Tuyển tập 18 bài văn mẫu kể lại truyện cổ tích qua lời kể của nhân vật - Tập làm văn lớp 5
18 bài văn mẫu kể lại truyện cổ tích qua lời kể của nhân vật, mang đến nguồn tài liệu phong phú giúp học sinh lớp 5 rèn luyện kỹ năng viết văn kể chuyện một cách sinh động và hấp dẫn.

Mỗi câu chuyện cổ tích đều ẩn chứa những bài học sâu sắc về đạo đức, cách sống và cách làm người, giúp chúng ta học hỏi và noi theo. Dưới đây là những bài viết tham khảo giúp các em kể lại các truyện như Cây khế, Cậu bé thông minh, Nàng Tiên Ốc, Sọ Dừa, Thạch Sanh... một cách lôi cuốn và ý nghĩa.
Kể lại truyện cổ tích Tấm Cám qua lời kể của nhân vật trong truyện
Tôi sống cùng mẹ và chị Tấm, người chị cùng cha khác mẹ của tôi. Vốn được mẹ nuông chiều, tôi chẳng phải làm bất cứ việc gì. Trong khi đó, chị Tấm phải làm lụng vất vả từ sáng đến tối mà vẫn không hết việc.
Một hôm, mẹ gọi chúng tôi lại, đưa cho mỗi đứa một cái giỏ và bảo: 'Hai con, nếu ai bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.' Hai chị em tôi ra đồng. Chị Tấm chăm chỉ và nhanh tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy ắp tôm tép. Còn tôi, vì mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt tôi nảy ra một kế. Tôi chạy lại bảo chị: 'Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm rồi, chị hụp xuống ao cho sâu kẻo về mẹ mắng đấy.'
Chị Tấm tin lời, liền hụp xuống ao tắm rửa sạch sẽ. Tôi nhanh tay trút hết tôm tép từ giỏ của chị sang giỏ của mình rồi chạy về nhà lấy yếm đào. Chị Tấm trở về với cái giỏ trống không và bị mẹ mắng một trận. Tôi thấy vậy thì vô cùng hả hê.
Từ hôm đó, tôi để ý thấy chị Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Tò mò, tôi bèn rình xem chị ta đang giấu điều gì. Khi biết được sự thật, mẹ tôi liền bắt chị Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, còn ở nhà, mẹ con tôi bắt cá bống đem đi giết thịt. Về đến nhà, chị Tấm gọi mãi không thấy cá bống đâu, chỉ biết ngồi khóc mà không dám hỏi ai.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội, mẹ con tôi cũng sắm sửa quần áo mới để đi dự. Chị Tấm xin phép đi cùng nhưng mẹ tôi trộn một đấu gạo với một đấu thóc, bắt chị ở nhà nhặt cho xong. Mấy ngày sau, tin đồn lan ra: ai đi vừa chiếc hài do nhà vua nhặt được sẽ được làm hoàng hậu. Người dân tranh nhau ướm thử nhưng không ai vừa. Đến lượt chị Tấm ướm thử thì vừa như in. Chị được vua rước vào cung làm hoàng hậu. Tôi ghen tức nhưng không thể làm gì.
Đến ngày giỗ cha, chị Tấm về nhà. Mẹ tôi bảo chị trèo cây cau hái cau cúng cha. Nhân lúc chị không để ý, mẹ tôi chặt đổ cây cau. Chị Tấm ngã xuống ao chết đuối. Mẹ đưa tôi vào cung, khóc lóc kể lể và xin cho tôi ở lại thay chị hầu hạ vua.
Một hôm, khi tôi đang giặt quần áo cho vua, một con chim vàng anh bay đến, hót lên: 'Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.' Rồi chim bay vào cung, quấn quýt bên vua khiến ngài chẳng đoái hoài đến tôi. Tôi tức giận, tìm cách giết chim, đem lông vứt ra vườn.
Khi vua hỏi, tôi nói dối rằng mình thèm ăn thịt chim nên đã giết. Từ chỗ lông chim, một cây xoan đào mọc lên, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi mách mẹ, và mẹ tôi lại bày mưu giúp tôi chặt cây làm khung cửi. Nhưng khi tôi ngồi dệt, bỗng nghe tiếng nói vang lên:
'Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra'
Tôi sợ hãi, về mách mẹ. Mẹ tôi bảo tôi đốt khung cửi và đổ tro ra xa khỏi hoàng cung.
Một thời gian sau, chị Tấm trở về cung, khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Chị không chỉ sống lại mà còn xinh đẹp hơn xưa. Vua càng ngày càng yêu chiều chị. Tôi liền hỏi chị cách làm đẹp. Chị Tấm bảo tôi tắm bằng nước sôi. Tôi hí hửng làm theo mà không nghi ngờ gì, và nhận lấy cái chết đau đớn. Đến lúc này, tôi mới nhận ra rằng 'ác giả ác báo' nhưng đã quá muộn.
Kể lại truyện Thạch Sanh qua lời kể của chính nhân vật Thạch Sanh
Tôi là Thạch Sanh, con của Ngọc Hoàng, được vua cha sai xuống trần gian để trải nghiệm cuộc sống của con người. Tôi đầu thai vào một gia đình nghèo khó, sống bằng nghề đốn củi. Khi bố mẹ qua đời, tôi trở thành đứa trẻ mồ côi, chỉ còn lại cây rìu của cha làm bạn. Dù cuộc sống khó khăn, tôi vẫn kiên trì luyện tập võ nghệ và trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tài năng. Một ngày nọ, tôi gặp Lí Thông, người xin kết nghĩa anh em với tôi. Vốn cô đơn, tôi cảm động và đồng ý, không ngờ rằng đây là khởi đầu của những âm mưu lợi dụng.
Trong làng có con chằn tinh hung ác, thường xuyên bắt người dân làm mồi. Đến lượt nhà Lí Thông phải dâng người, hắn đã lừa tôi đi canh miếu thờ thay mình. Đêm đó, chằn tinh xuất hiện, tôi dũng cảm chiến đấu và giết chết nó. Tuy nhiên, Lí Thông và mẹ hắn lợi dụng việc này, đem đầu chằn tinh đi nhận thưởng còn bảo tôi trốn đi vì sợ bị trừng phạt. Tôi ngây thơ tin lời, quay về túp lều cũ sống.
Một ngày, tôi chứng kiến đại bàng khổng lồ bắt cóc công chúa. Tôi lần theo dấu vết, xông vào hang đại bàng, giết chết nó và cứu được công chúa. Nhưng Lí Thông lại lừa tôi, lấp cửa hang và đưa công chúa về nhận công. Trong hang, tôi còn cứu được con vua Thủy Tề, được ban tặng cây đàn thần. Sau đó, tôi bị hồn chằn tinh và đại bàng hãm hại, bị bắt giam oan. Trong ngục, tôi gảy đàn, tiếng đàn vang đến tai nhà vua. Công chúa nhận ra tôi, kể lại sự thật, và tôi được minh oan. Tôi kết hôn với công chúa, còn mẹ con Lí Thông bị trừng phạt.
Khi giặc ngoại xâm xâm lược, tôi dùng cây đàn thần và niêu cơm thần để đánh bại chúng, mang lại hòa bình cho đất nước. Tôi tin rằng, người lương thiện sẽ luôn được đền đáp xứng đáng, còn kẻ ác sẽ không tránh khỏi báo ứng.
Kể lại truyện Cây khế qua lời kể của Chim Thần
Chim Thần kể lại truyện Cây khế - Mẫu 1
Một ngày nọ, tôi bay ngang qua một mảnh đất nhỏ và phát hiện một cây khế trĩu quả. Những quả khế vàng óng, căng mọng trông thật hấp dẫn. Chẳng mấy chốc, cả đàn chim chúng tôi kéo đến để thưởng thức.
Từ xa, ánh sáng vàng của những quả khế đã lấp lánh như mời gọi. Đến gần, hương thơm dịu nhẹ lan tỏa khắp nơi. Chúng tôi tha hồ chọn những quả ngon nhất, không cần phải chia phần.
Bỗng tôi nghe tiếng khóc than thảm thiết dưới gốc cây: 'Trời ơi, sao tôi khổ thế này! Chim ơi, xin đừng ăn khế. Đó là nguồn sống duy nhất của tôi. Cha tôi mất, anh tôi tham lam giành hết gia tài, chỉ để lại cho tôi mảnh đất nhỏ với cây khế này. Chim ăn hết, tôi biết sống sao đây?' Động lòng trước hoàn cảnh đáng thương của người em, tôi bảo anh ta chuẩn bị một túi ba gang để tôi chở đi lấy vàng đền ơn.
Sáng hôm sau, bầu trời trong xanh, tôi đã đưa anh ta đến đảo vàng và trả ơn bằng một túi ba gang đầy vàng.
Năm sau, chúng tôi lại kéo đến ăn khế. Lần này, tôi lại nghe tiếng khóc lóc, nhưng còn thảm thiết hơn. Ngày hôm sau, tôi đưa người anh ra đảo lấy vàng. Chờ đợi khá lâu, tôi nhận ra sự tham lam của anh ta khi phát hiện anh ta may túi bảy gang và mang theo ba túi. Trên đường bay về, tôi yêu cầu anh ta bỏ bớt vàng, nhưng hắn tỏ ra xấc xược: 'Chim Thần cũng biết nặng sao?' Không thể chịu nổi sự tham lam và ngạo mạn của hắn, tôi hất cả vàng và con người ấy xuống biển.
Kẻ tham lam, xảo trá đã tự chuốc lấy kết cục bi thảm. Lòng tham không đáy của hắn đã chôn vùi chính mình.
Chim Thần kể lại truyện Cây khế - Mẫu 2
Tôi là Chim Thần trong truyện Cây khế - một tác phẩm nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Hôm nay, tôi xin được kể lại câu chuyện này để các bạn cùng thưởng thức.
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em sống cùng nhau sau khi cha mẹ qua đời sớm. Khi người anh lấy vợ, hắn quyết định chia gia tài. Lợi dụng vị thế của mình, hắn chiếm hết tài sản, chỉ để lại cho người em một mảnh vườn nhỏ với cây khế ngọt. Trong khi vợ chồng người anh sống sung túc, người em phải làm thuê cuốc mướn để kiếm sống.
Đến mùa khế ra hoa kết trái, người em sống nhờ vào cây khế. Một ngày nọ, tôi bay ngang qua và bị thu hút bởi những quả khế chín mọng. Tôi liền sà xuống ăn hết trái này đến trái khác. Thấy vậy, người em buồn bã nói với tôi:
- Chim ơi! Tôi chỉ có mỗi cây khế này để sống. Chim ăn hết, tôi biết làm sao đây?
Tôi liền đáp:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Đúng như lời hứa, sáng hôm sau tôi chở người em ra đảo vàng. Sau khi lấy đủ vàng, người em trở về nhà và sống một cuộc đời sung túc.
Mùa khế năm sau, tôi lại đến ăn và nói với vợ chồng người anh như đã từng nói với người em. Họ may một cái túi lớn đến mười hai gang. Khi đến đảo vàng, người anh tham lam nhét đầy vàng bạc châu báu vào túi và cả trên người. Vì quá nặng, tôi không thể bay vững và hất hắn xuống biển.
Câu chuyện kết thúc với bài học về lòng tham và sự trừng phạt dành cho kẻ không biết điều.
Chim Thần kể lại truyện Cây khế - Mẫu 3
Văn học Việt Nam là kho tàng quý giá với những câu ca dao, tục ngữ và truyện cổ tích đã đi sâu vào tiềm thức qua lời ru của bà, của mẹ. “Cây khế” là một trong những câu chuyện gần gũi, gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Tôi, Chim Thần, xin được kể lại câu chuyện này để chúng ta cùng suy ngẫm về ý nghĩa sâu xa của nó.
Ngày xưa, có hai anh em sống cùng nhau sau khi cha mẹ qua đời sớm. Người anh thì tham lam, lười biếng, còn người em lại hiền lành, chăm chỉ. Khi cả hai lấy vợ, người anh đã chia gia tài một cách bất công. Lợi dụng vị thế của mình, hắn chiếm hết tài sản, chỉ để lại cho người em một mảnh vườn nhỏ và cây khế ngọt. Trong khi vợ chồng người anh sống sung túc, người em phải làm thuê cuốc mướn để kiếm sống. Dù vất vả, người em vẫn chăm sóc cây khế mỗi ngày.
Mùa khế năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra hoa kết trái, cành nào cũng trĩu quả. Vợ chồng người em hy vọng bán khế để có tiền mua gạo. Tôi, vốn rất thích ăn trái cây, một hôm bay ngang qua vườn nhà người em. Thấy những quả khế chín mọng, tôi liền sà xuống ăn hết trái này đến trái khác. Người em thấy vậy, không đuổi tôi đi mà chỉ buồn rầu nói:
- Chim ơi! Nhà tôi chỉ có mỗi cây khế này thôi. Chim ăn hết rồi, tôi biết lấy gì để sống?
Tôi, vốn là loài chim biết trả ơn, liền đáp:
- Ăn một quả, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng người em ngạc nhiên vì tôi biết nói tiếng người. Họ làm theo lời tôi, may một cái túi ba gang. Vài ngày sau, tôi bay đến chở người em ra đảo vàng. Người em không tham lam, chỉ lấy đủ một túi ba gang rồi nhờ tôi chở về. Từ đó, cuộc sống của họ trở nên sung túc, và họ còn giúp đỡ người nghèo trong vùng.
Nghe tin, người anh tìm đến hỏi chuyện. Người em thành thật kể lại mọi việc. Lòng tham nổi lên, người anh đề nghị đổi gia tài của mình lấy cây khế. Vợ chồng người em đồng ý. Mùa khế năm sau, tôi lại đến ăn như lần trước.
Người anh cũng than thở với tôi y như người em. Tôi vẫn đáp:
- Ăn một quả, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng.
Người anh vui mừng, nhưng vợ chồng hắn may một cái túi to đến mười hai gang. Khi tôi đưa hắn ra đảo vàng, hắn tham lam nhét đầy vàng bạc châu báu vào túi và cả trên người. Vì quá nặng, tôi không thể bay vững và hất hắn xuống biển.
Câu chuyện này là bài học nhắc nhở chúng ta về sự nguy hiểm của lòng tham. Tham lam sẽ chỉ mang lại hậu quả đáng tiếc.
Kể lại truyện Cây khế qua lời kể của người em - Bài học về lòng tham và sự công bằng
Người em kể lại truyện Cây khế - Mẫu 1
Tôi là người em trong câu chuyện Cây Khế. Mỗi lần nhớ lại quá khứ, lòng tôi trĩu nặng một nỗi buồn sâu thẳm. Đó là nỗi buồn vì người anh trai của tôi đã mãi mãi ra đi do lòng tham không đáy.
Khi cha mẹ tôi còn sống, gia đình chúng tôi có một gia sản khá lớn. Sau khi họ qua đời, người anh chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn, đất đai,… Chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và một cây khế. Vốn tính hiếu thuận, tôi không dám đòi hỏi gì hơn, chỉ biết chấp nhận.
Hàng ngày, vợ chồng tôi chăm chỉ chăm bón cây khế. Chẳng bao lâu, cây khế đơm hoa kết trái, trĩu nặng những quả chín mọng. Cây khế trở thành nguồn sống duy nhất của gia đình tôi.
Một ngày nọ, bỗng nhiên một con chim lạ xuất hiện, đậu trên cây khế. Chim có bộ lông mượt như nhung, thân hình to lớn như đại bàng. Nó ăn hết quả này đến quả khác. Tôi xót xa nhưng không nỡ đuổi chim đi, chỉ đứng dưới gốc cây than thở:
- Gia đình tôi sống nhờ vào cây khế này. Chim ăn hết rồi, chúng tôi biết sống sao đây?
Vừa dứt lời, chim liền cất tiếng nói:
“Ăn một quả khế Trả một cục vàng May túi ba gang Mang đi mà đựng”
Tôi vô cùng ngạc nhiên. Dù không tin lắm, tôi vẫn bảo vợ may một cái túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến chở tôi đến một hòn đảo đầy vàng. Tôi chỉ lấy vừa đủ vàng bỏ vào túi rồi trở về. Từ đó, gia đình tôi trở nên giàu có. Tôi còn giúp đỡ những người nghèo khó trong làng. Vợ chồng tôi luôn biết ơn chim thần. Không lâu sau, người anh biết chuyện, liền đòi đổi gia sản của mình để lấy cây khế. Tôi đồng ý, chỉ mong anh em hòa thuận. Từ đó, người anh ngày ngày đứng dưới gốc cây khế chờ đợi chim lạ.
Cuối cùng, chim lạ cũng xuất hiện. Người anh than thở với chim, và chim cũng đáp lại như lần trước. Lòng tham trỗi dậy, người anh bảo vợ may một cái túi mười hai gang. Khi chim chở anh đến núi vàng, anh không kìm được lòng tham, nhét đầy vàng vào túi và cả trên người. Trên đường về, chim gặp gió mạnh, bảo anh bỏ bớt vàng nhưng anh không nghe. Cuối cùng, chim kiệt sức, hất anh cùng túi vàng xuống biển.
Tôi đau lòng vô hạn. Giá như người anh đừng quá tham lam, có lẽ kết cục đã khác. Qua câu chuyện này, tôi muốn nhắn nhủ mọi người rằng:
“Ở hiền thì được gặp hiền Người ngay thì được phật, tiên độ trì”.
Người em kể lại truyện Cây khế - Mẫu 2
Gia đình tôi có hai anh em, tôi là người em. Bố mẹ tôi đã qua đời hơn mười năm trước. Sau khi ở cùng anh một thời gian, anh tôi lấy vợ và quyết định chia gia tài. Lợi dụng quyền lực, anh chị chiếm hết tài sản quý giá, chỉ để lại cho tôi một mảnh đất nhỏ và cây khế ngọt ở cuối vườn. Là người em, tôi không đòi hỏi gì, cũng không phàn nàn, chỉ chăm chỉ làm thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày.
Đến mùa khế ra quả, bỗng nhiên một con chim lạ đến ăn hết trái này đến trái khác. Tôi xót xa than thở với chim:
- Chim ơi! Gia sản nhà tôi chỉ có mỗi cây khế, chim ăn hết, tôi biết trông cậy vào đâu!
Chim lạ liền đáp:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Hôm sau, chim lạ đưa tôi đến một hòn đảo xa ngoài khơi, nơi đầy vàng bạc châu báu. Theo lời chim dặn, tôi chỉ lấy vừa đủ một túi ba gang rồi chim đưa tôi về nhà. Từ đó, cuộc sống của tôi trở nên sung túc, giàu có.
Biết chuyện, vợ chồng anh tôi ngày nào cũng sang nhà tôi năn nỉ xin đổi gia tài để lấy cây khế. Thương anh, tôi đồng ý đổi. Đến mùa khế, vợ chồng anh tôi thay nhau chờ chực ở gốc cây đợi chim lạ. Chim lạ đến ăn và lặp lại lời hứa như trước. Chim đi rồi, hai vợ chồng anh tôi hí hửng may một cái túi rộng đến mười hai gang thay vì ba gang như lời chim dặn.
Sáng hôm sau, chim lạ đến chở anh tôi ra đảo. Vốn tính tham lam, anh tôi chất đầy vàng bạc châu báu vào túi. Không chỉ vậy, anh còn nhét vàng vào mọi chỗ có thể trên người. Anh ì ạch kéo túi vàng khổng lồ và leo lên lưng chim. Nặng quá, chim phải vỗ cánh ba lần mới nhấc nổi. Khi bay qua biển, gặp luồng gió mạnh, chim lảo đảo nghiêng cánh, hất anh tôi cùng vàng rơi xuống biển sâu.
Tôi rất buồn vì cái chết của anh tôi, nhưng nghĩ cho cùng, đó là bài học cho những kẻ tham lam, ích kỷ như lời ông cha đã dạy: "Tham thì thâm."
Kể lại truyện Cậu bé thông minh bằng lời của cậu bé
Ta là sứ giả của nước Đại Việt. Trong nhiều năm qua, ta đã phụng sự nhà vua - một vị vua hết lòng yêu nước, thương dân. Đặc biệt, ngài luôn trân trọng và tìm kiếm người tài để giúp trị quốc. Vì thế, lần này, ta được lệnh đi khắp các làng quê để tìm kiếm nhân tài.
Một ngày nọ, khi đi qua một ngôi làng, ta thấy hai cha con đang cày ruộng. Tò mò, ta liền đặt câu hỏi thử thách:
- Này, lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?
Thật bất ngờ, người trả lời ta lại là cậu con trai chứ không phải người cha:
- Xin hỏi lại ông, nếu ông trả lời được ngựa của ông một ngày đi được mấy bước, tôi sẽ nói cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường.
Nghe cậu bé hỏi ngược lại, ta nhận ra ngay đây chính là nhân tài mà ta đang tìm kiếm. Ta vội về báo với nhà vua. Để kiểm tra thêm, nhà vua ban cho làng cậu bé ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp, yêu cầu một năm sau phải nộp chín con trâu. Ta lo lắng không biết cậu bé sẽ xử lý thế nào. Một thời gian sau, khi ta đang bàn việc với nhà vua, nghe tiếng khóc ầm ĩ ngoài cửa cung. Hóa ra, cậu bé đang khóc lóc đòi nhà vua bảo bố cậu sinh em bé. Nhà vua bối rối, cậu bé liền hỏi ngược lại sao lại bắt làng cậu nuôi ba con trâu đực để đẻ ra chín con trâu con. Nhà vua nhận ra mình đã bị đánh bẫy và rất hài lòng.
Để thử tài lần nữa, nhà vua sai ta mang một con chim sẻ đến, yêu cầu cậu bé làm ba mâm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé đưa ta một cây kim, nhắn nhà vua mài kim thành dao để mổ chim. Lần này, mọi người đều tâm phục khẩu phục.
Một hôm, sứ giả nước láng giềng mang đến một câu đố khó. Nhà vua lo lắng vì đây là cách họ thăm dò xem nước ta có người tài hay không. Ta liền nhớ đến cậu bé thông minh. Được nhà vua đồng ý, ta mang câu đố đến cho cậu. Không ngờ, cậu bé vừa nghe đã giải được ngay, còn đọc đáp án thành bài đồng dao:
“Tang tình tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang…”
Nhờ trí thông minh của cậu bé, triều đình ta đã giải được câu đố khó, khiến sứ giả nước ngoài phải e dè. Sau đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên trẻ tuổi nhất, còn ta được nhà vua ban thưởng hậu hĩnh vì đã tìm được người tài.
Kể lại truyện Vì sao Hươu có sừng theo lời Hươu
Tôi là Hươu, giống như Nai, Hoẵng và Thỏ, trên đầu chỉ có hai cái tai mềm mại. Tuy nhiên, so với các bạn, tôi là kẻ nhút nhát nhất. Tôi sợ hầu hết mọi thứ: sợ bóng tối, sợ thú dữ, và cả những tiếng động lạ trong rừng.
Dù vậy, bạn bè vẫn quý mến tôi vì sự chăm chỉ và lòng tốt của tôi. Một hôm, nghe tin bác Gấu bị ốm nặng, tôi xin phép mẹ đến thăm bác. Khi đến nơi, tôi nghe bác thều thào:
- Bệnh của bác nặng lắm. Chỉ có lá Thảo Huyền mọc ở khe núi sâu mới chữa được.
Tôi liền nhanh nhảu đáp:
- Cháu chạy nhanh như gió, để cháu vào rừng lấy lá thuốc cho bác.
Không đợi bác Gấu nói thêm, tôi vội chào bác và lên đường ngay. Nhưng đường rừng hiểm trở, đầy thú dữ, khiến tôi bắt đầu run sợ. Khi bóng tối bao trùm khu rừng, nỗi sợ hãi càng lớn. Tôi nép vào một gốc cây và khóc. Bỗng nhiên, Thần cây hiện ra hỏi:
- Tại sao cháu khóc? Cháu bị lạc mẹ à?
- Dạ không ạ. Cháu muốn vào khe núi lấy lá Thảo Huyền để cứu bác Gấu. Nhưng rừng rộng lớn, đầy thú dữ, cháu sợ lắm.
- Nếu sợ, cháu hãy quay về nhà đi!
- Nhưng cháu thương bác Gấu lắm. Không có thuốc, bác ấy sẽ chết mất.
Thần cây mỉm cười và nói:
- Cháu là một đứa trẻ có tấm lòng nhân hậu. Ta sẽ cho cháu những cành cây khỏe khoắn của ta. Cháu hãy đội lên đầu, cháu sẽ có thêm sức mạnh.
Tôi cảm ơn Thần cây rồi tiếp tục hành trình. Tôi băng qua suối, vượt đèo mà không còn sợ thú dữ hay bóng tối nữa. Khi tôi đem lá thuốc về, trời vừa hửng sáng. Tôi thấy muông thú trong rừng đang vây quanh bác Gấu. Tôi vội đưa lá thuốc cho bác nhai. Thật kỳ diệu, chỉ trong vài phút, bác Gấu đã khỏe lại. Mọi người hỏi:
- Cây thuốc gì mà quý đến thế hở bác?
– Thuốc quý đấy, nhưng tấm lòng của Hươu còn quý giá hơn gấp bội. Chính Hươu là người đã cứu bác đấy – Bác Gấu nhẹ nhàng nói.
Lúc ấy, mọi người mới chú ý đến tôi. Ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy trên đầu tôi là những cành cây vững chãi. Tôi kể lại câu chuyện từ đầu đến cuối về việc gặp Thần Cây cho mọi người nghe. Và kỳ lạ thay, cành cây trên đầu tôi đã dính chặt từ lúc nào không hay. Mẹ tôi âu yếm vuốt ve món quà Thần Cây ban tặng và gọi đó là Sừng Hươu.
Kể từ đó, loài Hươu chúng tôi luôn mang sừng trên đầu để đối phó với thú dữ, và tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa.
Hồi tưởng câu chuyện Ba lưỡi rìu qua lời kể của chàng thanh niên nghèo khó
Mẫu 1
Tôi là một tiều phu sống ở vùng núi phía Nam, nơi có những cánh rừng bạt ngàn và dòng suối trong vắt. Cuộc sống của tôi giờ đây đã trở nên sung túc nhờ một cuộc gặp gỡ kỳ diệu cách đây vài năm.
Hồi đó, tôi chỉ là một tiều phu nghèo khó, tài sản duy nhất của tôi là một chiếc rìu sắt cũ kỹ. Một hôm, khi đang chặt củi bên bờ hồ, tôi vô tình làm rơi chiếc rìu xuống nước. Nước hồ sâu thăm thẳm, mà tôi lại không biết bơi nên chẳng thể làm gì. Đúng lúc tuyệt vọng nhất, mặt hồ bỗng gợn sóng, và một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra giữa làn nước. Trên tay cụ cầm một chiếc rìu bằng vàng lấp lánh, rồi hỏi tôi có phải đó là rìu của tôi không. Nhìn chiếc rìu quý giá ấy, tôi lắc đầu từ chối và nói rằng rìu của tôi chỉ là một chiếc rìu sắt bình thường. Nghe vậy, cụ già liền lặn xuống nước và một lát sau lại xuất hiện, lần này với một chiếc rìu bằng bạc. Cụ lại hỏi tôi câu hỏi tương tự, và tôi vẫn kiên quyết lắc đầu. Lần thứ ba, cụ già mang lên chiếc rìu sắt cũ kỹ của tôi. Nhận ra nó, tôi vui mừng khôn xiết và xin cụ trả lại. Cụ già mỉm cười, trao lại chiếc rìu sắt cho tôi, rồi bất ngờ tặng thêm cả hai chiếc rìu vàng và bạc. Cụ nói đó là phần thưởng cho sự trung thực của tôi. Nói xong, cụ biến mất trong làn sương mờ ảo.
Nhờ hai chiếc rìu quý giá ấy, tôi có vốn để mở rộng việc làm ăn, dần dần trở nên giàu có và sống một cuộc đời sung túc.
Mẫu 2
Tôi tên là Khang, một tiều phu sống đơn độc trong căn lều nhỏ ven rừng. Bố mẹ mất sớm, tôi tự lập từ nhỏ, cuộc sống cứ thế trôi qua bình lặng cho đến một ngày định mệnh thay đổi tất cả.
Hôm đó, như thường lệ, tôi vác rìu vào rừng đốn củi. Chẳng may, tôi làm rơi chiếc rìu xuống dòng sông gần đó. Nước sâu và chảy xiết, tôi đứng nhìn chiếc rìu chìm dần mà lòng đầy xót xa. Đó là công cụ duy nhất giúp tôi kiếm sống. Tôi lo lắng không biết ngày mai sẽ ra sao, nước mắt cứ thế tuôn rơi trên gương mặt đen sạm vì nắng gió. Đúng lúc ấy, một cụ già râu tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền từ xuất hiện trước mặt tôi. Cụ nhẹ nhàng hỏi:
– Có chuyện gì mà con khóc thảm thiết vậy?
Tôi thành thật kể lại sự việc cho cụ nghe. Nghe xong, cụ mỉm cười và hứa sẽ giúp tôi tìm lại chiếc rìu. Tôi vui mừng khôn xiết!
Nói rồi, cụ già lặn ngay xuống dòng sông. Chỉ một lát sau, cụ ngoi lên, trên tay cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng lấp lánh. Cụ đưa rìu lên và hỏi tôi:
– Đây có phải rìu của cháu không?
Dù chiếc rìu vàng rất quý giá, nhưng tôi biết đó không phải của mình. Tôi liền lắc đầu và trả lời:
– Không! Đó không phải cây rìu của cháu đâu ông ạ!
Nghe vậy, cụ già lại lặn xuống sông lần nữa. Lần này, cụ mang lên một chiếc rìu bằng bạc lấp lánh. Cụ vẫn hỏi tôi như cũ:
– Đây có phải rìu của cháu không?
Tôi không chút do dự mà đáp ngay:
– Thưa ông, cái này cũng không phải rìu của cháu.
Không nản lòng, cụ già lại lặn xuống sông lần nữa. Lần này, cụ mang lên một chiếc rìu sắt cũ kỹ, nhưng đó chính là chiếc rìu của tôi. Tôi vui mừng reo lên:
– Đây mới chính là rìu của cháu ông ạ!
Nghe tôi nói, ông lão mỉm cười và trao lại chiếc rìu sắt cho tôi. Cụ nói: 'Cháu quả là một chàng trai thật thà, dù nghèo khó nhưng không hề tham lam. Cháu xứng đáng được nhận phần thưởng này. Ta tặng cháu cả ba lưỡi rìu vàng, bạc và sắt.' Nói xong, ông lão biến mất trong làn sương mờ. Tôi chắp tay cảm tạ, biết mình vừa gặp được tiên ông. Nhờ ba chiếc rìu quý giá ấy, cuộc sống của tôi trở nên ấm no, hạnh phúc và viên mãn suốt đời.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa theo lời Sọ Dừa
Tôi là Sọ Dừa, và hôm nay tôi muốn chia sẻ với các bạn câu chuyện cuộc đời đầy kỳ lạ của mình.
Cha mẹ tôi là những người nông dân chất phác, chăm chỉ, sống một cuộc đời giản dị dù nghèo khó. Tuy nhiên, họ luôn mang trong lòng một nỗi buồn vì tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Một ngày nọ, mẹ tôi vào rừng hái củi. Trời nắng gắt, mẹ khát nước và tình cờ nhìn thấy một chiếc sọ dừa đựng nước mưa bên gốc cây. Mẹ uống nước từ đó, và từ khoảnh khắc ấy, tôi được đầu thai. Cha mẹ vui mừng khôn xiết, nhưng không lâu sau, cha qua đời. Khi mẹ sinh ra tôi, tôi không có chân tay, thân hình tròn trịa như một quả dừa. Mẹ đau lòng định bỏ tôi đi, nhưng tôi đã cất tiếng nói: “Mẹ ơi, con là người đấy! Đừng vứt con mà tội nghiệp.” Nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt mẹ, tôi biết mình đã được chấp nhận. Mẹ đặt tên cho tôi là Sọ Dừa.
Khi tôi lớn lên, mẹ ngày càng già yếu. Tôi quyết định xin mẹ cho tôi đến nhà phú ông chăn bò để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Ban đầu, phú ông tỏ ra ngần ngại, nhưng cuối cùng cũng đồng ý. Hàng ngày, tôi lăn theo đàn bò ra đồng, chăm sóc chúng cẩn thận. Đến tối, tôi lại lăn về, dẫn đàn bò trở lại chuồng. Nhờ sự chăm chỉ của tôi, đàn bò ngày càng béo tốt, khiến phú ông vô cùng hài lòng.
Vào mùa vụ bận rộn, phú ông sai ba cô con gái mang cơm ra đồng cho tôi. Hai cô chị lớn kiêu kỳ, thường xuyên hắt hủi tôi, chỉ có cô út là đối xử với tôi bằng sự tử tế và nhân hậu. Một hôm, khi cô út mang cơm đến, tôi đang thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Cô vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi trong hình dạng một chàng trai khỏe mạnh, tuấn tú, ngồi trên chiếc võng đào. Khi biết cô đến, tôi lập tức trở lại hình dạng Sọ Dừa. Qua nhiều lần như vậy, cô út nhận ra tôi không phải người thường và dần nảy sinh tình cảm với tôi. Chính tấm lòng nhân hậu của cô đã khiến tôi đem lòng yêu thương.
Cuối mùa làm thuê, tôi trở về nhà và thuyết phục mẹ sang nhà phú ông hỏi cưới cô út cho tôi. Mẹ ban đầu rất ngạc nhiên, nhưng thấy tôi kiên quyết, bà đã đồng ý. Khi mẹ tôi đến nhà phú ông, ông ta tỏ ra khinh thường và đưa ra một điều kiện thách cưới: “Nếu muốn cưới con gái ta, hãy mang đến một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, và mười vò rượu tăm.” Mẹ tôi lo lắng, nhưng tôi đã động viên bà yên tâm, mọi chuyện tôi sẽ lo liệu.
Đến ngày cưới, tôi mang đầy đủ lễ vật đến nhà phú ông. Cô út đồng ý kết hôn với tôi. Trong lễ cưới, tôi hóa thân thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, đứng bên cô út xinh đẹp khiến mọi người đều ngỡ ngàng và vui mừng.
Sau khi kết hôn, vợ chồng tôi sống rất hạnh phúc. Tôi chăm chỉ học hành và đỗ trạng nguyên trong kỳ thi năm đó. Triều đình cử tôi đi sứ. Trước khi lên đường, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao, và hai quả trứng gà để phòng thân.
Hai người chị vợ ganh tị với hạnh phúc của cô em, đã lập mưu hãm hại. Họ rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi đẩy nàng xuống nước. May mắn thay, nhờ những vật dụng tôi tặng, cô đã thoát chết. Cô dùng dao mổ bụng cá kình, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn, và hai quả trứng gà nở thành một đôi gà đẹp làm bạn cùng cô.
Khi đi sứ trở về, tôi vô cùng đau lòng khi biết tin vợ mất tích. Tôi lập tức ra khơi tìm kiếm và nghe tiếng gà trống gáy: “Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.”
Tôi cho thuyền vào đảo và tìm thấy vợ mình. Chúng tôi ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Khi đưa vợ về nhà, tôi tổ chức tiệc mừng nhưng giấu vợ trong nhà. Hai cô chị thấy vậy thì mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em gặp nạn. Đến cuối tiệc, tôi mới cho vợ ra mắt. Hai cô chị xấu hổ, lén bỏ đi và từ đó biệt tích.
Từ đó, vợ chồng tôi và mẹ sống hạnh phúc bên nhau. Sự biến mất của hai người chị vợ là bài học cho những kẻ ích kỷ, tham lam và độc ác.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời cô Út
Tôi là cô Út, con gái út trong một gia đình có ba chị em. Tôi may mắn được kết duyên với một chàng trai tài giỏi, khôi ngô. Trong một lần chồng tôi đi sứ, tôi và các phu nhân khác cùng ngồi thưởng trà. Khi nghe một vị phu nhân kể về mối lương duyên của mình, tôi cũng nhớ lại câu chuyện tình yêu kỳ lạ giữa tôi và chàng trạng nguyên Sọ Dừa.
Ngày xưa, gia đình tôi thuộc hàng phú quý, có của ăn của để. Cha tôi thuê nhiều người làm, trong đó có một cặp vợ chồng hiền lành, chăm chỉ nhưng mãi chưa có con. Họ sống một cuộc đời giản dị, nhưng nỗi buồn lớn nhất của họ là tuổi đã cao mà vẫn chưa có đứa con nối dõi.
Mãi về sau, người vợ sinh ra một đứa bé không chân, không tay, thân hình tròn trịa như quả dừa. Người ta kể rằng, bà có thai sau khi uống nước mưa từ một chiếc sọ dừa trong rừng. Vì thế, bà đặt tên con là Sọ Dừa. Khi sinh ra, thấy hình hài dị biệt của con, bà định vứt đi, nhưng Sọ Dừa đã cất tiếng nói:
- Mẹ ơi! Con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nhiều năm trôi qua, Sọ Dừa vẫn chỉ lăn lông lốc, không thể làm việc như người bình thường. Mẹ cậu ngày càng lo lắng. Thương mẹ, Sọ Dừa xin được đến nhà cha tôi chăn bò. Ban đầu, cha tôi ngần ngại vì sợ cậu không thể làm tốt công việc, nhưng cuối cùng cũng đồng ý.
Trái với những nghi ngờ ban đầu, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Dù chỉ lăn theo đàn bò ra đồng rồi về chuồng, nhưng đàn bò luôn no căng bụng. Cha tôi rất hài lòng với sự chăm chỉ của cậu.
Đến mùa vụ, cha tôi sai ba chị em chúng tôi thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai chị tôi kiêu kỳ, thường xuyên hắt hủi cậu. Riêng tôi, thấy Sọ Dừa hiền lành, tốt bụng nên luôn đối xử tử tế với cậu.
Một hôm, khi mang cơm đến chân đồi, tôi nghe thấy tiếng sáo véo von. Tò mò, tôi rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên võng thổi sáo. Bất ngờ, tôi vô tình làm gãy cành cây, tiếng động khiến chàng trai biến mất, và Sọ Dừa lại xuất hiện. Qua nhiều lần như vậy, tôi nhận ra Sọ Dừa không phải người thường. Trước vẻ đẹp kỳ lạ của cậu, tôi đem lòng yêu thương.
Dường như Sọ Dừa hiểu được tình cảm của tôi. Một hôm, cha tôi nói chuyện với ba chị em chúng tôi về Sọ Dừa. Lúc đó, tôi mới biết mẹ Sọ Dừa đã đến xin cưới vợ cho cậu. Cha tôi thách cưới một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, và mười vò rượu tăm. Cả cha tôi và mẹ Sọ Dừa đều nghĩ cậu sẽ từ bỏ, nhưng đúng ngày hẹn, Sọ Dừa mang đủ lễ vật đến. Cha tôi gọi ba chị em chúng tôi ra và hỏi:
- Sọ Dừa đến xin cưới vợ. Ai trong các con đồng ý lấy cậu ấy?
Hai chị tôi tỏ vẻ khinh thường, nhưng tôi mỉm cười đồng ý. Cha tôi tuy ngạc nhiên nhưng đành nhận lễ.
Ngày cưới của chúng tôi diễn ra linh đình. Khi rước dâu, Sọ Dừa biến thành chàng trai khôi ngô tuấn tú mà tôi từng thấy. Mọi người đều ngỡ ngàng, chỉ có hai chị tôi là ghen tức.
Vợ chồng tôi sống hạnh phúc bên nhau. Chồng tôi chăm chỉ học hành và đỗ trạng nguyên. Nhưng rồi chàng phải đi sứ theo lệnh vua. Trước khi đi, chàng đưa cho tôi một hòn đá lửa, một con dao, và hai quả trứng gà, dặn tôi luôn mang theo người.
Từ ngày tôi lấy chồng, hai chị tôi đối xử với tôi khác hẳn. Một hôm, họ rủ tôi chèo thuyền ra biển. Không ngờ, tôi bị ngã xuống nước và bị cá kình nuốt chửng. Trong bụng cá, tôi dùng dao mổ bụng cá, nhóm lửa từ hòn đá, và nướng thịt cá ăn. Hai quả trứng chồng tôi tặng cũng nở thành đôi gà đẹp, làm bạn cùng tôi trên đảo hoang. Một ngày nọ, chú gà trống gáy vang, gọi thuyền của chồng tôi đến cứu. Chúng tôi đoàn tụ, mở tiệc mừng. Hai chị tôi giả vờ thương xót tôi, nhưng khi thấy tôi xuất hiện, họ xấu hổ bỏ đi và từ đó biệt tích.
Kể lại câu chuyện Nàng tiên Ốc bằng lời của Nàng tiên
Tôi vốn là một nàng tiên ốc, con gái của vua Thủy Tề. Một ngày nọ, khi đang dạo chơi dọc bờ sông, tôi bất ngờ bị một bàn tay chộp lấy. Hóa ra đó là một bà cụ già làm nghề mò cua, bắt ốc. Bà cụ có khuôn mặt khắc khổ, quần áo rách rưới, nhưng ánh mắt lại ánh lên sự dịu dàng. Bà nhìn tôi chăm chú, bởi tôi là một con ốc xanh biếc, lấp lánh dưới ánh nắng. Bà cụ thốt lên:
- Ôi, con ốc này đẹp quá! Ta sẽ không bán nó đâu. Ta sẽ mang nó về nuôi.
Kể từ đó, tôi sống trong một chiếc chum nhỏ trong nhà bà cụ. Thấy bà cụ cô đơn, nghèo khó, tôi quyết định giúp đỡ bà. Mỗi ngày, khi bà cụ đi làm, tôi liền chui ra khỏi vỏ ốc, dọn dẹp nhà cửa, cho đàn lợn ăn, nhổ cỏ, tưới rau… Vì thế, mỗi lần trở về, bà cụ đều thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Điều này khiến bà nghi ngờ. Một hôm, bà giả vờ đi làm, rồi bất ngờ quay lại rình xem. Như thường lệ, tôi chui ra khỏi vỏ ốc để giúp bà, bỗng bà cụ xuất hiện, đập vỡ vỏ ốc, ôm chặt lấy tôi và nói:
- Con ơi, đừng đi nữa! Hãy ở lại đây với già, để già bớt cô đơn.
Cảm động trước tấm lòng nhân hậu của bà cụ, tôi quyết định ở lại, không trở về Thủy cung nữa. Từ đó, hai mẹ con sống bên nhau trong hạnh phúc và ấm áp.
Kể lại câu chuyện Nàng tiên Ốc bằng lời bà lão
Ta là một bà lão sống một mình trong căn nhà nhỏ, cô đơn và nghèo khó. Tuổi già sức yếu, không còn ai bên cạnh đỡ đần, ta phải tự mình mò cua bắt ốc để kiếm sống qua ngày. Một hôm, ta bắt được một con ốc xinh đẹp lạ thường, vỏ nó màu xanh biếc, lấp lánh dưới ánh mặt trời như ngọc quý. Thấy ốc đẹp quá, ta không nỡ bán nên mang về thả vào chum nước ngoài sân.
Kể từ ngày đó, mỗi lần đi làm về, ta đều thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, vườn tược được chăm sóc cẩn thận, lợn gà no nê. Trên bàn còn có sẵn mâm cơm nóng hổi. Ban đầu, ta nghĩ hàng xóm thương tình nên giúp đỡ. Nhưng không, đó không phải sự thật. Ta quyết định tìm hiểu xem ai là người bí ẩn đã giúp mình.
Một hôm, ta giả vờ đi làm như thường lệ, nhưng đi được nửa đường thì quay lại, tìm chỗ kín đáo để rình xem. Sau một hồi chờ đợi, ta bất ngờ thấy một cô gái tuổi đôi mươi, đẹp như tiên nữ, bước ra từ chum nước. Nàng nhẹ nhàng quét dọn nhà cửa, chăm sóc vườn tược và cho lợn gà ăn. Ta vô cùng ngạc nhiên. Đoán rằng nàng tiên này chui ra từ vỏ ốc, ta lặng lẽ tiến lại gần, cầm vỏ ốc lên và đập vỡ nó. Ta không muốn nàng biến mất, ta muốn nàng ở lại với mình. Nghe tiếng động, cô gái vội chạy đến chum nước, nhưng đã quá muộn. Thấy nàng bối rối, ta liền nói:
- “Con gái ơi! Hãy ở lại đây với ta.”
Cô gái đồng ý. Từ đó, nàng tiên ốc trở thành người con gái yêu quý của ta. Nhờ có nàng, cuộc sống của ta trở nên ấm áp và hạnh phúc hơn bao giờ hết.
Kể lại câu chuyện Thạch Sanh bằng lời của Lý Thông
Tôi là Lý Thông, một người chuyên buôn bán rượu. Một lần, trên đường đi bán rượu ở xã Cao Bình, tôi dừng chân nghỉ ngơi tại một quán nước gần gốc đa. Tình cờ, tôi thấy một chàng trai vác về một đống củi khổng lồ. Nhận thấy sức mạnh phi thường của anh ta, tôi liền tìm cách làm quen. Anh ta tên là Thạch Sanh, mồ côi từ nhỏ, không có gì ngoài chiếc búa cha để lại. Thấy anh ta thật thà, dễ bảo, tôi quyết định kết nghĩa anh em và đưa anh về nhà mình.
Từ ngày Thạch Sanh về nhà, mẹ con tôi đỡ vất vả hẳn. Lúc bấy giờ, trong vùng xuất hiện một con chằn tinh hung dữ, có phép thuật cao cường, thường xuyên bắt người ăn thịt. Để giữ yên bình, dân làng phải nộp người cho nó. Khi đến lượt tôi, tôi nghĩ ngay đến Thạch Sanh. Tôi mời anh ăn uống no say rồi nhờ anh đi trông miếu thay mình, viện cớ còn phải cất mẻ rượu mới. Thạch Sanh ngay lập tức đồng ý, khiến mẹ con tôi vô cùng mừng rỡ.
Đêm đó, tôi đang ngủ thì bỗng nghe tiếng Thạch Sanh gọi. Mẹ con tôi hoảng hốt, tưởng anh về đòi mạng. Nhưng Thạch Sanh kể lại rằng anh đã giết chết chằn tinh. Mẹ con tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi liền nghĩ ra kế lừa Thạch Sanh, bảo rằng chằn tinh là con vật nhà vua nuôi, không được giết, và khuyên anh trở về gốc đa. Sau đó, tôi mang đầu chằn tinh lên quan lĩnh thưởng và được phong làm đô đốc.
Năm đó, nhà vua tổ chức ném cầu kén rể cho công chúa. Nhưng khi công chúa chuẩn bị ném cầu, một con đại bàng khổng lồ đã cắp nàng đi mất. Thạch Sanh, đang ngồi dưới gốc đa, thấy vậy liền lấy cung bắn trúng đại bàng. Tuy nhiên, con vật vẫn bay được về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu và tìm ra hang ổ của nó.
Tôi được vua giao nhiệm vụ tìm công chúa và hứa sẽ gả nàng cho tôi, thậm chí truyền ngôi. Nhưng tôi không biết phải làm sao, liền nghĩ đến Thạch Sanh. Tôi tìm về gốc đa và gặp lại anh. Thạch Sanh tình nguyện xuống hang cứu công chúa. Tôi buộc dây vào thắt lưng anh, dặn rằng khi cứu được công chúa thì kéo nàng lên trước, sau đó tôi sẽ thả dây xuống cứu anh. Nhưng khi công chúa lên được, tôi đã vít cửa hang lại, bỏ mặc Thạch Sanh.
Sau khi công chúa về cung, nàng không nói năng gì, khiến vua cha lo lắng. Tôi mời nhiều nhà sư và đạo sĩ về làm lễ, nhưng vô ích. Một hôm, từ trong ngục tối vang lên tiếng đàn. Công chúa bỗng cất tiếng và đòi gặp người đánh đàn. Vua cho gọi người ấy vào cung. Thạch Sanh xuất hiện và vạch trần tội lỗi của tôi. Dù vậy, anh vẫn tha cho mẹ con tôi về quê làm ăn. Nhưng trên đường về, do phạm lời thề năm xưa, tôi đã bị sét đánh chết.
Kể lại truyện Cô bé quàng khăn đỏ theo lời của cô bé quàng khăn đỏ
Tôi là một cô bé bảy tuổi, rất yêu quý bà ngoại của mình. Bà luôn dành cho tôi sự quan tâm và tình yêu thương vô bờ. Một lần, bà tặng tôi chiếc khăn đỏ xinh xắn, và từ đó, tôi luôn đội nó trên đầu. Vì vậy, mọi người gọi tôi là “cô bé quàng khăn đỏ”. Một ngày nọ, bà tôi bị ốm, mẹ làm bánh và dặn tôi mang qua cho bà. Trước khi đi, mẹ nhắc nhở: "Con nhớ đi thẳng đến nhà bà, đừng la cà. Đường qua rừng có nhiều chó sói nguy hiểm lắm."
Tôi vâng lời mẹ và bắt đầu hành trình đến nhà bà. Nhưng trên đường đi, tôi bị thu hút bởi những bông hoa rực rỡ và những chú bướm xinh đẹp bay lượn trong rừng. Tôi quên mất lời mẹ dặn, rẽ vào con đường vòng qua rừng. Đột nhiên, một chú sóc nhỏ xuất hiện và nói: "Cô bé quàng khăn đỏ ơi, cô quên lời mẹ dặn rồi. Đường này nguy hiểm lắm, có chó sói đấy!" Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi, không để ý đến lời cảnh báo.
Giữa khu rừng, tôi gặp một con sói lớn. Nó hỏi tôi: "Này nhóc, đi đâu thế?" Tôi sợ hãi nhưng vẫn trả lời: "Cháu đang đi đến nhà bà ngoại." Sói tiếp tục hỏi: "Nhà bà cháu ở đâu?" Tôi ngây thơ trả lời: "Nhà bà cháu ở cuối khu rừng, có ống khói cao." Ngay lập tức, sói bỏ đi. Tôi mừng rỡ vì thoát được sói và tiếp tục hái hoa. Khi đến nhà bà, tôi thấy cửa mở toang, không có ai. Tôi gọi bà nhưng không thấy trả lời. Khi tiến vào phòng, tôi thấy bà nằm trên giường, nhưng trông rất lạ. Tôi hỏi:
- Bà ơi! Sao hôm nay tai bà to thế?
- Tai bà to để nghe cháu nói rõ hơn.
- Thế còn mắt bà, sao hôm nay mắt bà to thế?
- Mắt bà to để nhìn cháu rõ hơn. Khi nhìn thấy miệng bà rất khác thường, tôi hoảng hốt hỏi:
- Thế còn mồm bà, sao… sao hôm nay mồm bà to thế?
Vừa nói xong, sói nhảy ra và nuốt chửng tôi. Tôi vô cùng sợ hãi. May mắn thay, bác thợ săn đi ngang qua, nghi ngờ sói đã ăn thịt bà nên mổ bụng nó và cứu hai bà cháu tôi. Tôi và bà ôm nhau vui mừng, cảm ơn bác thợ săn.
Trên đường về nhà, tôi cảm thấy ân hận vì đã không nghe lời mẹ. Tôi hứa từ nay sẽ không ham chơi và luôn làm theo lời mẹ dặn.
Kể lại câu chuyện Sự tích trầu cau bằng lời của nhân vật trong truyện
Tôi, một tảng đá vôi, mang trong mình một câu chuyện dài. Không phải là một tảng đá bình thường, tôi từng là một con người, với một quá khứ đầy cảm xúc và kỷ niệm.
Thuở ấy, gia đình họ Cao chúng tôi có hai anh em. Tôi và người anh của mình, giống nhau như hai giọt nước, đến nỗi không ai có thể phân biệt được ai là anh, ai là em. Chúng tôi hơn nhau một tuổi và luôn yêu thương, quý trọng nhau. Những ngày tháng bên cha mẹ và người anh ruột là những ký ức hạnh phúc nhất của tôi. Nhưng hạnh phúc ấy không kéo dài mãi. Khi chúng tôi vừa bước vào tuổi thanh xuân, cha mẹ lần lượt qua đời, để lại hai anh em tôi tựa vào nhau mà sống.
Không còn cha mẹ dạy dỗ, chúng tôi đến xin học với thầy Lưu. Cả hai đều chăm chỉ học hành, được thầy yêu quý như con. Thầy có một cô con gái tuổi đôi mươi, xinh đẹp và dịu dàng, khiến lòng tôi xao xuyến. Một ngày nọ, cô gái mời chúng tôi ăn cháo. Tôi nghĩ mình phải nhường anh ăn trước, vì anh lớn hơn. Hành động ấy đã giúp cô gái phân biệt được ai là anh, ai là em. Sau đó, anh tôi cưới cô gái làm vợ. Từ đó, tình cảm giữa chúng tôi dường như không còn thắm thiết như trước. Tôi cảm thấy mình trở nên thừa thãi trong gia đình nhỏ bé ấy.
Cảm giác tủi thân và cô đơn tràn ngập, tôi bỏ đi vào rừng sâu. Đêm xuống, tôi dừng chân bên một con suối rộng, nước xanh biếc. Không thể vượt qua, tôi ngồi khóc bên bờ suối. Sương đêm lạnh lẽo thấm vào da thịt, và tôi dần hóa thành tảng đá vôi. Anh tôi, khi về nhà không thấy tôi, đã đi tìm. Anh cũng đến con suối ấy, ngồi tựa vào tảng đá mà không biết đó chính là tôi. Anh gọi tên tôi, giọt sương rơi lã chã, và rồi anh cũng hóa thành cây cau bên tảng đá. Tôi muốn hét lên rằng tôi tha thứ cho anh, nhưng đã quá muộn.
Người dân trong vùng gọi tôi là đá vôi, anh tôi là cây cau, và chị dâu tôi là cây trầu.
Chị dâu tôi, khi không thấy chồng và em đâu, đã đi tìm. Chị cũng đến con suối ấy, ngồi tựa vào cây cau mà không biết đó chính là chồng mình. Chị than khóc, vật vã, và rồi hóa thành cây trầu leo quấn lấy cây cau. Câu chuyện của chúng tôi lan truyền, khiến ai nấy đều xót xa. Tôi mong rằng tình cảm anh em, vợ chồng sẽ mãi gắn bó như chúng tôi.
- Bày tỏ tình cảm và cảm xúc về cảnh vật trong tranh - Dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu lớp 3
- Lời ca khúc Tháng tư là lời nói dối của em - Giai điệu ngọt ngào và sâu lắng
- Dẫn chứng về lòng vị tha: Những ví dụ điển hình về sự bao dung và nhân ái trong cuộc sống hàng ngày
- Văn Mẫu Lớp 9: Nghị Luận Xã Hội Về Ước Mơ - 7 Dàn Ý Chi Tiết & 33 Bài Văn Đặc Sắc
- Hướng Dẫn Viết Đoạn Văn Tiếng Anh Về Sở Thích Cá Nhân (Kèm Dàn Ý Và 47 Mẫu Tham Khảo)