Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh - 2 Dàn ý chi tiết & 21 bài mẫu xuất sắc (Kèm sơ đồ tư duy)
TOP 21 bài Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó xuất sắc nhất, đi kèm 2 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp học sinh lớp 9 thấu hiểu phong thái ung dung và tinh thần lạc quan của Bác Hồ.

Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm thơ đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan. Để khám phá sâu sắc giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, mời các em tham khảo 21 bài phân tích Tức cảnh Pác Bó dưới đây từ EduTOPS.
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh
- Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó
- Dàn ý bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (2 mẫu)
- Phân tích Tức cảnh Pác Bó ngắn gọn
- Phân tích Tức cảnh Pác Bó điểm cao
- Phân tích Tức cảnh Pác Bó
- Phân tích bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" (18 mẫu)
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó

Dàn ý bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh
A. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
B. Thân bài
* Cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác ở núi rừng Pác Pó
- Sự đối lập: sáng >< tối, ra><vào diễn tả cuộc sống nhịp nhàng, đều đặn.
- Các món ăn giản dị: cháo ngô với rau măng. Đây đều là những món ăn có sẵn, một cuộc sống tự cung tự cấp, một tâm thế sẵn sàng đương đầu với thử thách.
- Điều kiện làm việc thiếu thốn: bàn đá, nhưng công việc lại vô cùng quan trọng liên quan tới vận mệnh cách mạng Việt Nam.
* Phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của nhân vật trữ tình.
- Dù cuộc sống thiếu thốn nhưng Bác vẫn giữ tinh thần lạc quan, với giọng điệu hóm hỉnh, vui tươi.
- Câu thơ cuối của Bác ám chỉ việc sống giữa thiên nhiên là cái "sang" của thi sĩ.
* Nghệ thuật
- Thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc
- Phép đối lập thể hiện tâm thế và tâm hồn lạc quan của Bác
C. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của bài thơ.
Phân tích Tức cảnh Pác Bó ngắn gọn
Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng kiên trung, bất khuất, Bác còn là một con người hết sức lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt. Những vần thơ hóm hỉnh như:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say
Những vần thơ như vậy xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm của Bác. Đặc biệt trong thời gian đầu cuộc kháng chiến của dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, phải hoạt động nơi rừng núi Cao Bằng, nhưng không vì thế mà tinh thần ung dung, lạc quan bị mất đi. Nó được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Mở đầu bài thơ gợi nên không gian hoạt động bí mật của Người ở Việt Bắc: Sáng ra bờ suối tối vào hang. Câu thơ tạo thành hai vế rất cân đối với nhau, thời gian sáng tối, không gian suối – hang, hoạt động ra – vào, cho thấy nhịp sinh hoạt hết sức nề nếp, đều đặn và hết sức nhịp nhàng của người.
Đồng thời cũng cho thấy không gian hoạt động bí mật và còn hết sức khó khăn. Trong giai đoạn đầu, cách mạng còn non yếu, chưa có thế và lực nên phải hoạt động bí mật và gặp nhiều khó khăn nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại vẫn hết sức ung dung, tự tại. Quy luật vận động đó cũng khẳng định tinh thần làm chủ hoàn cảnh, chủ động, lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Không chỉ khó khăn, thiếu thốn trong không gian sống, mà sự khó khăn ấy còn hiện lên trong cả bữa ăn, nơi làm việc của Bác:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Câu thơ cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan của Bác. Núi rừng thiên nhiên Việt Bắc vẫn luôn sẵn sàng cháo bẹ, rau măng phục vụ cho người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ vừa cho thấy cái gian khổ, khắc nghiệt mà Bác phải đối mặt, nhưng đằng sau đó còn là nụ cười hóm hỉnh của một con người tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hết sức lạc quan yêu đời.
Và hàng ngày Người vẫn ngồi bên bàn đá chông chênh viết Đường cách mệnh, phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Hai chữ chông chênh gợi lên tư thế không chắc chắn, không vững vàng, cho thấy những khó khăn chất chồng của hiện thực cuộc kháng chiến. Nhưng trên nền hoàn cảnh khắc nghiệt đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt lên để hoàn thành nhiệm vụ, để thực hiện nghĩa vụ, lý tưởng cao đẹp của mình, quả đáng trân trọng và khâm phục.
Dù hoạt động cách mạng gian khổ là vậy, nhưng câu kết của toàn bài lại đem đến cho người đọc sự bất ngờ, mà cao hơn chính là cảm phục: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang được hiểu là sang trọng, đầy đủ. Nhưng trong hoàn cảnh của Bác, ăn uống, nghỉ ngơi thiếu thốn trăm bề liệu có thật sang không?
Đối với Bác điều đó không phải sang, mà cái sang nhất ở đây chính là dịch sử Đảng, là được hoạt động cách mạng để thực hiện lý tưởng đẹp đẽ của mình, đem lại độc lập, tự do, cho dân tộc. Giọng điệu thơ tự nhiên, dí dỏm, mà cũng rất khẩu khí, khẳng định tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý tại ngôn ngoại, lời thơ hàm súc cô đọng, cùng với giọng điệu thơ hóm hỉnh, vui đùa đã làm nổi bật lên chân dung người chiến sĩ cách mạng. Đó là một con người mang trong mình phong thái ung dung, lạc quan, mang trong mình lý tưởng cao đẹp, cứu nước, cứu đời.
Phân tích Tức cảnh Pác Bó điểm cao
Nếu nơi đất người Bác phải sống trong gông cùm, khổ lao thì khi trở về quê hương, Bác được là chính mình, được tự do với cuộc sống và lý tưởng cách mạng của mình. Trải qua hết thảy những gian nan, khó nhọc, thời gian đã tôi luyện nên người chiến sĩ ấy những phẩm chất cao đẹp mà ít ai có được. Bài thơ "Tức cảnh Pác Pó" là một bài thơ được viết nên với một tâm hồn và cốt cách đẹp của người nghệ sĩ ấy, đó là một bức tranh đời sống của người cách mạng đầy lạc quan, vui vẻ.
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng"
Cuộc sống thiếu thốn trăm bề, nơi ở cũng không được thoải mái, tù túng. Các từ ngữ "sáng ra-tối vào" diễn tả hoạt động thường xuyên, diễn ra hàng ngày như một nhịp điệu, thói quen. Trong hang tối hoang vu không khiến Người sợ hãi, chốn suối nguồn Bác thật gần gũi với thiên nhiên. Bữa cơm nghèo với thức ăn thật đạm bạc, bình dân "cháo bẹ- rau măng", hai từ "sẵn sàng" gợi sự đủ đầy, không thiếu thốn. Giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa, cái nghèo, cái khó dường như được xua tan đi mà thay vào đó là sự hài lòng, thoải mái, ung dung và thú vị với những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống và công việc của chính mình. Dường như, ở Bác vẫn luôn là một con người với cảm quan tin yêu, lòng tha thiết với thiên nhiên, xem thiên nhiên là tri kỉ bởi vậy mà trong hoàn cảnh nào Người cũng thích nghi được.
"Bàn ghế chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sáng"
Điều kiện làm việc cũng thật khó khăn, bàn ghế "chông chênh" tạo thế không vững vàng, chắc chắn, song Bác vẫn tập trung miệt mài với công việc cao cả của cuộc đời mình "dịch sử Đảng". Một tâm thế vô cùng vững vàng, bản lĩnh trong Bác, vật chất tầm thường không làm cho ý chí bị lung lay. Câu thơ như khắc họa hình ảnh bức chân dung của Người cách mạng đang ngồi bên bàn làm việc giữa núi rừng hoang sơ, trầm ngâm nghĩ suy về vận mệnh dân tộc, về con đường cứu nước cứu dân thật uy nghi và lớn lao biết bao. Cuối bài thơ là lời khẳng định sắt son về cuộc đời cách mạng, trong niềm tin của Người, không một thời khắc nào là không lo nghĩ cho dân tộc, bởi vậy mà với Bác, lý tưởng cách mạng là lý tưởng "sang" nhất.
Khép lại bốn dòng thơ, ta thấy lòng mình như lắng lại. Bác Hồ, một con người với lối sống thanh cao, bình dị, một con người suốt đời mình cống hiến cho dân tộc, một con người với niềm thương nhân dân thiết tha khiến ta không khỏi cảm phục. Càng trong thiếu thốn càng ánh lên tinh thần lạc quan vô bờ trong tâm hồn Bác, càng trong gian nan, càng thấy nghị lực phi thường của người cách mạng.
Với những hình ảnh bình dị, ngôn ngữ nhẹ nhàng, tự nhiên, giọng điệu vui tươi hóm hỉnh, Bác đã viết nên những vần thơ đẹp và gợi lên bao xúc cảm trong lòng người thưởng thức. Ở Người, ta học được bao điều đẹp đẽ về những lẽ sống cao đẹp trong cuộc đời.
Phân tích Tức cảnh Pác Bó
Một ngày xuân năm 1941, “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”, lãnh tụ cách mạng - anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cuối cùng cũng trở về Việt Nam để trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Người chọn Pác Bó (Cao Bằng) làm căn cứ địa kháng chiến, biến nơi đây thành cội nguồn của cách mạng nước nhà. Hồ Chí Minh không chỉ có sự nghiệp chính trị vẻ vang mà còn có một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Văn chương là vũ khí đấu tranh, là áo giáp bảo vệ, đồng thời cũng là thú vui tao nhã lúc rảnh rỗi. Trong những ngày sống và làm việc tại Pác Bó, dù hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đủ đường, cách mạng nước ta còn non trẻ, nhưng Bác vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời, phong thái ung dung. Tác phẩm Tức cảnh Pác Bó ra đời trong hoàn cảnh ấy chính là minh chứng cho tấm lòng yêu thiên nhiên và sự nghiệp cách mạng của Người.
Ở hai câu thơ đầu tiên, Bác đã tái hiện lại hoàn cảnh sống và sinh hoạt của mình tại Pác Bó với giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng đã sẵn sàng”
Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhưng đúng với phong cách thơ tứ tuyệt, lời ít ý nhiều, không gian sinh hoạt và làm việc của Bác đã được gợi mở một cách rõ ràng. Các hình ảnh “bờ suối”, “hang” vốn là những hình ảnh xa lạ đối với chúng ta hiện nay, nhưng với Bác, đó là những hình ảnh gắn bó, gần gũi và thân thuộc nhất. Cuộc sống của Bác bắt đầu với việc buổi sáng ra suối tắm giặt, làm việc bên bờ suối, đến tối thì hang là nơi nghỉ ngơi, dưỡng sức sau một ngày dài vất vả. Đó là một cuộc sống không dễ dàng, nhưng Hồ Chí Minh lại không cho là vậy. Trước hoàn cảnh vất vả, Người học cách thích nghi, sống chan hòa với thiên nhiên. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai vế tiểu đối “sáng ra bờ suối/tối vào hang” gợi lên sự nhịp nhàng, nề nếp của cuộc sống sinh hoạt. Nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh ấy có một phong thái ung dung, nhẹ nhàng, dù lưng gánh bao nhiêu trọng trách, tâm hồn vẫn thảnh thơi, coi nhẹ sự gian khổ của đời cách mạng.
Không chỉ về điều kiện sinh hoạt, mà ngay cả thức ăn đồ uống ở nơi núi rừng Pác Bó cũng rất thiếu thốn. Quanh năm Người chỉ ăn “cháo bẹ, rau măng” để no bụng. Đó là thứ thức ăn nhạt vị, ít chất dinh dưỡng, nhưng khi vào thơ của Hồ Chủ tịch, thái độ của Người với hai thứ “cháo bẹ, rau măng” khiến người ta thêm kính trọng. Bác viết “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”, mấy chữ “vẫn sẵn sàng” có nhiều điều cần phân tích. Thứ nhất, nó nói lên tâm thế của Hồ Chủ tịch khi đứng trước điều kiện sinh hoạt thiếu thốn. Dù phải ăn bắp, ăn măng trường kỳ, Người chưa từng chê bai, bởi Người hiểu rõ gian khó của nước nhà. Nhân dân không có cơm ăn, thì Người ăn cháo bẹ rau măng cũng chẳng có gì để than vãn. Hồ Chí Minh khi đứng trước hai thức ấy, vẫn sẵn sàng ăn một cách vui vẻ, ngon lành, thậm chí thấy đó là một cái thú của người làm cách mạng, sống ở rừng thì ăn sản vật của rừng núi, chan hòa với thiên nhiên, còn gì quý hóa hơn thế nữa. Một ý thứ hai về mấy chữ “vẫn sẵn sàng”, đây cũng có thể được xem là lời khen kín đáo của Bác về sự dồi dào măng, bắp của căn cứ địa Pác Bó. Làm cách mạng ở đây, người chiến sĩ chẳng bao giờ lo đói, bởi lúc nào cũng có sẵn bắp, sẵn măng để ăn thoải mái.
Có thể thấy Hồ Chí Minh sống chan hòa, gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống đạm bạc như vậy rất có phong vị của các bậc hiền nhân thời xưa, có thể ví với Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi đức tính thanh cao, giản dị, rất biết thưởng thức cái thú với hoa lá, cỏ cây. Nhưng Người không giống như các bậc hiền triết thời xưa, thích tìm chốn hoang vu, không người để tận hưởng cuộc sống an nhàn không màng thế sự, xa lánh cuộc đời, hay ôm nỗi đau bất đắc chí mà trốn tránh thế nhân,... Người sống với tư cách là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, ý thức trách nhiệm với dân tộc khiến Người luôn cố gắng. Chính vì vậy, trong các hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, tâm hồn lạc quan và phong thái ung dung biết thưởng thức đã giúp Người khuây khỏa, ý chí chiến đấu từ đó lại càng trở nên mạnh mẽ. Tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ hòa vào làm một, càng khiến cho sự nghiệp cách mạng của Người thêm vẻ vang, rực rỡ. Và hai câu thơ tiếp theo đã cho thấy tấm lòng tha thiết của Người đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Sống giữa cảnh đơn sơ, giản dị, nhiều vất vả, khó khăn, tấm lòng sâu nặng với cách mạng của Hồ Chí Minh càng được bộc lộ rõ ràng. Hình ảnh “bàn đá chông chênh” không chỉ cho chúng ta thấy được hoàn cảnh làm việc thiếu thốn, khó khăn, mà còn mang đến cảm giác không vững vàng, có nhiều thiếu hụt. Điều đó gợi ra tình thế của cách mạng Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Đảng ta mới thành lập, còn non trẻ, lực lượng quân đội yếu kém, thiếu thốn mọi mặt cả về cơ sở vật chất lẫn lương thực thực phẩm. Chúng ta chỉ có nhiều nhất là tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bấy nhiêu ấy khiến người đứng đầu trực tiếp chỉ huy cách mạng là Hồ Chủ tịch có nhiều lo lắng. Thế nhưng, người chiến sĩ cách mạng, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam ta có lúc nào nao núng? Người vẫn một lòng “dịch sử Đảng”, một lòng lãnh đạo nhân dân ta tiến về phía trước bằng toàn bộ khối óc và thân thể, luôn vững vàng tư tưởng, kiên trì trong tranh đấu, chưa một phút nào buông lỏng. Dù có nhiều khó khăn chồng chất, từ điều kiện sống cá nhân đến điều kiện cách mạng của dân tộc, tấm lòng Hồ Chí Minh giữa núi rừng Tây Bắc dành cho cách mạng vẫn luôn sáng rõ và tươi đẹp: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Người ý thức rằng, mình sinh ra là để làm cách mạng, để đóng góp một phần công sức giành lại nền độc lập của dân tộc mà mấy trăm năm nay cha ông đã đổ máu xương để gìn giữ. Với Hồ Chí Minh, chẳng sự nghiệp nào, chẳng lý tưởng nào lúc này “sang” hơn lý tưởng cách mạng, lý tưởng cứu quốc nữa. Người ca ngợi cách mạng, đồng thời cũng thể hiện lòng tự hào, tấm lòng tha thiết không đổi với cách mạng của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà trí thức tiến bộ, một nghệ sĩ có tâm hồn thanh cao, giản dị. Như vậy, có thể thấy rằng trái ngược với “bàn đá chông chênh” đầy thiếu thốn, thì với Bác “cuộc đời cách mạng thật là sang”, thật đầy đủ, thật giàu có. Sự sung túc, giàu có ấy ngự trị trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng. Người giàu có nhất là lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng, và tinh thần lạc quan, yêu đời, gắn bó tha thiết với thiên nhiên. Có thể thấy, những dòng thơ đầu là phong thái ung dung, đủng đỉnh, thì đến câu thơ cuối chính là tiếng cười hóm hỉnh, tươi vui của Bác, vượt lên trên tất cả gian khó, vang vọng khắp núi rừng.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hay và sâu sắc của Bác trong quá trình hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Với giọng thơ vui tươi, lạc quan, ngôn ngữ giản dị, ở đó ta không chỉ thấy hiện lên một Hồ Chí Minh với phong thái ung dung, tự tại, sống chan hòa với thiên nhiên, mà còn thấy hình ảnh một chiến sĩ cách mạng hết lòng vì Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng sâu sắc, cùng một tâm hồn thanh cao, giản dị vô cùng.
Phân tích bài thơ "Tức cảnh Pác Bó"
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 1
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại và cũng là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Với hình ảnh của chính mình - người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến, Bác đã mang đến cho bạn đọc góc nhìn, khía cạnh vô cùng lạc quan trong hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống của Bác ở Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
“Sáng ra - tối vào” là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở trong hang với nhiều mối đe dọa nguy hiểm. Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vị, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.
Cuộc sống tuy có khó khăn là thế nhưng không ảnh hưởng được đến sự chuyên tâm của Bác dành cho cách mạng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của Người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này. Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lý tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.
Cuộc sống của Bác hiện lên vô cùng giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tươi đẹp, lạc quan. Trong những hoàn cảnh khó khăn, éo le nhất, Bác vẫn biết cách khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 2
“Người lãnh tụ, nhà nghệ sĩ
Của mỗi người của cả trăm quê
Trái tim lớn đập hoài không nghỉ
Những buồn vui, căm giận, say mê ...”
(Giang Nam)
“Buồn vui, căm giận, say mê ...” của Bác xuất phát từ lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc nồng nàn. Bác hoạt động chính trị (người lãnh tụ), và làm thơ (nhà nghệ sĩ) cũng là để thể hiện lòng yêu thương cao cả ấy. Nhiều lúc cả hai công việc như hòa làm một trong con người Bác. Điều ấy đã được chứng tỏ ở những bài thơ Người sáng tác ở núi rừng Việt Bắc khi từ nước ngoài về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước mà bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một ví dụ.
Bài thơ được làm theo thể Đường luật tứ tuyệt vời đúng niêm luật của thể loại thơ này. Mở đầu là câu Khai, nhà thơ viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Câu thơ giới thiệu thời gian, nơi chốn và việc thường làm được ngắt nhịp 4/3 bằng dấu phẩy một cách rõ ràng, dứt khoát. Đọc câu thơ ta có cảm giác ngày ngày, mỗi sáng mỗi tối nhà thơ đều lặp lại hành vi “ra, vào” ấy. Tại sao?
Bác đang trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Công việc của một lãnh tụ chính trị không giống công việc của một nhà thơ, nhất là với một lãnh tụ chính trị đang hoạt động chống lại tập đoàn thống trị để giành lại độc lập, tự do cho nước cho dân.
Tất yếu là lãnh tụ phải làm nhiều công việc đúng với vai trò lãnh đạo phong trào. Nhưng thuở ban đầu cơ ngơi không có, Để tránh bị truy lùng, Bác tìm nơi hiểm trở để đặt cơ quan đầu não cho hoạt động ban đầu. Công việc của lãnh tụ phần lớn là vạch đường lối, kỷ cương, kế hoạch,... Ánh sáng để làm việc và an toàn trong hoạt động cách mạng là ý nghĩa sâu xa của “Sáng ra, tối vào” ở câu Khai.
Nếu câu Khai giới thiệu thời gian, nơi chốn để làm việc và nghỉ ngơi thì ở câu Thừa nhà thơ giới thiệu bữa ăn hàng ngày của mình: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Hai món trong một bữa: cháo ngô (bắp, bẹ), và rau măng. Nhưng không chỉ là một bữa mà là mọi bữa.
Cụm từ “vẫn sẵn sàng" gợi cho người đọc cảm nhận đó. Ấy là bữa ăn để nuôi mạng sống mà người dấn thân phải chấp nhận. Ngày trước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi khi dấy nghĩa ở Lam Sơn cũng có lúc lâm vào hoàn cảnh:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội
Cực khổ từ miếng cơm manh áo, nơi ăn chốn ngủ nhưng Hồ Chí Minh vẫn: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Một cách hiểu giản dị, nôm na là không có cả bàn để làm việc, dù là một việc quan trọng là dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để làm tài liệu học tập tư tưởng cho cán bộ cách mạng thời bấy giờ. Không có bàn ư? Thì lấy đá làm bàn. Thử tưởng tượng hình ảnh Bác say sưa làm việc bên cái bàn “chông chênh” ấy để thấy rõ tính nghệ sĩ lẫn sự say mê công việc của Người! Câu chuyện của bài thơ có ý nghĩa như thế!
Dinh thự của một lãnh tụ chỉ là cái hang bên bờ suối, thức ăn mỗi bữa thuần là “cháo bẹ, rau măng, chỗ làm việc là bàn đá chông chênh ” bên suối, vậy mà Bác vẫn cho rằng: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Câu hợp của bài thơ phảng phất phong thái của các chí sĩ thuộc thế hệ trước. Chuyện tù đày gian lao với Phan Bội Châu thì:
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Còn với Phan Chu Trinh thì:
Gian nan chỉ kể chuyện con con.
Ấy là tâm trạng lạc quan trước nguy hiểm, tù đày, gian khổ của những người chấp nhận dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là con đường đầy nước mắt, đầy máu; là cái giá phải trả để có được độc lập và tự do. Không mang tâm trạng lạc quan trước gian khổ, nguy hiểm thì ít ai thành công, thành danh được.
Trước cái chết vẫn lạc quan không run sợ thì sống với “cháo bẹ, rau măng” cũng đã sang lắm rồi! Ngày trước, sau khi thôi làm quan, Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn tìm vui với trúc, thông và với suối mát. Trong:
Nghìn mẫu xanh chen chúc
Ta đủng đỉnh ngâm dưới gốc
Hỏi ai sao chẳng sớm quay về
Nửa đời vui mãi trong lầm tục
Muôn chung chín vạc để làm gì?
Cũng là vui thú lâm tuyền nhưng cái vui của Hồ Chí Minh khác xa cái vui của Nguyễn Trãi. Khái quát về sự khác biệt ấy là: với Nguyễn Trãi, vui thú lâm tuyền sau khi đã hoàn thành sự nghiệp khởi nghĩa chống quân nhà Minh, sau đó làm quan, và rồi xa lánh đời “lầm tục”; còn với Hồ Chí Minh thì vui thú lâm tuyền lúc mới khởi nghĩa chống Pháp, đang trực tiếp lãnh đạo các lực lượng chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tức cảnh Pác Bó, một bài thơ tứ tuyệt có ngôn ngữ giản dị; dễ hiểu và gợi những hình ảnh rõ ràng về sự khó khăn, gian khổ trong những ngày đầu cách mạng của một lãnh tụ. Âm điệu của bài thơ, nhất là những từ cuối của mỗi câu kết hợp với ngữ nghĩa của toàn bài khiến người đọc cảm nhận được sự thoải mái, chấp nhận cảnh sống khó khăn lúc bấy giờ vì lý tưởng cao quý mà nhà thơ đang cố thực hiện. Hẳn nhiều người đọc cũng học được bài học lạc quan ở bài thơ này.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 3
Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.
Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.
Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra… đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.
Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập… tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng… hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
hoặc:
Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó
(Nguyễn Trãi)
Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.
Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, chan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.
Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc dĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.
Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.
Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.
Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:
Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần vần,
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.
Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.
Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hòa vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang! Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.
Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.
Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 4
Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường đi cho cách mạng nước nhà đến năm 1941 Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Giữa lúc này tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển to lớn. Tại đây Người đã triệu tập cuộc họp bộ chính trị quan trọng để tính toán đường đi nước bước cho cách mạng. Nơi ở của Người là hang Pác Bó. Và bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng ra đời trong chính hoàn cảnh đó.
Hang Pác Bó hay còn có tên gọi khác là Cấn Bó nghĩa là đầu nguồn. Sau khi về nước Bác chủ yếu sinh sống và làm việc tại đây, nơi có điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn vất vả.
Kể lại những ngày tháng đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng có chia sẻ: “ Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng là nơi có địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và sâu trong rừng bên ngoài là những cành lau. Những khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng Người thức dậy thấy con rắn rất lớn nằm khoanh tròn cạnh người. Sức khỏe Người vì thế có phần giảm sút. Bệnh sốt rét diễn ra liên miên cũng không có thuốc trị chỉ có vài cành lá sắc theo mẹo của người dân địa phương.
Có thời gian chuyển sang vùng Mán Trắng gạo cũng chẳng có ăn Bác và các đồng chí phải ăn cháo bẹ cả tháng ròng rã. Thế nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác cũng thích ứng rất nhanh chưa bao giờ kêu khó ngại khổ. Thậm chí còn thấy Bác vui hơn bao giờ hết vì cuối cùng sau bao nhiêu năm xa quê hương Người đã được trở về sống với lí tưởng vĩ đại của dân tộc, với cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.
Chẳng vì thế mà bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó được viết với một tâm thế vui đùa hóm hỉnh, vui tươi. Ngoài việc nêu lên một hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn khắc nghiệt đằng sau đó còn là cả một trạng thái hết sức thoải mái và lạc quan phơi phới.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi toát lên sự nhịp nhàng nề nếp theo một quy luật nhất định. Sáng ra bờ suối tối lại vào. Thể hiện một giờ giấc sinh hoạt rất đều đặn của Người.
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Nếu câu thơ thứ nhất nói về quy luật sinh hoạt thì câu thơ thứ hai lại nói về bữa ăn của Bác. Chỉ có cháo bẹ và rau măng. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản thì thức ăn ở đây như cháo bẹ và rau măng lúc nào cũng sẵn sàng. Còn nếu muốn hiểu theo cách khác có thể hiểu là dù trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần cách mạng luôn luôn sẵn sàng. Tuy nhiên đối chiếu với nét vui đùa hóm hỉnh ở trên thì có lẽ cách hiểu thứ nhất có vẻ hợp lí hơn rất nhiều.
Câu thơ thứ nhất nói về sinh hoạt, thì câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về công việc. Cả ba câu thơ đều là những câu thơ miêu tả cuộc sống chân thực tạo nên một sự hài hòa cho tứ thơ.
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Ở đây ta cần chú ý đến cách gieo vần độc đáo của Người. Gieo vần ang vừa khỏe khoắn lại vừa tạo được tiếng vang xa tạo nên một cảm giác vô cùng vững vàng và vững chắc. Từ láy chông chênh là từ láy duy nhất trong bài nhưng không hề tạo nên một thế khấp khểnh thiếu vững chắc mà ba chữ cuối “Dịch sử Đảng” với những âm chắc nịch khỏe khoắn và gân guốc như làm hài hòa cả ba câu thơ.
Đến câu thơ này ta cũng có thể đoán ra chủ thể của bài thơ là ai và làm công việc gì. Đó không phải là một vị khách lâm tuyền an nhàn mà là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại mang tính vận mệnh của quốc gia dân tộc. Chủ thể không hề bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của tất cả. Hơn thế nữa nó còn tô đậm hình tượng người chiến sĩ Cách mạng giữa một khung cảnh đơn sơ giản dị cũng giống như sự nghiệp cách mạng vậy.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh:
“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”
Chữ “sang” có thể coi là đắt giá nhất trong bài. Đó chính là cảm nhận xuất phát từ trái tim của người chiến sĩ cách mạng. Với Người dù bao khó khăn gian khổ cũng chẳng là gì bởi đã dấn thân vào con đường này thì không bao giờ biết sờn lòng nản chí. Cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng nay đây mai đó nhưng vẫn luôn làm chủ hoàn cảnh và cuộc đời. Chữ sang cũng chính là chốt làm bừng sáng giá trị của toàn bài.
Có thể nói Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm vô cùng giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Nó mang tính thời đại và vận mệnh lớn. Không hề xa hoa ở câu chữ nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm nhận vô cùng độc đáo và thoải mái.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 5
Bác Hồ không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Bác còn là một đại thi gia của dân tộc. Những tác phẩm mà người để lại cho kho tàng văn học dân tộc tuy không cầu kì, chau chuốt nhưng đều là những viên ngọc quý không thể thay thế, là niềm tự hào của nước nhà. Một trong số những bài thơ như thế là “Tức cảnh Pác Bó” được viết vào tháng 2 năm 1941, tại hang Pác Bó (Cao Bằng), khi Người trở về Việt Nam hoạt động và làm việc sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài.
Đến với bài thơ ta đã nhận thấy một sự vô tư từ ngay trong cách diễn đạt:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng chia câu thơ làm hai vế cân xứng như là một lời kể tự nhiên về nhịp sống thường ngày của Bác nơi núi rừng Pác Bó. Hoạt động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm, Bác vốn đã quen với một nếp sống có kỉ luật, ở tại hang Pác Bó cũng vậy, Bác sinh hoạt và làm việc điều độ theo thời gian phân bố. Sáng thì ra suối, để sinh hoạt, để làm việc rồi đến tối trở về hang để nghỉ ngơi. Bác sinh hoạt có nề nếp và đồng thời ăn uống cũng đạm bạc:
“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe thì có vẻ như gợi ra một sự đủ đầy, muốn là có ngay mà không hề thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực chất, bữa cơm hàng ngày của người chỉ có bẹ chuối và măng rừng, những thức rất đỗi giản dị, nếu không muốn gọi là kham khổ. Ở nơi núi rừng Pác Bó này không thể tìm đâu ra một thứ gì tốt hơn là cháo bẹ, là rau măng, điều này đã chứng tỏ Bác đang phải làm việc và sinh hoạt trong một hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, ăn uống chỉ có thể gọi là đủ no. Nhưng những khó khăn ấy lại được Hồ Chủ Tịch thốt lên bằng giọng nhẹ nhàng sảng khoái chứng tỏ, Bác đối với những khó khăn vật chất tầm thường đều không coi là quan trọng. Đối với Bác, việc quan trọng nhất lúc này là dân, là nước, là đánh đuổi quân xâm lược:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng quay về nước, Bác Hồ vẫn ngày ngày tiếp tục con đường tìm ánh sáng cho dân tộc. Trong cái lạnh của núi rừng, trong sự thiếu thốn của vật chất, trên một chiếc bàn đá không mấy chắc chắn, Người đang tỉ mẩn dịch lịch sử Đảng Cộng Sản Liên Xô làm tài liệu cho các chiến sĩ cách mạng học tập. Hai hình ảnh đối lập, một bên là chiếc bàn đá “chông chênh” bấp bênh, không chắc chắn với một bên là công việc trọng đại mà Bác đang làm: mở đường cho tri thức cách mạng đến với những người chiến sĩ cách mạng. Điều này càng làm nổi bật lên sự thiếu thốn trong hoàn cảnh sống và làm việc của Bác đồng thời nổi bật được trọng trách to lớn mà Bác đang gồng gánh trên vai. Sau bao nhiêu những khó khăn về vật chất, những điều quan trọng phải làm, Bác Hồ đã kết thúc bài thơ:
"Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Chỉ một từ “sang” làm cho tư tưởng bài thơ vụt sáng. Phải chăng người đọc thắc mắc vì sao Bác gọi cuộc đời cách mạng gian khổ là “sang”. Cái sang ở đây không phải là cái sang về vật chất mà là giàu có về rất nhiều điều khác. “Sang” là ở một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, tuy không xa hoa nhưng giản dị, hòa hợp với thiên nhiên khiến cho tâm hồn tươi tắn thanh thản. “Sang” ở đây là một tấm lòng hạnh phúc khi được hoạt động và làm việc vì nhân dân, vì đất nước, làm công việc có ý nghĩa cho cuộc đời. “Sang” ở đây là tuy thiếu về vật chất nhưng tinh thần thì luôn tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.
Với lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng thơ sảng khoái mang đầy tinh thần lạc quan, Hồ Chủ Tịch đã cho ta thấy cái “thú lâm tuyền” của Người nhưng không phải là cái thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong” mà là sự tao nhã, hòa hợp với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ Chí Minh, niềm vui hòa hợp với thiên nhiên vẫn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc đời hoạt động sôi nổi không ngừng nghỉ vì dân vì nước.
Bài thơ là sự diễn tả những hoạt động thường nhật của Bác Hồ trong những ngày hoạt động cách mạng ở hang Pác Bó, Cao Bằng. Qua bài thơ, hình ảnh Bác Hồ trong lòng người đọc càng thêm đẹp, thêm sáng lấp lánh trong sự giản dị, lạc quan, tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng và tài năng thơ ca tuyệt diệu. Nhân cách cao khiết của Người còn sáng mãi trong lòng mọi con dân nước Việt.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 6
Bác Hồ từng khẳng định: "Tôi chỉ có một khát khao, khát khao cháy bỏng là làm sao để đồng bào ta ai cũng có cơm no áo ấm, ai cũng được học hành". Chính khát vọng ấy đã thôi thúc Người vượt qua mọi gian khổ trong hành trình cách mạng. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" là minh chứng rõ nét cho tinh thần ấy. Tác phẩm không chỉ phản ánh cuộc sống đầy khó khăn mà còn toát lên tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác. Dù thiếu thốn vật chất, tâm hồn Người vẫn ngập tràn tình yêu thiên nhiên và niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng.
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang."
Sau gần ba thập kỷ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2 năm 1941, Bác trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Người sống và làm việc trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ tại hang Pác Bó, một hang núi nhỏ thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Dù vậy, Bác vẫn giữ phong thái ung dung, thể hiện ý chí kiên cường và lòng yêu nước sâu sắc:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang"
Câu thơ mang nhịp điệu nhẹ nhàng, hài hòa, phản ánh nếp sống đều đặn của Bác. Mỗi sáng, Người ra bờ suối làm việc, hòa mình vào thiên nhiên với tiếng suối róc rách và phiến đá gần đó. Khác với các bậc hiền triết xưa, Bác luôn dành trọn tâm trí cho dân, cho nước. Đến tối, Người trở về hang nghỉ ngơi. Cuộc sống giản dị, bình yên ấy ẩn chứa sự kiên cường khi Bác phải đối mặt với cái lạnh giá của núi rừng và không gian chật hẹp, ẩm ướt của hang đá. Câu thơ thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, đồng thời toát lên tinh thần lạc quan của Bác.
Câu thơ thứ hai khắc họa bữa ăn đơn sơ, thanh đạm của Người:
"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng"
Những món ăn dân dã như cháo bẹ, rau măng là sản vật dễ tìm nơi núi rừng Pác Bó. Không cần sơn hào hải vị, Bác vẫn hài lòng với cuộc sống giản dị. Từ "sẵn sàng" không chỉ thể hiện sự sẵn có của thức ăn mà còn phản ánh tinh thần sẵn sàng đối mặt với khó khăn của Người. Câu thơ mang đến nét hóm hỉnh, cho thấy Bác không than vãn mà chấp nhận cuộc sống như một lẽ tự nhiên.
Nếu câu thơ đầu nói về sinh hoạt, câu thơ thứ hai miêu tả bữa ăn, thì câu thơ thứ ba khắc họa hình ảnh Bác làm việc:
"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"
Không phải một chiếc bàn làm việc tiện nghi, Bác dùng phiến đá chông chênh để dịch sử Đảng. Cách gieo vần "ang" tạo cảm giác mở rộng, vững chãi, đồng thời thể hiện sự kiên định trong công việc. Từ láy "chông chênh" kết hợp với cụm từ "dịch sử Đảng" tạo nên sự cân bằng, vừa gợi hình ảnh vừa thể hiện tinh thần cách mạng kiên cường. Hình ảnh Bác hòa hợp với thiên nhiên, vừa là nhà thơ, vừa là chiến sĩ cách mạng vĩ đại, làm nổi bật tầm vóc của vị lãnh tụ dân tộc.
Dù cuộc sống nơi Pác Bó còn nhiều thiếu thốn, tinh thần và ý chí của Bác vẫn vững vàng:
"Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Không cần vật chất xa hoa, Bác tìm thấy sự giàu có trong cuộc sống giản dị. Từ "sang" kết thúc bài thơ như một nhãn tự, khẳng định giá trị tinh thần cao quý của cuộc đời cách mạng. Bài thơ không chỉ truyền cảm hứng về tinh thần lạc quan mà còn khắc họa hình ảnh một vị lãnh tụ vĩ đại, luôn vững vàng trước mọi thử thách.
Thơ của Bác Hồ là sự kết hợp hài hòa giữa sự giản dị và chiều sâu tư tưởng, vừa gắn bó với thiên nhiên lại luôn song hành cùng sứ mệnh cách mạng. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" không chỉ mang đậm nét cổ điển mà còn phản ánh tinh thần thời đại, thể hiện ý chí kiên cường, niềm tin mãnh liệt và tinh thần lạc quan của Người. Qua đó, chúng ta càng thêm kính phục và hiểu sâu sắc hơn về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 7
Tinh thần lạc quan và phong thái ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh là nét đặc trưng nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là vũ khí giúp Người vượt qua mọi gian khó mà còn là nguồn sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Thơ của Bác chính là tấm gương phản chiếu phẩm chất cao quý của một chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó", sáng tác vào tháng 2 năm 1941 tại núi rừng Pác Bó, là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách ấy:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Trong thời gian này, Bác trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Dù sống trong điều kiện thiếu thốn: "Cháo bẹ rau măng", làm việc trên "bàn đá chông chênh", bài thơ vẫn toát lên niềm vui và sự hóm hỉnh của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới mục tiêu cao cả: giải phóng dân tộc.
Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Chỉ với bảy chữ, câu thơ đã khéo léo khắc họa thời gian ("sáng", "tối"), không gian ("bờ suối", "hang") và hành động ("ra", "vào"). Cách sắp xếp trật tự câu thơ không chỉ tạo nhịp điệu mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của Bác. Nếu đảo ngược thành "Tối vào hang, sáng ra bờ suối", ý nghĩa sẽ khác hẳn. Trật tự hiện tại cho thấy sự vận động tuần hoàn của thời gian, phản ánh thái độ tích cực của Người.
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Với trật tự này, cảnh vật như được nhân hóa, vận động theo nhịp sống của con người. Điều này giải thích tại sao ta bắt gặp thái độ "vẫn sẵn sàng" của Bác trong câu thơ tiếp theo:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Thơ tứ tuyệt vốn đề cao sự cô đọng, súc tích, và bài thơ này đã đạt đến đỉnh cao với cụm từ "vẫn sẵn sàng". Đây không chỉ là lời thơ giản dị mà còn là triết lí sống, thể hiện thái độ ung dung trước cuộc sống kham khổ. Bác chấp nhận "cháo bẹ rau măng" với tinh thần lạc quan, coi đó như một phần tất yếu của cuộc đời cách mạng.
Câu thơ gợi nhớ đến triết lí "quân tử ăn chẳng cần no" của người xưa. Tuy nhiên, khác với các bậc hiền triết, Bác không chỉ an phận mà luôn hành động vì một lí tưởng cao cả. Những bài thơ như "Pha trò", "Ghẻ", "Dây trói" trong "Nhật kí trong tù" đã chứng minh tinh thần ấy, khi Bác đối mặt với gian khổ bằng sự hóm hỉnh và lạc quan.
Khác với người xưa với triết lí "An bần lạc đạo", Bác Hồ là một con người của hành động, luôn hướng tới mục tiêu cao cả:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Làm việc trong điều kiện thiếu thốn, Bác dùng đá làm bàn, và chiếc bàn ấy lại "chông chênh". Chi tiết này không chỉ gợi sự ngộ nghĩnh mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, khả năng tìm thấy niềm vui trong gian khó. Đó chính là phong cách sống và làm việc của một vị lãnh tụ vĩ đại.
Bài thơ kết thúc:
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng ý tứ lại vô cùng sâu sắc. Nếu hai câu đầu toát lên thái độ "vẫn sẵn sàng" thì câu kết lại chứa đựng sức nặng của toàn bài, đặc biệt là cụm từ "thật là sang!". Đây là cách nói vui, phóng đại, thể hiện chất hài hước thường thấy trong thơ và cuộc sống đời thường của Bác. Chính sự hài hước ấy đã làm nổi bật tinh thần lạc quan cách mạng, tạo nên sức sống mãnh liệt cho bài thơ.
"Tức cảnh Pác Bó" là một bài thơ giản dị mà đầy chiều sâu. Tác phẩm không chỉ thể hiện đạo lí sống cao đẹp mà còn mang đến sự chân thật, tự nhiên, không cầu kì hoa mĩ. Giọng điệu thơ gần gũi như lời nói hàng ngày, khiến ta có cảm giác Bác không cố làm thơ, nhưng những vần thơ ấy lại in đậm trong tâm trí người đọc. Sức sống bền bỉ của bài thơ chính là ở sự chân thành và giản dị ấy.
Bài viết số 7 đề 5 - Mẫu 8
“Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại.” Câu hát ấy đã vang lên qua bao thế hệ, khắc sâu hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh, người “chỉ biết quên mình vì hết thảy”, không chỉ được tôn vinh là nhà lãnh đạo kiệt xuất mà còn là một Danh nhân Văn hóa thế giới. Người không chỉ là nhà cách mạng lỗi lạc, nhà tư tưởng lớn, mà còn là một nhà văn, một thi sĩ tài hoa. Trong “Nhật kí trong tù”, Bác từng bộc bạch:
“Ngâm thơ ta vốn không ham”.
Dù chưa một lần tự nhận mình là thi sĩ, Bác vẫn để lại cho nền văn học Việt Nam một gia tài văn chương đồ sộ. Trong đó, bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Bác Hồ trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người sống trong hang Pác Bó, một hang núi nhỏ gần biên giới Việt-Trung. Trước cửa hang, Bác chọn một phiến đá gồ ghề làm bàn làm việc, bên cạnh dòng suối trong vắt được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác viết bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”, phản ánh cuộc sống kham khổ những ngày đầu kháng chiến, đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu mở đầu khắc họa cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác tại Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Nhịp thơ 4/3 chia câu thành hai vế đối chỉnh: “Sáng ra bờ suối” đối với “tối vào hang”. Thời gian “sáng” đối “tối”, hành động “ra” đối “vào”, không gian rộng mở “bờ suối” đối với không gian chật hẹp “hang”. Nghệ thuật đối kết hợp với ngôn ngữ giản dị đã vẽ nên một cuộc sống bí mật nhưng vẫn đầy nề nếp. Giọng thơ thoải mái, ung dung, thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Phải chăng, đó là tâm hồn của một người yêu thiên nhiên, luôn đắm say trước vẻ đẹp của tạo hóa, ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
Nếu câu thơ đầu tiên khái quát cuộc sống tại Pác Bó, thì câu thơ thứ hai tiếp tục làm rõ những ngày tháng giản dị và đầy khó khăn ấy:
“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
Câu thơ được viết bằng bút pháp tả thực, miêu tả những món ăn đơn sơ hàng ngày của Bác. Cách diễn đạt hóm hỉnh khiến câu thơ ánh lên nét cười. Cháo bẹ, rau măng tuy đạm bạc nhưng chứa đựng tình cảm sâu sắc, vừa là quà tặng từ thiên nhiên, vừa là tấm lòng của người dân. Thưởng thức những món ăn ấy, Bác thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với nhân dân và thái độ coi thường gian khổ. Phải chăng vì thế mà sau này, Người đã dạy thế hệ trẻ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”?
Hai câu thơ đầu miêu tả cuộc sống sinh hoạt, câu thơ thứ ba lại khắc họa công việc cách mạng của Bác:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Từ láy “chông chênh” không chỉ gợi lên hình ảnh một bàn đá không vững chãi, mà còn là biểu tượng cho những khó khăn, gian khổ của cuộc cách mạng nhân dân ta trong buổi đầu. Đó cũng là hình ảnh chân thực về hòn đá Bác chọn làm nơi làm việc bên dòng suối trong vắt, được Người đặt tên là suối Lê-nin. Cuộc sống sinh hoạt đã đạm bạc, nghèo khó, nhưng công việc cách mạng còn thiếu thốn hơn. Qua đó, Bác Hồ hiện lên vừa như một người khách lâm tuyền, vừa là một chiến sĩ cách mạng kiên cường.
Bài thơ khép lại bằng câu thơ thể hiện cảm nhận của Bác về cuộc đời cách mạng:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Câu thơ mang giọng điệu cảm thán, khẳng định sự giàu có về tinh thần của một tâm hồn luôn tìm thấy sự thanh thản giữa thiên nhiên. “Sang” ở đây không chỉ là sự sang trọng vật chất mà còn là sự giàu có về ý chí, về lý tưởng của một con người luôn sống vì cách mạng, vì nhân dân.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ giản dị, “Tức cảnh Pác Bó” như một bức tranh tốc ký, phác họa cuộc sống sinh hoạt và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại cùng những chiến sĩ cách mạng trong những ngày đầu kháng chiến đầy gian nan. Qua đó, thế hệ sau hiểu rõ hơn giá trị của hòa bình, biết sống và học tập để trở thành người có ích, góp phần xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
...
- KHTN 8 Bài 32: Khám phá hệ hô hấp ở người - Giải chi tiết sách Cánh diều trang 152 đến 156
- KHTN 8 Bài 23: Cường độ dòng điện và hiệu điện thế - Hướng dẫn giải chi tiết sách Cánh diều trang 109, 110, 111
- Luyện tập viết đoạn văn tưởng tượng - Bài 7, Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều, Tập 1
- KHTN 8 Bài 27: Tổng quan về cơ thể người - Giải Khoa học tự nhiên 8 Cánh diều trang 128, 129, 130
- KHTN 8 Bài 24: Khám phá Năng lượng nhiệt - Hướng dẫn giải chi tiết SGK Cánh diều trang 113, 114, 115