Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ - 2 dàn ý chi tiết và 10 bài văn mẫu xuất sắc
Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ bao gồm 2 dàn ý chi tiết và 10 bài văn mẫu đặc sắc, ấn tượng. Thông qua đó, học sinh sẽ có thêm nguồn tư liệu phong phú để trau dồi kỹ năng viết văn, nâng cao khả năng phân tích tác phẩm thơ ca.

Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu), ta cảm nhận được một tâm hồn thi sĩ tinh tế, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Trái tim Đỗ Phủ luôn hướng về quê hương, và qua từng câu thơ, tình yêu nước, thương dân của ông càng được bộc lộ rõ nét. Dưới đây là TOP 10 bài phân tích Thu hứng sâu sắc và hay nhất, mời bạn đọc cùng khám phá.
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) - Những bài văn mẫu xuất sắc nhất
- Dàn ý chi tiết phân tích bài Cảm xúc mùa thu
- Phân tích sâu sắc bài thơ Thu hứng
- Phân tích Cảm xúc mùa thu dành cho học sinh giỏi
- Phân tích chi tiết Cảm xúc mùa thu
- Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu đầy đủ và sâu sắc
Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng)
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ (712-770), một nhà thơ lớn với hàng ngàn tác phẩm phong phú, chủ yếu phản ánh cuộc sống người dân và bản thân trong thời đại loạn lạc.
- Giới thiệu bài thơ “Cảm xúc mùa thu”, nêu nội dung chính: bức tranh thu ảm đạm và tâm trạng u sầu của nhà thơ trước cảnh đất nước rối ren.
2. Thân bài
* Bài thơ chia làm hai phần:
- Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu ảm đạm, hiu hắt:
- Hình ảnh “rừng phong” gợi lên sự li biệt, buồn thương, sương móc dày đặc làm cảnh vật thêm tiêu điều, lạnh lẽo.
- “Vu sơn, Vu giáp” miêu tả hẻm núi hiểm trở, ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông, tạo nên không gian u tối, bi thương.
- Hai câu thơ tiếp:
- Hình ảnh đối lập: sóng vọt lên trời, mây sa sầm xuống đất, tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng.
- Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể làm nổi bật bức tranh thu rộng lớn, vừa tiêu điều vừa dữ dội.
- Bốn câu thơ sau thể hiện nỗi nhớ quê hương và tâm trạng lo lắng cho đất nước:
- Hình ảnh hoa cúc nở trong mùa thu gợi nỗi buồn sâu lắng, nhớ về quê hương.
- “Cố chu” – con thuyền cô độc, tượng trưng cho nỗi nhớ quê da diết và khát khao trở về.
- Âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông, chuẩn bị cho mùa đông, gợi lên sự bận rộn của cuộc sống thường nhật.
- Sử dụng không gian rộng lớn, phép ẩn dụ đặc sắc, và bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ giàu cảm xúc.
3. Kết bài
Bài thơ “Cảm xúc mùa thu” là tác phẩm giàu ý nghĩa, thể hiện nỗi lòng nhớ quê của tác giả trong cảnh loạn lạc. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình yêu quê hương và trân trọng nơi mình sinh ra.
Dàn ý số 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ và bài thơ "Thu hứng", có thể dẫn dắt từ đề tài mùa thu trong thơ ca nói chung và thơ Đường nói riêng.
II. Thân bài:
1. Bốn câu thơ đầu tiên: Bức tranh mùa thu
a. Hai câu thơ đầu (1 và 2):
- Hình ảnh: "ngọc lộ", "phong thụ lâm" là những hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng đẹp và giàu tính ước lệ của mùa thu Trung Quốc.
- “Ngọc lộ": Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dày đặc làm cảnh vật thêm tiêu điều, hoang vu. Bản dịch thơ chưa truyền tải đầy đủ ý nghĩa và thần thái của nguyên tác.
- “Phong thụ lâm”: Gợi hình ảnh rừng cây cổ thụ rộng lớn, thường dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt.
- "Núi Vu, kẽm Vu”: Hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mở ra không gian bao la nhưng hoang vắng, lạnh lẽo. Bản dịch thơ đã đánh mất hai địa danh cụ thể và không khí mùa thu.
- “Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm, tô đậm thêm nỗi u buồn trong cảnh thiên nhiên.
- Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Từng hình ảnh hòa vào nhau, vẽ lên bức tranh thu lạnh lẽo, xơ xác, tiêu điều, ảm đạm.
- Thấm nhuần trong cảnh thiên nhiên là cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.
b. Hai câu tiếp theo (3 và 4):
- Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được quan sát theo ba chiều kích: chiều xa, tầng cao và chiều rộng.
- Tầng xa: Sóng vọt lên tận lưng trời, làm nổi bật sự mênh mông của thiên nhiên.
- Tầng cao: Miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đất.
- Tầng rộng: Mặt đất, bầu trời, dòng sông tạo nên không gian rộng lớn.
- Thiên nhiên hiện lên qua ba chiều kích, càng trở nên bao la, rợn ngợp, khiến con người cảm thấy nhỏ bé.
- Hình ảnh tương phản đối lập kết hợp thủ pháp phóng đại: sóng – vọt lên trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống đất (cao – thấp), nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian.
- Sự vận động trái chiều của các hình ảnh mở ra không gian kì vĩ, tráng lệ, nhưng cũng khiến người đọc cảm thấy ngột ngạt, bí bách.
- Bốn câu thơ vẽ lên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp.
- Miêu tả cảnh thiên nhiên nhưng dường như tác giả đang khắc họa bức tranh xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc, bất an.
- Nỗi buồn lạc lõng giữa thiên nhiên cũng là nỗi chênh vênh, lo lắng của tác giả trước thời cuộc.
2. Bốn câu thơ sau: Tình cảm trước mùa thu
a. Câu 5 và 6
- Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ: "Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ": Hình ảnh tả thực, cánh hoa nở ra như giọt lệ, vừa là biểu tượng cho nỗi buồn trong lòng tác giả.
- "Cô chu": Con thuyền cô độc, biểu tượng cho sự trôi nổi, lưu lạc của con người, đặc biệt là những người xa quê khao khát được trở về.
- “Nhất hệ”: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.
- Một loạt từ ngữ thể hiện trực tiếp nỗi nhớ: “Lưỡng khai” (Nỗi buồn kéo dài từ quá khứ đến hiện tại), “Cố viên tâm” (Tấm lòng hướng về quê cũ, gợi thân phận kẻ tha hương).
- Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:
- Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ.
- Quá khứ - hiện tại: Hoa cúc nở hai lần, năm ngoái – năm nay, nhưng nỗi buồn vẫn không thay đổi.
- Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.
- Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.
b. Câu 7 và 8
- Hình ảnh mọi người nhộn nhịp may áo rét, giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông, gợi không khí gấp gáp, thúc giục.
- Âm thanh: Tiếng chày đập vải là âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.
- Bốn câu thơ vẽ ra những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống nơi quê nhà, khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.
3. Nghệ thuật
- Tứ thơ trầm lắng, u uất, mang đậm nỗi niềm suy tư.
- Giọng thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng, với câu chữ được chắt lọc tinh tế.
- Thi liệu và ngôn ngữ giản dị nhưng giàu tính ước lệ, đặc trưng của thơ Đường.
- Kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình, và lấy điểm tả diện.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và khẳng định lại giá trị nghệ thuật, tư tưởng của bài thơ.
Phân tích bài thơ Thu hứng
Đỗ Phủ, nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước cuộc sống của nhân dân trong chiến tranh và nạn đói, chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong số những bài thơ đặc sắc của ông, Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ đầu tiên trong chùm thơ tám bài được sáng tác năm 766, khi ông sống phiêu dạt ở Quý Châu. Bài thơ vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hiu hắt, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li, lo lắng cho đất nước đang rối ren, thương nhớ quê hương xa xôi và xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là "câu đề" với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không chỉ theo chiều sâu mà còn theo tầm mắt của tác giả, hướng về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, khiến người đọc liên tưởng ngay đến đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi dựng đứng khiến ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Chính vì vậy, vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo, và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ, nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau, nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau, lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh, vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới, nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.
Đến hai câu cuối, bỗng vang lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông trong ánh hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này mang đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui, nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng ngày được trở về quê hương của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung miêu tả cảm xúc, là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm sâu lắng: lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và nỗi buồn khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu chặt chẽ, câu nào cũng bám sát chủ đề, thể hiện hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được thần thái của mùa thu trong bài thơ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ, ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, và qua bài thơ, tư tưởng "yêu nước thương đời" càng được thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những câu thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rõ nét… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường, tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Phân tích Cảm xúc mùa thu học sinh giỏi
Thiên nhiên, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông từ lâu đã không còn là đề tài mới lạ trong thơ ca từ cổ chí kim. Thiên nhiên qua từng thời đại tuy được nhìn dưới những lăng kính khác nhau, nhưng đều là thiên nhiên của tâm trạng, là cảnh nhuốm màu cảm xúc. Cảnh thường được nhắc đến trong thơ là trăng, hoa, tuyết, mây… và mùa thì có xuân, hạ, thu, đông. Trong đó, mùa thu là đề tài được nhiều thi nhân yêu thích. Viết về mùa thu, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc Đỗ Phủ có bài “Cảm xúc mùa thu”.
Đỗ Phủ (712 – 770) xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca, nhưng suốt đời sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ với nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống, chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Bài thơ “Cảm xúc mùa thu” thuộc chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi ông đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi loạn An Lộc Sơn bùng nổ, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh, và nhà thơ vẫn phải lưu lạc nơi quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương, trở thành cảm xúc chủ đạo của “Cảm xúc mùa thu” – vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hiu hắt, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh đất nước loạn lạc, rối ren.
Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ nên bức tranh cảnh vật rừng núi mùa thu đẹp nhưng tiêu điều, xơ xác:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Chỉ với vài nét chấm phá, Đỗ Phủ đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu, từ vị trí tương đối cao để hướng tầm mắt bao quát toàn cảnh. Cảnh có xa, có rộng đều được thu lại nơi con mắt tinh tế của thi nhân:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”
(Lác đác rừng phong hạt móc sa).
Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, gợi lên một cảnh rừng chuyển lá đỏ, tượng trưng cho sự li biệt. Cùng với rừng phong lá đỏ, hình ảnh hạt móc sa – những giọt sương trắng – cũng tượng trưng cho mùa thu, gợi sự lạnh lẽo giăng mắc dày đặc, càng làm xơ xác thêm rừng phong.
Tầm mắt từ ngắm nhìn cảnh thu ở rừng phong, tác giả chuyển sang cảnh thu ở vùng núi non:
“Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”
Nhắc đến Vu sơn, Vu giáp, người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia, toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, quanh năm mây mù bao phủ. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Đến hai câu thơ tiếp theo, vẫn là cảnh nhưng được nhìn ở một tầm thấp hơn:
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Cảnh thu hiện lên qua hình ảnh con sông ở thượng nguồn nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết và hình ảnh “mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Nước sông chảy xiết nên giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Hình ảnh “mặt đất mây đùn cửa ải xa” tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa. Cảnh ở đây không nhuốm màu bi thương tàn tạ như hai câu thơ đầu mà có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau, lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Ở bốn câu thơ sau, trước cảnh thu, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Hoa cúc là hình ảnh gắn liền với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Vì sao vậy? Vì nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu, xa nhà, xa quê. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào, làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ).
Hai câu kết:
“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.”
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Câu thơ bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn, nhưng không đủ sức làm nhộn nhịp không gian mà càng làm nổi bật hơn nỗi buồn mênh mang. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh chóng cho việc may áo ấm, nhưng cũng khiến nhà thơ chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “Ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết mà ý không hết).
Thực ra, viết về mùa thu của thiên nhiên cũng là nhà thơ đang viết về một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh liên miên, Đỗ Phủ phiêu bạt muôn nơi và ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Ước mơ ấy cũng là ước mơ chung của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Vì vậy, hàm ẩn sau những câu thơ thu là một tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ. Chính nỗi lòng ấy đã mang thơ Người đến gần chúng ta và sống cùng chúng ta.
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ - Tác phẩm xuất sắc của thơ Đường
Bài làm mẫu 1
Thơ Đường vốn nghiêm ngặt về niêm, luật, bố cục. Song những quy luật khắt khe ấy không hề trói buộc các bậc thánh thi như Đỗ Phủ. Dưới ngòi bút thi nhân, bài thơ vừa tuân thủ niêm luật chặt chẽ lại vừa bay bổng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của viên ngọc được soi rọi từ nhiều phía khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài đặc điểm trên.
Xét theo nội dung miêu tả chung, bài Thu hứng lại có bố cục hai phần rõ rệt: bốn câu đầu tả cảnh, cảnh núi sông của vùng Quỳ Châu, thượng nguồn Trường Giang, nơi Đỗ Phủ lưu lạc tới vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới là tả tính, tình của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh ấy và tình này tạo nên sự thống nhất của bài thơ.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh mùa thu. Trước tiên đây là cảnh mùa thu của một nơi xác định. Người ta biết đây là tả cảnh vùng Quỳ Châu thuộc thượng nguồn sông Trường Giang không chỉ ở địa danh Vu Sơn, Vu Giáp, được nhắc tới ở câu thứ hai mà chính là ở cảnh vật đặc trưng do vùng này được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong phủ sương móc trắng, là cảnh kẽm Vu vách núi dựng đứng khi trời mù mịt, là núi Vu cao vút hiểm trở.
Cả một bức tranh phong cảnh hùng vĩ mà âm u hiện ra qua ngòi bút Đỗ Phủ. Bức tranh này có lớp lang chặt chẽ, hiện dần theo bước chân người. Thoạt đầu là cảnh rừng phong trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng này, Vu Sơn, Vu Giáp hiện ra qua một nét phác họa chung ở câu thơ thứ hai. Câu thứ ba, thứ tư đặc tả hai cảnh tiêu biểu nhất của núi Vu, kẽm Vu. Như vậy, bức tranh có toàn cảnh và cận cảnh, có bao quát và chi tiết, chứng tỏ một ngòi bút miêu tả điêu luyện, linh hoạt.
Cái thần của bức tranh chính là cảm xúc tác giả gửi trong từng nét vẽ lan tỏa vào lòng người đọc. Câu thơ thứ nhất bảy chữ, có hai chi tiết miêu tả, chi tiết nào cũng gợi nỗi buồn, từ cái lạnh lẽo của màu trắng xóa sương móc bao phủ khắp nơi, từ cái tang thương của rừng phong tiêu điều. Còn cái hiu hắt của hơi thu ở câu thứ hai càng làm tôn lên nỗi buồn bàng bạc thấm đượm trong câu trên.
Hai câu thơ, ba miêu tả chi tiết: nỗi buồn ngày càng rộng, càng sâu khiến cho cảnh vật hùng vĩ mà buồn bã, bí hiểm mà u hoài. Tới hai câu ba bốn, cảnh vật vừa có sự nhất quán với hai câu trên, vừa có sự phát triển. Trong khi đặc tả núi Vu, kẽm Vu, mỗi nơi tác giả tả một chi tiết nhưng cảnh vật sống động hẳn lên. Sóng thì ba lãng kiêm thiên dũng (vọt lên tận lưng trời), vừa vẽ lên chiều cao thăm thẳm của kẽm Vu, vừa tạo sự chuyển động dữ dội, mạnh mẽ.
Cảnh đám mây "sa sầm giáp mặt đất" không chỉ tả được cái độ cao của cửa ải trên núi Vu còn vẽ được sự giận dữ của mây, núi. Sông và trời, mây và núi không còn trong trạng thái tỉnh tại, u hoài như cảnh vật hai câu thơ trên mà đang chuyển động với một nội lực lớn lao, tạo nên vẻ đẹp hoành tráng cho bức tranh. Cả hai cảnh đó bổ sung cho nhau, tạo nên sự thống nhất đa dạng của cảm xúc toát ra từ bức tranh: trầm uất và bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.
Đứng trước cảnh sắc ấy, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ làm sao không nhớ quê được? Chính từ sự vận động nội tại đó, bốn câu thơ sau xuất hiện thật tự nhiên, hợp lẽ. Bốn câu thơ sau tả tình nhưng không xa rời cảnh, tình và cảnh quấn quýt với nhau. Hai câu thơ 5, 6 biểu hiện sinh động lòng nhớ quê với nhiều thủ pháp sinh động, Trong bảy chữ của câu 5, tình và cảnh như thống nhất: hoa cúc nở mà trông như cành hoa bằng nước mắt hư ảo, chập chờn, hiện tại và quá khứ như nối liền: "giọt lệ ngày trước" bỗng rơi cùng giọt lệ hôm nay.
Cái trục nối liền ấy tạo ra sự đồng nhất ấy là hai chữ lưỡng khai với nhiều nghĩa hàm ẩn, làm cho hình ảnh cúc và lệ trở nên đa nghĩa, Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo nên cùng một cảnh như hình ảnh ở câu 5. Chữ cố cũng tạo nên nghĩa hàm ẩn: vừa là buộc con thuyền lẻ loi nơi nhà thơ đang sống ở lại nơi đây, vừa có nghĩa là thắt lại, gói lại nỗi lòng thương nhớ quê.
Những cảm xúc dồn dập được tả trong câu 5, 6 tưởng như sẽ được tả trực tiếp và nâng cao hơn ở hai câu kết. Nhưng đến đây bài thơ bỗng từ tả tình chuyển sang tả cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh mọi người rộn rịp may áo rét, giặt giũ áo cũ. Tưởng như hai cảnh này không ăn nhập với tình kia, tưởng như ý bài thơ bị lạc. Song không phải như vậy. Đây là một thủ pháp dồn nén tình cảm vào bên trong hình ảnh để cho lời thơ, ý thơ thêm sâu sắc, có sức rung động mạnh hơn ở người đọc.
Âm thanh đập áo vốn là một âm thanh có sức gợi cảm lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ tới người thân đi xa, diễn tả một nỗi lòng nhớ thương, chờ đợi. Bạch Cư Dị đã tả nỗi lòng của người thiếu phụ, đêm tháng tám, tháng chín nghề tiếng chày đập lụa mà "sáng ra e bạc cả đầu". Cho nên sự xuất hiện tiếng chày trong bóng chiều tà tạo nên một dư âm vang vọng cho cả bài thơ.
Nỗi nhớ quê tha thiết của Đỗ Phủ trong một mùa thu tập loạn được bộc lộ trong bài thơ này đâu phải chỉ là tâm trạng của một người. Nó là nỗi lòng của trăm họ đang lầm than vì cảnh chiến tranh, giặc giã liên miên sau loạn An Lộc Sơn đời Đường đang xa lìa quê hương, phiêu bạt nơi góc biển chân trời.
Bài làm mẫu 2
Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một bài thơ tiêu biểu, hết sức thâm thúy, hàm súc, kín đáo. Trong bài thơ, tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh trộn lẫn, nhiều khi khó lòng phân biệt.
Có thể tạm chia bài thơ làm hai phần với bốn câu đầu là cảnh thu và bốn câu sau là nỗi lòng nhà thơ. Cách phân chia như vậy phù hợp về logic hình thức nhưng chưa thực sự xâm nhập vào chiều sâu quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. Chúng ta biết rằng đặc trưng của thơ cổ nói chung, thơ Đường nói riêng là cái nhìn đồng nhất con người và vũ trụ (“Thiên nhân tương đồng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “ta” vũ trụ (đại ngã). Do đó, các nhà thơ cổ nói “cảnh” cũng là để nói “tâm”, nói “tâm” thường thông qua vẽ “cảnh”. Các nhà thơ Trung Hoa xưa thường nhắc đến mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập vào cảnh” (Vương Xương Linh), “Lòng nhập vào cảnh”, “Tình dĩ cảnh hội” (Yên Hoàng Đạo), “Tình bất gặp cảnh”, “Cảnh dĩ tình hợp”, “Tình dĩ cảnh sinh” (Vương Phu Phi).
Ngay bốn câu đầu, qua những nét bút chấm phá về cảnh đã toát lên góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ. Chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được vẽ ra bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn so với bốn câu thơ sau. Bài thơ có thời gian: mùa thu; có địa điểm: Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tỉnh Tứ Xuyên). Cảnh ở đây cũng có phần được cá biệt hóa với màu sắc hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lưng trời, mây sa mặt đất. Cảnh vật hiện lên dần như trên một đoạn phim lướt vội. Ống kính hắt đầu từ rặng phong tiêu điều với sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), (chữ “lác đác” trong bài dịch chưa thật sát với nghĩa nguyên tác), đến cảnh núi Vũ và kẽm Vu hiu hắt, dần đến những đợt sóng bọt lên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những đám mây sa sầm giáp mặt đất nơi cửa ải. Bốn câu thơ cũng làm ta nhớ đến những bức tranh thủy mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện lên trong cái “thần”, cái “hồn” của nó. Nhưng sau bức tranh kia đã ẩn giấu bao nhiêu tâm trạng. Tâm trạng ấy trước hết thể hiện ở sự lựa chọn cảnh vật. Nhà thơ xưa không đặt nhiệm vụ khám phá đối tượng mình quan sát (dù bên trong hay bên ngoài) mà chỉ là sắp xếp, tỉa tót nó cho phù hợp với sự cảm nhận duy lí. Thơ cổ không phân biệt rạch ròi chủ thể và khách thể. Ngay nét chấm phá đầu tiên “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh tượng móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong làm ta nhớ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ. Cây phong trong thơ Đường như gắn với nỗi buồn, với chia li. Trong Tì bà hành (Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu), trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” đìu hiu hắt trong mắt nàng Kiều.
Những nét vẽ cảnh tiếp theo dường như càng tô đậm thêm cái nét hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Đành rằng cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ, nhưng nét hùng vĩ không lấn át được vẻ buồn, tàn tạ, không làm tan cái buồn, hiu hắt tràn từ núi đến rừng.
Hai câu tiếp theo đối nhau về ý và lời, tạo nên cảnh đối nghịch trong bức tranh “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng - Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm - Mặt đất mây đùn cửa ải xa) cho ta những ấn tượng trái ngược: Cảnh vừa dữ dội, hoành tráng lại vừa bức bối, bị vây hãm không thoát ra được. Đúng là bức “tâm cảnh” trong con mắt một kẻ xa quê, nhớ quê, lòng buồn trĩu nặng, đồng thời cũng bứt rứt, bức bối, không yên khi nhìn về quê nhà và trông ra thế sự. Kim Thánh Thán thật có lí khi bình rằng: “ngước mắt nhìn sông chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đắm trông lên ai, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất. Thực đúng đau tức, bi thương, khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt”.
Bốn câu sau, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây thể hiện nỗi lòng trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn thâm trầm, kín đáo. Cái nhìn duy lí đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả nói đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là “tâm” hay là “cảnh”, thật khó lòng phân biệt. “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buộc chặt tấm lòng nhớ vườn cũ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người. Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ”. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây “cảnh” đã nhòa vào “tâm”, đã “hội” vào “tâm”. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dây lòng). So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thể hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành đô đến Quý Châu đã được hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng “lệ cũ” của nhà thơ không chỉ “tuôn” ra một lần mà đã nhiều lần rồi. Và đúng như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thanh khốc, cảm thời hoa tiền lệ...
Hai câu thơ kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là tỏ lòng, nêu trực tiếp cảm xúc nhưng đây tác giả lại hướng nói về cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ở đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh” thì ở đây lại “động”. Cảnh rộn ràng hơn trong không khí “rộn ràng dao thước để may áo rét” và âm thanh tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế. Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Thế nhưng, đó chỉ là ngoại cảnh, tấm lòng nhà thơ thì chưa chắc đã có đổi thay. Bởi góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn. Nó dường như cùng hòa vào “gam” nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị (Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi). Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.
Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương, khắc khoải trong tình quê nặng và nỗi âu lo kín đáo về thế sự.
Bài làm mẫu 3
Cuộc đời Đỗ Phủ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: những năm ngao du vô tư thoải mái thời trai trẻ, những năm gia đình sa sút phải ăn chực nằm chờ sau những lần thi hỏng ở thủ đô Trường An, những năm bị ném vào dòng nước xoáy của thời đại trong chiến loạn An – Sử (755 – 763), những năm sống trôi dạt cuối đời ở các tỉnh thuộc vùng tây nam của đất nước.
Khi chiến loạn vừa kết thúc, Đỗ Phủ đã có ý định xuôi sông Trường Giang về đông để tìm đường về quê ở phía bắc.
Năm 765, Đỗ Phủ rời Thành Đô – thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, đưa gia đình phiêu bạt qua một số nơi rồi về tạm trú ngụ ở Quỳ Châu. Chùm thơ Cảm xúc mùa thu nổi tiếng gồm tám bài được sáng tác tại đây năm 766, chỉ bốn năm trước khi nhà thơ qua đời.
Chùm thơ là một chỉnh thể trong đó Cảm xúc mùa thu số 1, bài được chọn giảng, là “cương lĩnh sáng tác” của cả chùm thơ. Nhà phê bình nổi tiếng Kim Thánh Thán đã nhận xét về tính chất chặt chẽ của bố cục chùm thơ và vị trí cao của bài Cảm xúc mùa thu số 1 như sau: “Bảo là liền thì mỗi bài đứt, bảo là đứt thì mỗi bài liền. Đổi vị trí một bài không được, thêm bớt một bài không được…
Tất cả thơ này lấy bài thứ nhất làm đề cương, bởi vì bài ấy nói đến cái cảnh tiên sinh đường sống lúc bấy giờ. Đó chính là mùa thu tại Tây các (gác phía tây) phủ Quỳ, nhân thu mà khởi hứng. Câu đầu bảy thiên sâu nhất nhất đều do đó mà ra như áo chìm có cổ, như bông hoa có cuống, như hiệu lệnh của mười vạn binh phát xuất tự nơi trung quân”.
Quả chỉ có thể thấy được một cách thật đầy đủ ý nghĩa và vẻ đẹp của bài Cảm xúc mùa thu số 1 khi đặt nó trong cả chùm thơ; tuy nhiên, vì đó là bài có tính chất “đề cương”, “cương lĩnh”, mặt khác, cũng như bảy bài còn lại, nếu “bảo là đứt thì mỗi bài liền”, tức mỗi bài đều có tính tương đối độc lập nên ta vẫn có thể và thực tế đã có nhiều người phân tích nó như một chỉnh thể.
Cũng như với nhiều bài thơ Đường nổi tiếng khác, chỉ có thể lí giải được đúng bài Cảm xúc mùa thu số 1 nếu chia tác phẩm thành hai phần: nửa trên, về cơ bản tả cảnh thu ở Quỳ Châu và nửa dưới, về cơ bản tả tình – cảm xúc của nhà thơ trước cảnh thu ở Quỳ Châu.
Ở cặp câu thứ nhất (tức “liên thứ nhất”, “liên đầu”, ta quen gọi là hai câu đề), bản dịch thơ đã tái hiện được cảnh thu buồn bã song trong nguyên bản, không khí còn thảm đạm hơn nhiều. Ở câu thứ nhất, sương móc không phải “sa lác đác” mà hẳn là dày đặc mới có thể làm tiêu điều, thương tổn (điêu thương) được cả rừng phong; rừng phong không phải là danh từ làm trạng ngữ chỉ nơi chốn mà là đối tượng bị sương móc vùi dập một cách tàn nhẫn.
Ở câu thứ hai của bản dịch, chữ “loà” cùng với từ “hiu hắt” chỉ phần nào lột được thần thái của hai chữ tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm) trong nguyên bản; chữ “ngàn non” thay thế cho hai danh từ riêng khiến cho bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh vùng Quỳ Châu. Hãy đọc đoạn sau đây trong thiên Sông ngòi ở cuốn Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên thời Lục triều: “Suốt cả vùng Tam Giáp (Vu Giáp, Cù Đường Giáp, Tây Lăng Giáp) dài bảy trăm dặm, núi liên tiếp đôi bờ, tuyệt không có một chỗ trống.
Vách đá điệp trùng che khuất cả bầu trời, chẳng thấy cả ánh nắng mặt trời lẫn ánh sáng trắng… Mỗi khi trời vừa tạnh, trong sáng sớm sương mù, nơi rừng lạnh khe vắng thường có vượn ở trên cao hú dài, tiếng thê thảm dị thường, hàng trống truyền âm thanh bi ai mãi chẳng dứt. Cho nên những người đánh cá có câu ca rằng: “Ba đồng Tam Giáp Vu Giáp trường – Viên minh tam thanh lệ triêm thường” (Ba kẽm ở phía đông đất Ba Thục thì kẽm Vu là dài nhất, Vượn kêu ba tiếng đã làm cho lệ rơi đầm áo xiêm)”.
Bình thường, cả lúc trời tạnh, cảnh Vu Giáp đã tối tăm ảm đạm; chiều thu, hẳn càng tối tăm ảm đạm; qua lăng kính nhà thơ, lại tối tăm ảm đạm bội phần! Nếu ở câu thứ nhất còn có chút ánh sáng, còn có sự tương phản màu sắc trắng – đỏ giữa sương móc chiều thu và cánh rừng phong bạt ngàn thì đến đây, tất cả dường như chìm trong âm u… Hai câu thơ tiếp theo (tức “liên thứ hai”, “liên cằm”, ta quen gọi là hai câu thực), mới đọc qua, tưởng như mở ra một viễn cảnh thoáng đãng hơn:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Quả ở đây, ngoài không khí âm u còn có cảnh sắc hùng vĩ. Hùng vĩ vốn là một trong những nét tiêu biểu của cảnh sông núi Quỳ Châu, mặt khác, cũng phản ánh một nét trong tâm hồn cao quý của Đỗ Phủ: dẫu đau buồn tột độ, nhà thơ vẫn còn ủ ấp tráng chí. Tuy vẫn được vẽ bởi ngòi bút chấm phá quen thuộc của thơ Đường song thiên nhiên ở đây tuyệt không phải là những đường tiết tủn mủn, yếu ớt mà là rộng mở, rắn rỏi, tạo nên một bức tranh toàn cảnh hoành tráng.
Tuy nhiên, đọc kĩ, sẽ thấy ngay ở đây, nét bi thảm vẫn lấn át mặt hoành tráng. Hãy tưởng tượng xem, phần không gian dành lại cho con người đã bị dồn ép tới mức nào, ngột ngạt và bất an đến dường nào giữa những làn sóng vọt tận lưng trời và những làn mây sa sầm giáp mặt đất! Các chữ “rợn” và “đùn” ở bản dịch đã truyền đạt thành công không khí hãi hùng của khung cảnh song vẫn khó thể hiện được trọn vẹn ý nghĩa của nguyên tác, làm cho người đọc cảm nhận như sóng và mây vận động cùng chiều trong khi chúng vận động ngược chiều (“đùn” chỉ là bị đẩy từ trong ra hay từ dưới lên).
Cũng như ở nửa trên bài Lên cao, trọng điểm ở bốn câu đầu bài Cảm xúc mùa thu số 1 là tả cảnh, nhưng trong cảnh đã thoáng lộ tình: tình buồn (qua hình ảnh sương móc trắng xóa, rừng phong úa tàn, khí thu mù mịt) nhưng xao động, dữ dội (qua hình ảnh đất trời chao đảo, sóng tung toé, mây vần vụ).
Hai câu thứ năm và thứ sáu (tức “liên thứ ba”, “liên cổ”, ta thường quen gọi là hai câu luận) được xem là tiêu biểu cho tinh thần của Cảm xúc mùa thu số 1, và ba chữ “cố viên tâm” (ở câu 6) lại được coi là “mắt rồng”, tức nơi tập trung linh hồn của cả chùm thơ Cảm xúc mùa thu.
“Cố viên tâm” (nỗi lòng quê cũ) trước hết là chỉ “nỗi nhớ Lạc Dương (Hà Nam)”, quê quán của Đỗ Phủ, cũng là một trong những thành phố phồn hoa nhất thời Đường. Đặt trong văn cảnh, nó còn chỉ “nỗi nhớ Trường An, kinh đô nhà Đường” và rộng hơn nữa, còn là một biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước.
Trong bảy bài Cảm xúc mùa thu tiếp theo, nhà thơ chỉ nói đến nỗi nhớ Trường An, Trường An những ngày còn thái bình thịnh trị, lúc Đỗ Phủ còn là quan chức của triều đình, cũng như Trường An đương thời, nơi đang “thay đổi luôn luôn như một cuộc cờ”, nơi đang diễn ra những cuộc tranh chấp giành giật quyền bính giữa các thế lực phong kiến quân phiệt có sự can thiệp của các thế lực ngoại tộc.
Hai câu thơ này cũng được xem là danh cú (câu thơ, câu văn nổi tiếng) xét về mặt tiêu biểu cho thi pháp thơ Đường. Ở đây, tác giả đã đồng nhất nhiều sự vật và hiện tượng: tình và cảnh (nhìn hoa cúc nở mà trông như xoè ra những cánh hoa bằng nước mắt), hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ của quá khứ gần – hai năm qua, kể từ ngày rời Thành Đô – và quá khứ xa), sự vật và con người (dây buộc thuyền cũng là dây thắt lòng người lại).
Đáng nói hơn là những sự đồng nhất có vẻ phi lí ấy lại có một cội nguồn hiện thực sâu xa. Trong chiến loạn An – Sử, không chỉ con người bị huỷ diệt (trong tám năm, dân số Trung Quốc chỉ còn một phần ba) mà thiên nhiên cũng bị tàn phá. Hình ảnh “hoa nhỏ lệ” không phải chỉ xuất hiện một lần trong thơ Đỗ Phủ. Chữ tha nhật (trong nguyên tác) được một số người hiểu là chỉ ngày sau, những ngày sắp tới, song hầu hết đều cho là chỉ ngày trước, những ngày đã qua.
Trước cảnh thu buồn, hồi ức về những nỗi đau trong quá khứ đã tập kết về thời điểm hiện tại và đọng lại trên những nhành hoa. Bởi vậy, câu thơ dịch “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ” của Nguyễn Công Trứ là rất đạt. Lệ của nhà thơ rơi trong hai năm qua chỉ là sự lặp lại, chồng lên những dòng lệ cũ. Trước chiến loạn An – Sử, nhà thơ nghèo khổ đã từng rơi lệ khi đứa con trai “yêu nhất đời” bị chết đói giữa mùa gặt hái!
Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đích đáng không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất mà nhà thơ gửi gắm vào đó ước vọng về quê, là địa chỉ trú ngụ đích thực, là chiếc “nhà nổi” của Đỗ Phủ trên con đường chuyển dịch về phía đông để kiếm cơ hội hồi hương.
Ở liên thứ tư (tức “liên đuôi”, ta quen gọi là hai câu kết), tác giả đã kết thúc bài thơ một cách bất ngờ. Nhà thơ không bộc lộ trực tiếp cảm xúc chủ quan như thường lệ mà lại quay về tả những cảnh thực ngoài đời: không khí tấp nập của mọi người nô nức may áo rét (câu 7) và giặt giũ áo cũ (câu 8) để chuẩn bị cho mùa đông đang tới gần. Trong thơ cổ Trung Hoa, tiếng chày đập vải, nhất là về chiều và đêm, là một loại âm thanh đặc biệt có sức gợi cảm rất lớn, chúng không làm cho những người khách xa xứ vui lây mà chỉ càng thêm não lòng.
Cũng giống như ở cuối bài Lên cao (Đẳng cao), cuối bài Cảm xúc mùa thu số 1, tác giả đã dùng phương thức tả pha kể để biểu cảm, nên đằng sau những câu thơ tưởng như lạnh lùng bình thản là cả một nỗi lòng đau thương quằn quại. Biểu hiện cảm xúc trước cảnh thu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Cảm xúc mùa thu số 1 là một tác phẩm độc đáo, tiêu biểu cho thành tựu nghệ thuật của Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.
Qua đây, ta không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một chiều thu ở Quỳ Châu mà còn thấy cả tình cảnh, nỗi lòng của một con người cụ thể sống trong hoàn cảnh ấy. Chiến tranh phong kiến liên miên và sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến ở giai đoạn cuối Thịnh Đường đã đẩy con người ấy, vốn là một ông quan của triều đình, về tận góc trời xa thẳm, và con người ấy, ngày đêm chỉ còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ.
Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong ở thời Đường. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội, vẫn chan chứa tình đời và có giá trị hiện thực sâu sắc.
Bài làm mẫu 4
Đỗ Phủ, một thiên tài thơ ca Trung Hoa, đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ. Ông không chỉ là một nhà thơ tiêu biểu mà còn là một tâm hồn nhạy cảm, luôn đau đáu với nỗi niềm yêu nước thương dân. Những tác phẩm của ông, đặc biệt là "Thu Hứng" hay còn gọi là "Cảm hứng mùa thu", là minh chứng cho tài năng và tấm lòng của một nghệ sĩ lớn.
Thiên nhiên, đặc biệt là sự chuyển mình của đất trời vào thu, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Mùa thu, với vẻ đẹp man mác và đượm buồn, đã khơi gợi trong lòng Đỗ Phủ những cảm xúc sâu sắc về thân phận và tình yêu quê hương đất nước.
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Bài thơ "Cảm hứng mùa thu" qua bản dịch của Nguyễn Công Trứ đã làm sống dậy những hình ảnh và cảm xúc mà Đỗ Phủ gửi gắm. Những câu thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh thu buồn mà còn thấm đẫm tình yêu quê hương và nỗi niềm của tác giả.
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
.............
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Bốn câu đầu của bài thơ, được gọi là "câu đề", đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng đượm buồn, phản ánh tâm trạng của tác giả trước cảnh đất nước loạn lạc.
Trong cặp câu đầu, Đỗ Phủ đã tái hiện một cách tinh tế khung cảnh chiều thu ở Quý Châu, nơi mà mỗi cảnh vật đều mang một nỗi buồn thầm kín.
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa)
Từ vị trí cao, tác giả đã quan sát và miêu tả toàn cảnh nơi đây với một tầm nhìn xa rộng. Hình ảnh rừng phong với sương móc phủ trên lá, cùng với sự chuyển màu của lá phong, đã tạo nên một không gian thu đầy cảm xúc. Những dấu hiệu của mùa thu không chỉ hiện lên qua cảnh vật mà còn thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa).
Hai câu thơ tiếp theo mở ra một khung cảnh hùng vĩ nhưng cũng đầy bí ẩn của núi rừng Vu Sơn Vu Giáp. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, một góc nhìn khác nhau về mùa thu, từ cảnh sông nước đến trời mây, tất cả đều thấm đẫm nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả.
Trong bốn câu thơ cuối, Đỗ Phủ đã bộc lộ nỗi lòng mình trước cảnh thu nơi đất khách. Nghệ thuật đối ngẫu tài tình ở câu năm và sáu đã làm nổi bật tâm trạng đầy xúc động của tác giả:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà).
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà).
Bốn câu cuối tập trung khắc họa cảm xúc sâu lắng, thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết và khát khao được trở về. Hình ảnh hoa cúc, biểu tượng của mùa thu, khiến tác giả rơi lệ khi nhớ về quê nhà. Con thuyền đơn độc (cô chu) trở thành biểu tượng của hy vọng, mang theo ước mơ trở về quê hương. Âm thanh tiếng chày đập vải trong hoàng hôn tuy mang đến chút sinh khí nhưng không đủ để xua tan nỗi buồn đang bao trùm tâm hồn thi sĩ. Những nét chấm phá mạnh mẽ trong tác phẩm đã tạo nên một bức tranh vừa sống động vừa đầy cảm xúc, lay động trái tim người đọc.
Qua bài thơ "Cảm hứng mùa thu", ta thấy được một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm và đầy rung động trước cảnh sắc thiên nhiên. Trái tim Đỗ Phủ luôn hướng về quê hương, và tư tưởng "yêu nước thương đời" được thể hiện rõ nét qua từng câu chữ.
Những vần thơ của Đỗ Phủ không chỉ lay động lòng người mà còn như bật ra khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh sống động. "Cảm hứng mùa thu" không chỉ khẳng định tài năng của ông mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu về mùa thu trong nền thi ca Trung Quốc.
Phân tích bài thơ Cảm hứng mùa thu của Đỗ Phủ
Bài làm mẫu 1
Đỗ Phủ (712 – 770), tự Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân từ một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời, ông từng đi thi nhưng không đỗ đạt. Cuộc đời ông chìm trong cảnh nghèo khó và bệnh tật, nhưng ngọn lửa đam mê văn chương trong ông chưa bao giờ tắt. Ông để lại hàng ngàn bài thơ phản ánh sâu sắc hiện thực lịch sử và chan chứa tình yêu nước thương dân. Với những đóng góp to lớn, Đỗ Phủ được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.
Ngoài những bài thơ được coi là "thi sử", Đỗ Phủ còn nổi tiếng với những tác phẩm trữ tình thể hiện tình cảm chân thành trước thiên nhiên và cuộc đời. Trong số đó, bài "Thu hứng" (Cảm xúc mùa thu) là tác phẩm đầu tiên trong chùm thơ tám bài sáng tác năm 766, khi ông sống lưu lạc ở Quý Châu. Đây là vùng núi non hùng vĩ, cách xa quê hương ông hàng ngàn dặm. Sau mười một năm loạn An Lộc Sơn, đất nước kiệt quệ, và Đỗ Phủ vẫn phải sống tha hương. Hoàn cảnh ấy đã khơi dậy cảm xúc bi thương, trở thành chủ đạo của bài thơ.
Bài thơ có thể chia thành hai phần: Bốn câu đầu (đề, thực) miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa thu ở thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau thể hiện cảm xúc của thi nhân trước cảnh thu nơi đất khách.
Ở cặp câu đầu, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã khắc họa được thần thái của một chiều thu ở Quý Châu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa)
Đỗ Phủ đứng từ vị trí cao để quan sát toàn cảnh, mang đến tầm nhìn rộng và xa. Ngay từ câu đầu, ông đã tả cảnh rừng phong với sương móc dày đặc, tạo nên khung cảnh tiêu điều. Trong thơ cổ Trung Hoa, rừng phong gắn liền với mùa thu và sự li biệt, còn sương trắng tượng trưng cho sự lạnh lẽo. Cảnh vật hiện lên qua con mắt đầy tâm trạng của nhà thơ.
Câu thứ hai nhắc đến Vu sơn, Vu giáp, những địa danh nổi tiếng của đất Ba Thục. Khung cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ "lòa" và "hiu hắt" chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ "khi tiêu sâm" (tối tăm, ảm đạm). Từ "ngàn non" thay thế cho Vu sơn, Vu giáp làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp là núi Vu và hẻm Vũ, nơi nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ, thường xuất hiện trong thần thoại và thơ ca Trung Quốc. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây càng thêm ảm đạm, lạnh lẽo.
Hai câu đầu, một tả cảnh rừng phong, một tả cảnh núi non, nhưng đều thể hiện tâm trạng buồn thương của nhà thơ.
Tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng ấy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ đầy ám ảnh:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa).
Nếu hai câu đầu tả cảnh thu trên cao, thì hai câu này miêu tả cảnh thu dưới thấp. Sông ở thượng nguồn nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết tạo nên cảnh sóng dữ dội vọt lên tận lưng trời. Trong bản dịch, từ "rợn" và "thẳm" đặc tả sự hùng vĩ của thiên nhiên và cảm giác choáng ngợp của con người. Hình ảnh mây trắng sà xuống thấp, tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cửa ải xa xa.
Nếu hai câu đầu mang màu sắc bi thương, thì hai câu này lại toát lên vẻ hùng tráng và dữ dội. Hai cặp câu bổ sung cho nhau, khắc họa rõ nét phong cảnh vừa âm u vừa hùng vĩ của vùng Vu sơn, Vu giáp.
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, kết hợp lại tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, thể hiện rõ nét hồn thu đặc trưng của vùng núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức gợi và liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô cùng sâu sắc. Tuy tác giả chưa trực tiếp nhắc đến cảnh đời điêu linh, nhưng nó dường như đã ẩn hiện sau hình ảnh rừng phong xơ xác vì sương gió, sóng nước Trường Giang dữ dội và mây xám mịt mù nơi quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ nhạy cảm như Đỗ Phủ không thể không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng!
Trong bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ nỗi lòng mình trước cảnh thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu sử dụng nghệ thuật đối chỉnh, vừa tả cảnh thu vừa thể hiện tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà)
Đây là hai câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hoa cúc cũng là biểu tượng của mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc không phải điều gì mới mẻ, nhưng điều đáng chú ý là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán: "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ" (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý: "Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ" cũng rất hay, giúp người đọc hình dung được tâm trạng cô đơn, sầu thương của Đỗ Phủ trong những năm tháng phiêu bạt, nỗi nhớ quê hương da diết. Hai lần nhìn cúc nở hoa, tức là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc gợi nhớ về những mùa thu trước nơi quê cũ, khiến lòng thi nhân càng thêm xao xuyến, nghẹn ngào.
Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, còn hình ảnh con thuyền càng làm nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: "Cô chu nhất hệ cố viên tâm" (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch đã bỏ mất tính từ "cô" trong "Cô chu", vốn chứa đựng tâm trạng cô đơn của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì sự trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về quê hương trong tâm tưởng.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà).
Ở hai câu cuối, đột ngột vang lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này mang đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui, nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang bao trùm tâm hồn thi sĩ.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, cần chuẩn bị nhanh chóng cho việc may áo ấm. Hãy đọc lại câu thơ thứ tư: "Tái thượng phong vân tiếp địa âm" (Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). Lúc này, loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong, nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người vẫn còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo vẫn còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ đến những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… "Ngôn tận nhi ý bất tận" (lời hết mà ý không hết). Đỗ Phủ cảm thấy không lời lẽ nào có thể diễn tả hết nỗi niềm "Thu hứng".
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu chặt chẽ, mỗi câu đều bám sát chủ đề, thể hiện rõ hai yếu tố "cảm xúc" và "mùa thu", vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thâu tóm được thần thái của mùa thu trong bài thơ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh liên miên đã đẩy Đỗ Phủ phiêu bạt đến tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chỉ còn ôm ấp một hy vọng mong manh là được trở về quê cũ. Ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, không gian và thời gian, thị giác và thính giác, cảm xúc và mùa thu được liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất logic: từ xa đến gần, từ không gian cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Ẩn chứa trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.
"Cảm xúc mùa thu" là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Cảm hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ, được thể hiện qua ngòi bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như "Đăng cao", "Mao ốc thu phong vị sở phá ca"..., "Thu hứng" góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc "Thi thánh" của thơ Đường, với tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Bài làm mẫu 2
Nhắc đến Trung Quốc, không thể không nhớ đến Đỗ Phủ (712-770), một nhà thơ lỗi lạc với hàng ngàn tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội và đời sống con người. Trong số những kiệt tác của ông, bài thơ "Cảm xúc mùa thu" là tác phẩm đầu tiên trong chùm thơ "Thu hứng" sáng tác năm 766, khi ông cùng gia đình lưu lạc đến Quỳ Châu.
"Cảm xúc mùa thu" vừa là bức tranh thu ảm đạm, hiu hắt, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu của nhà thơ trước cảnh đất nước loạn lạc. Bài thơ chia làm hai phần: bốn câu đầu tả cảnh thu tiêu điều, bốn câu sau thể hiện nỗi nhớ quê và tâm trạng đau đáu về vận nước. Hai câu đầu được nhìn từ tầm bao quát rộng và xa:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Tác giả đặt điểm nhìn từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, khi lá chuyển màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt và nỗi buồn. Sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong, càng tô đậm vẻ tiêu điều, lạnh lẽo. Cảnh vật hiện lên rõ nét qua con mắt đầy tâm trạng của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai càng làm nổi bật sự lạnh lẽo: "Vu sơn, Vu giáp" là hẻm núi hiểm trở, hùng vĩ, vách dựng đứng khiến ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Vào mùa thu, không khí lạnh lẽo, ảm đạm càng được nhìn qua lăng kính tâm trạng u sầu của nhà thơ. Qua hai câu đầu, cảnh núi rừng mùa thu hiện lên tiêu điều, hiu hắt, khác biệt hoàn toàn với cảnh thu trong thơ ca truyền thống. Chính nỗi đau buồn ấy đã thôi thúc Đỗ Phủ viết nên những vần thơ sâu sắc:
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.
Trong hai câu thơ này, hình ảnh đối lập vô cùng thú vị: sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất. Sự vận động trái chiều và triệt để này tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chao đảo của cảnh vật cũng phản ánh sự chao đảo của xã hội lúc bấy giờ.
Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể, kết hợp lại tạo nên bức tranh thu rộng lớn, vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ. Cảnh vật ấy không chỉ gợi nỗi buồn tê tái mà còn ngầm thể hiện nỗi lo âu của nhà thơ về sự bất ổn nơi biên ải. Cảnh thu ở phần đầu đã khơi gợi tình cảm trong lòng nhà thơ, dẫn đến bốn câu sau thể hiện nỗi nhớ quê và tâm trạng đau đáu về vận nước.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.
Hoa cúc là biểu tượng của mùa thu, mang vẻ đẹp và niềm vui, nhưng trong thơ Đỗ Phủ, nó lại gợi nỗi buồn sâu lắng. Mỗi lần nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại nhớ về những mùa thu ở quê hương, lòng đầy u sầu, nghẹn ngào. Chữ "lệ" trong bài thơ khó phân biệt là nước mắt của người hay của hoa, nhưng có lẽ nên hiểu rằng mỗi lần nhìn hoa cúc, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ quê, nước mắt tuôn rơi không ngăn được.
Hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở gợi lên sự trở đi trở lại của nỗi nhớ quê, cùng những dòng lệ chứa chan ân tình. "Cố chu" - con thuyền cô độc, khi nhìn thấy nó, nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết. Con thuyền trôi nổi, lưu lạc, trở thành phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện trở về quê hương. "Hệ cố viên tâm" - buộc chặt nỗi lòng với quê nhà, như con thuyền trôi về quê hương. Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh tế, hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết.
Hai câu cuối, âm thanh sinh động được lột tả:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.
Cảnh nhộn nhịp may áo rét, tiếng chày đập vải vang động trên sông, chuẩn bị cho mùa đông sắp tới, vẽ lên cuộc sống sinh hoạt vui tươi, nhộn nhịp. Nhưng chính âm thanh ấy lại càng xoáy sâu vào lòng nhà thơ nỗi nhớ quê tê tái, khôn nguôi. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì nữa, chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ đến những người lính nơi quan ải.
Bằng cách sử dụng không gian rộng lớn, từ cao đến thấp, từ xa đến gần, cùng những phép ẩn dụ tinh tế và nghệ thuật đối xứng chặt chẽ, bài thơ đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa hiu hắt. Bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ giàu cảm xúc, cùng việc sử dụng quá khứ để nói về hiện tại, đã làm nổi bật nỗi buồn và nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ.
Bài thơ "Cảm xúc mùa thu" không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn mang ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải sống xa quê hương trong thời loạn lạc. Bài thơ như một lời nhắc nhở chúng ta về tình yêu quê hương và sự trân trọng nơi chúng ta sinh ra và lớn lên.
.............
Tải File tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích Cảm xúc mùa thu
- Viết đoạn văn ngắn (8-10 dòng) bày tỏ cảm nhận và sự yêu thích của em về chim bồ câu - 4 đoạn văn mẫu lớp 8
- Nghị Luận Về Sức Mạnh Của Niềm Tin: Dàn Ý Chi Tiết Và 32 Bài Văn Mẫu Đặc Sắc
- Văn mẫu lớp 8: Đoạn văn nghị luận về quan điểm 'Không ai chỉ đọc tác phẩm một lần là đủ' - Kèm 2 bài mẫu tham khảo
- Văn mẫu lớp 8: Khám phá bản sắc và giá trị của nước Đại Việt qua hai đoạn văn mẫu độc đáo
- Viết đoạn văn kể về giấc mơ đẹp của em - Tuyển tập 4 bài văn mẫu kèm bài tập luyện động từ - Tiếng Việt 4 Cánh diều