Văn mẫu lớp 10: Chứng minh Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập - 2 Dàn ý chi tiết & 8 bài văn mẫu đặc sắc
TOP 8 mẫu Chứng minh Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập mà EduTOPS giới thiệu sẽ trở thành nguồn tư liệu quý giá dành cho học sinh lớp 10. Với 8 bài văn mẫu đặc sắc, các bạn sẽ nắm vững các luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và mạch lạc. Qua đó, học sinh sẽ biết cách sắp xếp và trình bày các lí lẽ một cách hợp lý để làm nổi bật vấn đề cần chứng minh và giải thích.

Bình Ngô đại cáo không chỉ là bài ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kỳ, chấm dứt ách xâm lược của giặc Minh, mà còn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo những tội ác tày trời mà quân Minh đã gây ra cho nhân dân ta. Bên cạnh đó, các bạn có thể tham khảo thêm bài văn mẫu chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn.
Chứng minh Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập
- Dàn ý Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập
- Tại sao Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập
- Chứng minh Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập
Dàn ý Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi: Một anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, nhà văn hóa kiệt xuất.
- Khái quát về nhận định: Đại cáo bình Ngô không chỉ là áng văn yêu nước mà còn là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định chủ quyền và tự do.
II. Thân bài
1. Thế nào là một bản tuyên ngôn độc lập
- Được viết trong hoặc sau cuộc chiến: Ví dụ, Nam quốc sơn hà được viết trong cuộc chiến chống Tống, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh viết sau kháng chiến chống Pháp.
- Nội dung: Khẳng định độc lập, chủ quyền, tuyên bố thắng lợi, và tuyên bố hòa bình.
2. Chứng minh Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập
a. Hoàn cảnh sáng tác.
Sau khi quân ta đại thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô để bố cáo với nhân dân về chiến thắng vẻ vang này.
=> Bài cáo được viết sau chiến thắng giặc Minh, mang tính chất tổng kết và tuyên bố chiến thắng.
b. Tuyên bố độc lập, chủ quyền.
- Nguyễn Trãi xác định tư cách độc lập của dân tộc bằng một loạt dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục.
- Có nền văn hiến lâu đời, đó là điều không dân tộc nào có
- Có cương vực lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc
- Lịch sử lâu đời, với các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần sánh ngang với các triều đại Trung Quốc Hán, Đường, Tống Nguyên, khẳng định niềm tự tôn dân tộc qua từ “đế”.
- Có anh hùng hào kiệt ở khắp nơi trên đất nước, chưa bao giờ thiếu hiền tài.
=> Bằng thủ pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã đưa ra một loạt lí lẽ khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc của Đại Việt, đó là những chân lí hiển nhiên, không ai có thể chối cãi.
- So sánh đại cáo bình Ngô với Nam quốc sơn hà:
- Kế thừa các yếu tố về chủ quyền, lãnh thổ.
- Bổ sung các yếu tố: văn hiến, phong tục, lịch sử, anh hùng hào kiệt
- Sáng tạo: Những yếu tố đó không còn cần đến sự minh xác của thần linh, của sách trời mà do chính con người tạo ra.
=> Bản tuyên ngôn của Nguyễn Trãi đầy đủ và thuyết phục hơn
=> Thể hiện ý thức dân tộc phát triển đến đỉnh cao, khẳng định lòng yêu nước của tác giả.
c. Tuyên bố thắng lợi.
- Nguyễn Trãi vạch trần những tội ác dã man của giặc Minh:
- Khủng bố, tàn sát dân ta dã man, độc ác
- Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật
- Phá hoại sản xuất, phá hoại môi trường sống, tiêu diệt sự sống, bóc lột sức lao động...
=> Tác giả đứng trên lập trường nhân bản, tố cáo tội ác của giặc Minh, lời văn đanh thép tạo nên một bản án đanh thép với kẻ thù.
=> Khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của ta là chính nghĩa, tạo nên sự đồng cảm và thuyết phục cho bản tuyên ngôn.
- Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Giai đoạn đầu vô cùng khó khăn: Lương thực hết, quân không một đội
- Về sau, nhờ tinh thần đoàn kết đồng lòng, biết dựa vào sức dân lại có chung lí tưởng chiến đấu, quân ta chiến đấu kiên cường và trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù: Đánh một trận sạch không kình ngạc/Đánh hai trận tan tác chim muông...
- Quân Minh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề
- Quân ta dũng mãnh khí thế ngút trời
=> Tuyên bố về thắng lợi, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách vừa thấu tình vừa đạt lí, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc
d. Tuyên bố hòa bình.
- Tác giả nói về tương lai đất nước: xã tắc vững bền, giang sơn đổi mới
=> Niềm tin, ý chí quyết tâm xây dựng tương lai đất nước ngày càng phát triển
- Nói về sự vận động của vũ trụ: kiền khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh.
=> Sự vận động hướng về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của trời đất, vũ trụ.
=> Đây vừa là lời tuyên bố hòa bình, vừa là niềm tin tưởng lạc quan về tương lai đất nước của một con dân yêu nước.
III. Kết bài
- Khẳng định lại luận điểm: Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, là áng văn yêu nước hoàn toàn thuyết phục.
- Liên hệ với các áng văn yêu nước cũng được xem là bản tuyên ngôn độc lập trước và sau Đại cáo bình Ngô như Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Tại sao Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập
Bài làm mẫu 1
Đại cáo Bình Ngô không chỉ là một áng văn nghị luận sắc bén, tố cáo tội ác của kẻ thù và tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc, mà còn là một bản tuyên ngôn độc lập. Được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, sau Nam quốc sơn hà và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một áng văn yêu nước sâu sắc và đầy nhiệt huyết.
Sau hai câu thơ mở đầu khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những lập luận chặt chẽ và đanh thép để khẳng định chủ quyền dân tộc. Đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tính chất của bản tuyên ngôn độc lập trong tác phẩm:
Như nước Đại Việt là từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
Chỉ với từ “từ trước”, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự độc lập vốn có của dân tộc ta là bền vững và lâu đời, không thể chối cãi. Câu thơ thứ hai nhấn mạnh nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Văn hiến ở đây không chỉ là sách vở mà còn là người hiền tài. Nguyên văn chữ Hán “Thực vi văn hiến chi bang” (Thực sự là một nước văn hiến) khẳng định sự thật hiển nhiên về nền văn hiến của dân tộc. Bằng biện pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã so sánh các triều đại của hai quốc gia, trong đó chữ “đế” thể hiện sự bình đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Đây là bước tiến lớn so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất, khi Lí Thường Kiệt chỉ dựa vào chủ quyền và lãnh thổ. Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm ba yếu tố: phong tục, văn hiến và truyền thống lịch sử, tạo nên cơ sở vững chắc để khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Bản tuyên ngôn còn được thể hiện qua đoạn thơ cuối, là lời bố cáo với thiên hạ về chiến thắng của dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh/ Muôn thuở thái bình vững chắc/ Nghìn thu vết nhục sạch làu. Qua những hình ảnh tự nhiên, Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của đất nước.
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Trãi sử dụng câu văn biền ngẫu tài tình, kết hợp biện pháp so sánh để khẳng định vị thế ngang hàng của ta với Trung Quốc. Các từ ngữ mang tính khẳng định như “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” được sử dụng để nhấn mạnh sự độc lập của Đại Việt. Ngoài ra, biện pháp liệt kê các yếu tố hình thành quốc gia, dân tộc (văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử) tạo nên cơ sở vững chắc cho nền độc lập.
Với giọng văn hùng hồn, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc một cách toàn diện. Đây là bước tiến vượt bậc so với bản tuyên ngôn trước đó, đồng thời là cơ sở để triển khai các phần tiếp theo của tác phẩm.
Bài làm mẫu 2
Đất nước Việt Nam, qua bao thăng trầm lịch sử, không thể thiếu những bản tuyên ngôn độc lập. “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt và trước “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trãi, một nhân vật văn võ song toàn, từng làm quan dưới triều nhà Hồ và tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng vua Lê Lợi. Ông được coi là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Năm 1428, sau chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Đại cáo bình Ngô”.
Vậy tại sao “Đại cáo bình Ngô” được coi là một bản tuyên ngôn độc lập? Một bản tuyên ngôn độc lập phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Ví dụ, “Nam quốc sơn hà” được viết trong cuộc chiến chống Tống, còn “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được viết sau chiến thắng giặc Pháp năm 1945. Tương tự, “Đại cáo bình Ngô” được viết sau chiến thắng quân Minh. Nội dung của một bản tuyên ngôn độc lập phải bao gồm ba phần: khẳng định dân tộc, tuyên bố thắng lợi, và tuyên bố hòa bình. “Đại cáo bình Ngô” đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này, đặc biệt là qua đoạn đầu của tác phẩm.
Ngay từ những câu đầu, “Đại cáo bình Ngô” đã khẳng định tính hiển nhiên của nền văn hiến nước nhà. Các cụm từ như “từ trước”, “vốn xưng” nhấn mạnh sự lâu đời của dân tộc. Tiếp theo, “đã chia”, “phong tục… cũng khác” vạch rõ ranh giới khác biệt giữa hai quốc gia. Nguyễn Trãi liệt kê các triều đại Việt Nam “Triệu, Đinh, Lí, Trần” song song với các triều đại Trung Quốc “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, thể hiện sự ngang hàng. Cách dùng từ “xưng đế một phương” khẳng định vị thế không thua kém của nước ta. Nghệ thuật liệt kê và câu đối giúp làm nổi bật tầm vóc của dân tộc. Cuối đoạn, “chứng cớ còn ghi” như một lần nữa khẳng định nền độc lập hiển nhiên của dân tộc.
Có thể nói “Đại cáo bình Ngô” là bản nâng cấp của “Nam quốc sơn hà”, hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Trong khi Lý Thường Kiệt chỉ dùng bốn câu ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã viết một bài cáo dài để khắc phục những hạn chế của bản tuyên ngôn trước đó. Thay vì chỉ nói “nam đế cư”, Nguyễn Trãi liệt kê các triều đại Việt Nam, làm rõ thêm chữ “đế”. Thay vì dựa vào “thiên thư” (sách trời), ông nhấn mạnh “chứng cớ còn ghi”, tăng tính thuyết phục. Đồng thời, ông kể lại các chiến công lẫy lừng của dân tộc, biến lời hăm dọa của Lý Thường Kiệt thành hiện thực.
“Đại cáo bình Ngô” không chỉ là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai mà còn là sự hoàn thiện của bản tuyên ngôn đầu tiên, khẳng định chủ quyền và niềm tự hào dân tộc một cách toàn diện và thuyết phục.
Chứng minh Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập
Bài làm mẫu 1
Nếu thế kỉ XI, giặc Tống kinh hồn bạt vía khi nghe bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, hay thế kỉ XX, thực dân Pháp không còn lý do để tự nhận là "khai hóa" An Nam sau khi nghe Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, thì thế kỉ XV, chúng ta không thể quên áng "thiên cổ hùng văn" Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh, bài cáo đã khẳng định tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước mãi mãi ghi danh sử sách. Đến nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc.
Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến, với nội dung bao gồm ba phần: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng lợi; và tuyên bố hòa bình. Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này. Sau chiến thắng giặc Minh năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết bài cáo để thông báo nền độc lập, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố hòa bình sau hai mươi năm đô hộ và chiến tranh. Tác phẩm trở thành khúc khải hoàn về một kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu hào hùng, Bình Ngô đại cáo mở đầu với lời khẳng định chắc nịch: "Đại Việt là đất nước của chúng ta":
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Với thủ pháp liệt kê qua các yếu tố như nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt, Nguyễn Trãi đã xác lập một cách toàn diện nền độc lập của nước nhà. Trong khi Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định độc lập qua lãnh thổ và sách trời, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện cụ thể. Sự so sánh giữa Đại Việt và Đại Hán càng làm nổi bật vị thế ngang hàng của dân tộc ta. Các từ ngữ như "từ trước", "đã lâu", "đã chia", "cũng khác" liên tiếp nhấn mạnh nền độc lập đã tồn tại từ lâu đời, không thể chối cãi.
Bình Ngô đại cáo khẳng định chân lý độc lập mang tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy không phải do thiên định mà do nhân dân bao đời gây dựng nên. Xương máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân đã tạo nên nền độc lập "bất khả xâm phạm". Đây là lần đầu tiên trong sáu trăm năm, chân lý chủ quyền dân tộc được khẳng định một cách dõng dạc, tự hào. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để Nguyễn Trãi lên án tội ác của giặc Minh.
Bản tuyên ngôn đã kết án đanh thép tội ác của giặc Minh, những kẻ đã gieo rắc tai họa cho dân ta suốt hai mươi năm. Từ âm mưu thâm độc đến hành động man rợ, Nguyễn Trãi viết trong căm hờn và uất nghẹn:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được.
Vậy mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Bình Ngô đại cáo là bài ca về những chiến công hiển hách của dân tộc. Chỉ có chân lý độc lập tự do mới đem lại khí thế và khát vọng cháy bỏng như vậy. Nguyễn Trãi đã chờ đợi bao năm để viết lên những khoảnh khắc lịch sử không thể quên ấy. Chiến thắng giặc Minh là minh chứng cho sức mạnh của chính nghĩa, đập tan bạo lực phi nghĩa.
Sau bao gian khổ, dân tộc đã đón nhận "trái ngọt":
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu.
Giọng thơ thư thái nhưng vẫn vang dội, khẳng định sự vững bền và đổi mới của đất nước. Quy luật của cuộc đời là bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng để vượt qua được quy luật ấy là nhờ sự nỗ lực của cả dân tộc. Nguyễn Trãi cũng không quên nhắc đến sự phù trợ của trời đất và tổ tiên, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Giá trị độc lập của bản đại cáo được xây dựng trên nền tảng tư tưởng nhân văn và truyền thống đạo lý sâu sắc.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn là áng "thiên cổ hùng văn", một tác phẩm chính luận bất hủ. Dù ở giá trị nào, tác phẩm cũng khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Đây là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và khát vọng hòa bình của nhân loại.
Bài làm mẫu 2
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định: "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Những kiệt tác văn học không chỉ mang ý nghĩa văn chương mà còn in đậm dấu ấn lịch sử. "Đại cáo Bình Ngô" chính là một kiệt tác như thế. Không chỉ là áng "thiên cổ hùng văn" của Nguyễn Trãi, tác phẩm còn được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.
Tuyên ngôn độc lập là văn bản dùng để tuyên bố và khẳng định nền độc lập, chủ quyền của một quốc gia, đặc biệt sau khi quốc gia đó giành chiến thắng trước sự xâm lược của ngoại bang. Vậy tại sao "Đại cáo Bình Ngô" được coi là một bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện đầu tiên là tác phẩm phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Đồng thời, nội dung phải bao gồm việc khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố thắng lợi và tuyên bố hòa bình. Dẫn chứng và lý lẽ phải sắc bén, hùng hồn và hoàn toàn xác thực.
"Đại cáo Bình Ngô" đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên. Về hoàn cảnh ra đời, tác phẩm gắn liền với mốc lịch sử trọng đại của dân tộc. Mùa xuân năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết bài cáo để thông báo chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau hai mươi năm chiến tranh và ách đô hộ, dân tộc ta đã giành lại độc lập và lập lại hòa bình. "Đại cáo Bình Ngô" trở thành khúc khải hoàn, mở ra kỷ nguyên mới của độc lập và tự do.
Về nội dung, bài cáo là lời khẳng định đanh thép về độc lập, chủ quyền dân tộc, chiến thắng Lam Sơn và nền hòa bình. Ngay từ những câu đầu, Nguyễn Trãi đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Theo tư tưởng Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa là yên dân, đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Trong hoàn cảnh giặc ngoại xâm, nhân nghĩa là trừ bạo, cụ thể là loại bỏ giặc Minh. Độc lập dân tộc được xây dựng từ xương máu, mồ hôi và nỗ lực của nhân dân qua hàng nghìn năm.
Nguyễn Trãi đưa ra tư tưởng nhân văn, từ đó khẳng định chân lý độc lập của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Với giọng điệu hào hùng, Nguyễn Trãi liệt kê các yếu tố như nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt để khẳng định nền độc lập dân tộc. Khác với "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt chỉ dựa vào lãnh thổ và sách trời, Nguyễn Trãi đưa ra những bằng chứng cụ thể và không thể chối cãi. Các cụm từ như "từ trước", "vốn", "đã lâu", "đã chia" liên tiếp nhấn mạnh sự lâu đời và vững chắc của nền độc lập.
Nguyễn Trãi cũng điểm danh các triều đại Việt Nam "Triệu, Đinh, Lý, Trần" song song với các triều đại phương Bắc như "Hán, Đường, Tống, Nguyên". Từ thời Ngô Quyền, nước ta đã xưng hoàng đế, khẳng định vị thế ngang hàng với Trung Quốc.
Với những yếu tố này, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân tộc. "Đại cáo Bình Ngô" mở đầu đầy đanh thép và tự hào.
Nền độc lập dân tộc được khẳng định bằng lý lẽ và dẫn chứng xác thực, trở nên thiêng liêng và "bất khả xâm phạm". Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế, đồng thời là cơ sở để Nguyễn Trãi lên án tội ác của giặc Minh:
"Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được."
"Đại cáo Bình Ngô" đã phơi bày tội ác tày trời của giặc Minh. Suốt hai mươi năm, nhân dân ta chịu đựng sự tàn bạo, man rợ và vô nhân tính của kẻ thù. Tội ác của chúng không thể kể hết bằng lời.
Nguyễn Trãi đã hùng hồn tố cáo tội ác của giặc Minh, tạo nên một bản án đanh thép dành cho kẻ thù. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, trong khi cuộc chiến của ta là chính nghĩa, từ đó tạo sự đồng cảm và tăng tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài ba viết lên những dòng đầy căm hờn và uất nghẹn, khiến lòng người sục sôi phẫn nộ.
Tuy nhiên, đau thương không thể khuất phục dân tộc anh hùng. Cả nước đồng lòng, chung sức đứng lên, làm nên chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."
Dù giai đoạn đầu đầy khó khăn, thắng lợi cuối cùng vẫn thuộc về dân tộc ta. Bài cáo tuyên bố chiến thắng với niềm tự hào và tự tôn dân tộc sâu sắc, đồng thời khẳng định tính chính nghĩa của cuộc chiến. Chiến thắng giặc Minh là sự trừng phạt thấu tình đạt lý dành cho những kẻ bạo ngược, xâm phạm chủ quyền dân tộc.
Khép lại bản tuyên ngôn, Đại cáo Bình Ngô đi đến lời tuyên bố về nền hòa bình:
"Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu"
Đó là "trái ngọt" của cuộc đấu tranh đầy gian khổ. Từng câu từng chữ vút cao, tuyên bố nền hòa bình "vững bền, đổi mới, vững chắc". Hình ảnh "xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt" như tái hiện khung cảnh thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt, bài cáo còn thể hiện lòng biết ơn "trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp" và đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Bên cạnh nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn là bản tuyên ngôn độc lập về mặt nghệ thuật. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đanh thép và thuyết phục. Từ cơ sở lý luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập, đến việc phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, rồi tuyên bố nền hòa bình. Lý lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng câu văn linh hoạt đã khẳng định độc lập, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc, đồng thời nêu cao tinh thần yêu nước và tài năng của Nguyễn Trãi.
Với những thành công đó, Đại cáo Bình Ngô là bản tuyên ngôn mang giá trị sâu sắc của dân tộc. Trải qua thời gian, tác phẩm vẫn giữ vững vị trí trong nền văn học và lịch sử Việt Nam. Mỗi khi bài cáo vang lên, nhân dân Việt Nam lại nghe thấy tiếng nói của Tổ quốc trong trái tim mình.
Bài làm mẫu 3
Nếu thế kỉ XI, giặc Tống kinh hồn bạt vía khi nghe bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, hay thế kỉ XX, thực dân Pháp không còn lý do để tự nhận là "khai hóa" An Nam sau khi nghe Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, thì thế kỉ XV, chúng ta không thể quên áng "thiên cổ hùng văn" Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh, bài cáo đã khẳng định tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước mãi mãi ghi danh sử sách. Đến nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc.
Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến, với nội dung bao gồm ba phần: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng lợi; và tuyên bố hòa bình. Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này. Sau chiến thắng giặc Minh năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết bài cáo để thông báo nền độc lập, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố hòa bình sau hai mươi năm đô hộ và chiến tranh. Tác phẩm trở thành khúc khải hoàn về một kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu hào hùng, Bình Ngô đại cáo mở đầu với lời khẳng định chắc nịch: "Đại Việt là đất nước của chúng ta":
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Với thủ pháp liệt kê qua các yếu tố như nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt, Nguyễn Trãi đã xác lập một cách toàn diện nền độc lập của nước nhà. Trong khi Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định độc lập qua lãnh thổ và sách trời, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện cụ thể. Sự so sánh giữa Đại Việt và Đại Hán càng làm nổi bật vị thế ngang hàng của dân tộc ta. Các từ ngữ như "từ trước", "đã lâu", "đã chia", "cũng khác" liên tiếp nhấn mạnh nền độc lập đã tồn tại từ lâu đời, không thể chối cãi.
Bình Ngô đại cáo khẳng định chân lý độc lập mang tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy không phải do thiên định mà do nhân dân bao đời gây dựng nên. Xương máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân đã tạo nên nền độc lập "bất khả xâm phạm". Đây là lần đầu tiên trong sáu trăm năm, chân lý chủ quyền dân tộc được khẳng định một cách dõng dạc, tự hào. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để Nguyễn Trãi lên án tội ác của giặc Minh.
Bản tuyên ngôn đã kết án đanh thép tội ác của giặc Minh, những kẻ đã gieo rắc tai họa cho dân ta suốt hai mươi năm. Từ âm mưu thâm độc đến hành động man rợ, Nguyễn Trãi viết trong căm hờn và uất nghẹn:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được.
Vậy mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Bình Ngô đại cáo là bài ca về những chiến công hiển hách của dân tộc. Chỉ có chân lý độc lập tự do mới đem lại khí thế và khát vọng cháy bỏng như vậy. Nguyễn Trãi đã chờ đợi bao năm để viết lên những khoảnh khắc lịch sử không thể quên ấy. Chiến thắng giặc Minh là minh chứng cho sức mạnh của chính nghĩa, đập tan bạo lực phi nghĩa.
Sau bao gian khổ, dân tộc đã đón nhận "trái ngọt":
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu.
Giọng thơ thư thái nhưng vẫn vang dội, khẳng định sự vững bền và đổi mới của đất nước. Quy luật của cuộc đời là bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng để vượt qua được quy luật ấy là nhờ sự nỗ lực của cả dân tộc. Nguyễn Trãi cũng không quên nhắc đến sự phù trợ của trời đất và tổ tiên, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Giá trị độc lập của bản đại cáo được xây dựng trên nền tảng tư tưởng nhân văn và truyền thống đạo lý sâu sắc.
Trước tác của Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn được coi là áng "thiên cổ hùng văn", một tác phẩm chính luận bất hủ. Dù ở giá trị nào, tác phẩm cũng khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc lớn lao ấy một lần nữa khẳng định đây là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và khát vọng hòa bình của nhân loại.
Bài làm mẫu 4
Nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc tráng ca khải hoàn của đất nước sau hai mươi năm chịu đựng ách đô hộ và chiến tranh chống giặc Minh. Tác phẩm là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí quật cường của một dân tộc trải qua những ngày tháng đau thương nhưng đầy vinh quang. Với nghệ thuật chính luận đỉnh cao, Nguyễn Trãi đã biến bài cáo thành áng "thiên cổ hùng văn" bất hủ.
Áng "thiên cổ hùng văn" là tác phẩm văn chương hùng tráng, được lưu truyền qua nghìn đời. Để đạt được danh hiệu này, tác phẩm phải xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, đồng thời mang giá trị lịch sử và tư tưởng vĩ đại, có ý nghĩa trường tồn. Bình Ngô đại cáo xứng đáng với danh hiệu ấy, bởi nó không chỉ chạm đến trái tim người đọc mà còn truyền tải tư tưởng lớn lao, phù hợp với mọi thời đại.
Dù đã trải qua bao năm, dân tộc ta vẫn tự hào về bản hùng văn tráng lệ này. Tác phẩm khơi dậy lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình và ý chí bất khuất trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Nguyễn Trãi đã đưa vào bài cáo những cảm xúc mãnh liệt, từ sự kiên quyết trong lời mở đầu:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa, vốn là tư tưởng đạo Nho, được Nguyễn Trãi nâng lên thành lý tưởng xã hội và đạo lý dân tộc. Bốn chữ "yên dân, trừ bạo" không chỉ áp dụng cho thời điểm chống giặc Minh mà còn là kim chỉ nam cho mọi thời đại. Đó là tư tưởng "dân vi bản", lấy dân làm gốc. Ngay từ khúc mở đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền và độc lập dân tộc với niềm kiêu hãnh:
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Sự so sánh đầy mới mẻ giữa Đại Việt và phương Bắc đã khẳng định giá trị hiển nhiên của chủ quyền dân tộc. Đây không chỉ là lời tuyên bố đanh thép mà còn là đòn giáng mạnh vào kẻ thù đang nhăm nhe xâm lược.
Bài cáo còn chất chứa nỗi căm hờn, uất nghẹn trước tội ác tày trời của giặc Minh. Những cảnh tượng đau thương được tái hiện đầy ám ảnh:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Suốt hai mươi năm, giặc Minh đã gây ra bao tội ác, từ con người đến cây cỏ đều bị tàn phá. Tội ác ấy không thể rửa sạch bằng nước Đông Hải, không thể ghi hết bằng trúc Nam Sơn. Nguyễn Trãi đã chạm vào nỗi đau nhức nhối của dân tộc, nhắc nhở chúng ta không được quên sứ mệnh bảo vệ đất nước.
Bài cáo còn thể hiện sự trăn trở, lo âu cho vận mệnh đất nước với tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguyễn Trãi dành hơn hai mươi câu để nói về Lê Lợi, vị anh hùng xuất thân từ nhân dân, mang trong mình nỗi đau và khát vọng của dân tộc. Từ thấu hiểu đến hành động, Lê Lợi đã dẫn dắt quân dân vượt qua khó khăn, giành chiến thắng vẻ vang. Nhưng chiến thắng ấy không chỉ nhờ vào sức mạnh quân sự mà còn nhờ vào tinh thần:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Đại nghĩa và chí nhân đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta trong mọi cuộc đấu tranh chính nghĩa. Tư tưởng này mãi mãi là ánh sáng dẫn lối cho Đại Việt trước mọi kẻ thù.
Bài cáo còn tái hiện khí thế sục sôi của những ngày tháng kháng chiến oai hùng. Từ Nghệ An, Thanh Hóa đến Thăng Long, quân ta liên tiếp giành chiến thắng, đập tan mọi âm mưu của kẻ thù. Khung cảnh chiến trường đầy khốc liệt: sấm vang chớp giật, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội. Kẻ thù từ chỗ hung hãn giờ đây chỉ còn biết cầu xin tha mạng. Chiến thắng của ta không chỉ là sức mạnh quân sự mà còn là đại nghĩa, chí nhân. Biết dừng đúng lúc, không dồn kẻ thù vào đường cùng, đó mới là chiến thắng vĩ đại, trở thành huyền thoại trong lịch sử dân tộc.
Cuối cùng, cảm xúc vút lên thành lời ca đầy trang trọng, hào sảng, hạnh phúc và vui sướng vì đất nước đã hoàn toàn độc lập, tự do. Giấc mơ về hòa bình nay đã trở thành hiện thực. Hẳn là người viết phải vô cùng xúc động!
Xã tắc từ nay vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh,
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, nhưng vẫn phải xuất phát từ sự đồng lòng của nhân dân và tướng sĩ, từ tài năng của những bậc anh hùng, và từ nền tảng trọng nhân nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa ấy đã tồn tại hàng trăm năm và sẽ tiếp tục vững chắc trong tương lai. Bài cáo như một lời nhắc nhở về điều đó.
Đúng vậy, Bình Ngô đại cáo là khúc khải hoàn ca, là anh hùng ca sáng chói của một thời đại, hội tụ biết bao cảm xúc. Như tiếng chuông ngân vang từ quá khứ, nó khiến chúng ta ở mọi thời đại đều cảm thấy tự hào và kiêu hãnh. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử khô khan thành một áng hùng văn say đắm, trong sáng và có giá trị trường tồn.
Ý nghĩa "thiên cổ hùng văn" của tác phẩm còn thể hiện ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Bản đại cáo đã đưa nghệ thuật văn chính luận trung đại lên một tầm cao mới. Hướng tới đối tượng là nhân dân, bài cáo tuyên bố về nền độc lập sau chiến thắng giặc Minh. Tuy chiến tranh đã kết thúc, nhưng tính luận chiến của nó vẫn sáng tỏ. Nguyễn Trãi đã chiến đấu trên mặt trận ngoại giao, khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của dân tộc. Bài cáo như một lời phán xử cuối cùng tại tòa án nhân nghĩa, đanh thép và hùng hồn.
Bên cạnh đó, bản đại cáo có kết cấu chặt chẽ. Từ cơ sở lý luận về chân lý chính nghĩa, Nguyễn Trãi vạch trần tội ác của kẻ thù và khẳng định sự cần thiết phải đấu tranh bảo vệ chân lý ấy. Lối văn biền ngẫu được sử dụng tài tình, kết hợp với bút pháp tương phản và ước lệ, tạo nên bức tranh tráng lệ về cuộc kháng chiến hào hùng. Lập luận sắc bén, dựa trên tư tưởng nhân nghĩa, đã làm nổi bật tính chính nghĩa của cuộc chiến.
Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: "Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn."
............
Tải file tài liệu để xem thêm Chứng minh Đại cáo bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập
- Soạn bài Thực hành đọc: Qua đèo Ngang - Kết nối tri thức Ngữ văn 8, trang 56 sách Kết nối tri thức tập 1
- Bài 16: Đọc Mở Rộng Trang 68 - Tiếng Việt Lớp 4 Tập 1 Kết Nối Tri Thức
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 66 - Ngữ văn lớp 8, sách Kết nối tri thức tập 2
- Nhận xét về chất trữ tình trong tác phẩm Mùa phơi sân trước - Soạn bài Mùa phơi sân trước CTST
- Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 70 - Kết nối tri thức 10: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 10 tập 1 sách Chân trời sáng tạo