúc Nam Sơn không đủ để ghi tội, nước Đông Hải không đủ để rửa sạch mùi dơ bẩn. Nguyễn Trãi kết án chúng bằng giọng văn đầy đau đớn và căm phẫn, tin rằng trời đất sẽ không dung tha cho những kẻ tàn ác.
Với giọng văn đầy đau xót và bi thương, Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Minh mà còn phản ánh sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Ông thể hiện tư tưởng nhân nghĩa khi đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của kẻ thù và bày tỏ sự xót thương sâu sắc trước cảnh quyền sống của người dân bị chà đạp. Phần hai của tác phẩm như một bản cáo trạng đanh thép, vừa buộc tội kẻ phạm tội, vừa là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Bài làm mẫu 3
Nguyễn Trãi, một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công nhận, là nhà quân sự lỗi lạc và nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Sinh ra trong bối cảnh đất nước loạn lạc, ông đã thổi bùng lên tinh thần yêu nước vốn thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện qua vai trò mưu sĩ trong khởi nghĩa Lam Sơn mà còn qua ngòi bút sắc bén, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm. Đặc biệt, “Đại cáo bình Ngô” được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, vừa khẳng định tư tưởng tự chủ, vừa là bản cáo trạng tố cáo tội ác của giặc Minh:
“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn hai của tác phẩm với lý luận sắc bén, chứng cứ xác thực, đã vạch trần mưu mô và sự tàn bạo của quân xâm lược.
Nguyễn Trãi sử dụng biện pháp phóng đại để chỉ rõ sự bại hoại nhân nghĩa của giặc Minh. Hình ảnh “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “nước Đông Hải không rửa sạch mùi” cho thấy tội ác của chúng chất chồng không kể xiết. Chúng không chỉ tàn bạo mà còn thực hiện những chính sách nhơ bẩn, đê hèn nhằm đồng hóa dân tộc ta. Nguyễn Trãi đã dành một phần lớn tác phẩm để luận tội lũ giặc tàn ác và xảo quyệt.
Chính sử Việt Nam ghi lại rõ ràng những chính sách thâm độc của giặc Minh trong gần hai mươi năm đô hộ. Những luận cứ trong “Đại cáo bình Ngô” đều dựa trên thực tế, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ. Tác phẩm tố cáo tội ác dã man của quân xâm lược và bọn bán nước:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Từ đây, từng câu chữ trong tác phẩm như vẽ nên bức tranh về sự loạn lạc của đất nước và sự xảo trá của giặc Minh. Chúng dùng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để mua chuộc quý tộc nhà Trần, thực hiện chính sách dối trá, phỉnh gạt:
“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm…”
Qua đó, người đọc thấy rõ sự nhơ nhuốc và xảo quyệt của bọn xâm lược:
“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Mục đích của giặc Minh khi xâm lược Đại Việt là đô hộ và thôn tính nước ta. Những ngụy biện của chúng không thể lừa gạt nhân dân, và tội ác của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Sau khi vạch trần âm mưu của quân Minh, Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Quân xâm lược tàn sát người vô tội không chỉ để thỏa mãn thú tính mà còn nhằm diệt chủng dân tộc ta. Chúng dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu và bóc lột của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để phục vụ nhu cầu xa hoa của mình.
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã khắc họa sinh động thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo của giặc Minh gây ra. Không chỉ dừng lại ở đó, quân xâm lược còn thi hành nhiều biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động và tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:
“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…”
Rồi thì:
“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi…”
Tất cả tội ác của chúng đều được vạch trần bằng chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi, và được dồn lại vào hình ảnh đối lập giữa lũ giặc hung bạo và người dân nhỏ bé bị hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”
Bại hoại nhân nghĩa, trời không dung, đất không tha là những từ ngữ dùng để diễn tả tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả được Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử sách bằng giọng điệu uất hận, kết hợp với biện pháp phóng đại và hình ảnh kỳ vĩ, vô tận. Tội ác chồng chất được phơi bày trong bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt. Ở đây, bản tuyên ngôn độc lập còn mang giá trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thân nhân chịu được…”
Tội ác mà thần không dung, nhân không tha thì quả thật là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Qua những phân tích trên, hậu thế có thể thấy rõ thảm cảnh chiến tranh tang thương, từ đó ra sức đấu tranh vì một cuộc sống độc lập, tự do, gìn giữ nền hòa bình dân tộc và chủ quyền lãnh thổ. Đồng thời, phải phấn đấu rèn luyện để cống hiến và xây dựng đất nước giàu đẹp, xứng đáng với máu xương mà ông cha đã đổ xuống.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, ta thấy rõ sự tàn bạo, thâm hiểm và độc ác của quân xâm lược, được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế càng thấm thía giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non sông gấm vóc Việt Nam.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo: Chi tiết và đầy đủ nhất
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi, một ngôi sao Khuê lấp lánh trong tâm hồn và trái tim yêu nước, đã khắc họa hình ảnh mình vào lịch sử dân tộc. Sâu sắc và sắc bén trong mưu lược chính trị, ông cũng dịu dàng và thanh tao trong những vần thơ về thiên nhiên. Dù định mệnh có thể chia cắt con người, nhưng thời gian không thể xóa nhòa những giá trị vĩnh cửu. Sự trường tồn của Nguyễn Trãi cùng non sông Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, thì 'Bình Ngô Đại Cáo' là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm gồm bốn phần: phần đầu nêu luận đề chính nghĩa, phần hai vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần ba kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, và phần cuối tuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần hai của tác phẩm.
Sau hơn một thập kỷ kháng chiến đầy gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428, nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng, Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết 'Bình Ngô Đại Cáo' để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc cứu nước đã thành công. Từ đây, dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình.
'Bình Ngô Đại Cáo' là tác phẩm của Nguyễn Trãi, một bản tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc là giặc Ngô, và giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ hai là bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Lợi dụng tình hình chính sự đổ nát của nhà Hồ, giặc Minh kéo quân vào nước ta với âm mưu chiếm đoạt, được Nguyễn Trãi vạch rõ:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Năm 1406, giặc Minh lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để huy động 20 vạn bộ binh và thủy binh, cùng hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ huy của năm tướng: Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt, cánh thứ nhất do Trương Phụ chỉ huy đi qua Bằng Tường, Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn; cánh thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại, quân Minh còn sai người mang sắc dụ vua Chămpa nhằm phối hợp đánh quân ta ở biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, 20 năm nhà Minh đô hộ nước ta là 20 năm chúng thực hiện các chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chúng thủ tiêu những di sản văn hóa truyền thống, đốt sách vở, kể cả sách học của trẻ em và phá hủy bia đá. Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân Đại Việt là không thể kể xiết.
Tội ác mà giặc Minh gây ra cho Đại Việt, tác giả khẳng định đó là 'Bại nhân nghĩa nát cả đất trời'. Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng thể hiện rõ ràng, đều gian xảo và thâm độc. Chúng không chỉ vơ vét sản vật và sức người mà còn tàn phá môi trường sống, tàn sát con người không ghê tay.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Hai câu thơ trên khắc họa hình ảnh cụ thể nhưng cũng khái quát về lời cáo trạng, buộc tội quân giặc. 'Dân đen' là những kiếp người bé nhỏ, nạn nhân trực tiếp của tội ác giặc Minh gây ra. Qua đó, ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết nên những câu văn đầy giá trị nhân văn giữa con người với nhau.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Nguyễn Trãi chọn cái vô cùng là trúc Nam Sơn, nước Đông Hải để nói về tội ác của giặc Minh. Chúng như loài thú dữ khát máu, không quan tâm đến nỗi đau của con người mà chỉ nhăm nhe cắn xé. Hậu quả chúng gây ra thật tàn khốc: gia đình tan nát, con cái nheo nhóc, muôn loài bị hủy diệt, sản xuất trì trệ, nhân dân lầm than.
Khi đó, nhân dân ta đã dũng cảm đứng lên dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước.
Để nêu rõ tội ác xâm lược của giặc Minh, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, kết hợp những câu thơ giàu hình tượng và linh hoạt trong giọng văn. Lúc căm phẫn, tức giận với lũ giặc cướp nước; lúc đau xót, thương cảm cho nhân dân Đại Việt.
Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Tác giả muốn nhấn mạnh rằng tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của đạo lý trời đất. Những hành động tàn bạo và nhơ bẩn của chúng đến mức cả thần linh và con người đều không thể tha thứ.
Đây là một bản cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác kinh hoàng của giặc Minh trong suốt 20 năm đô hộ nước ta. Để tăng tính thuyết phục, tác giả đã khéo léo kết hợp giữa hình ảnh khái quát và hình ảnh cụ thể, sinh động, tạo nên sức nặng cho lời kết tội.
Với tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Trãi đã biến 'Bình Ngô Đại Cáo' trở thành áng văn bất hủ, xứng đáng là thiên cổ hùng văn của dân tộc, không chỉ trong quá khứ mà còn cả hiện tại.
..............
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Soạn bài Gò Me - Ngữ văn lớp 7 trang 93 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 7: Dàn ý chi tiết giải thích câu tục ngữ Đi một ngày đàng học một sàng khôn (3 bài mẫu) - Tài liệu hữu ích cho học sinh
- Viết báo cáo thảo luận nhóm - Hướng dẫn chi tiết Tiếng Việt 4 Kết nối tri thức, Tập 1, Bài 8
- Soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh - Ngữ văn lớp 8 trang 56 sách Cánh diều tập 2
- Phân tích đặc điểm nhân vật người cha trong tác phẩm Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ - 5 bài văn mẫu dành cho học sinh lớp 7