Truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' - Trích từ tập 'Nắng trong vườn' (1938) của nhà văn Thạch Lam
Thạch Lam, một cây bút lãng mạn nổi tiếng, mang đến những tác phẩm văn chương trong sáng, giản dị nhưng ẩn chứa chiều sâu tâm hồn. Điều này được thể hiện rõ nét qua truyện ngắn "Hai đứa trẻ", một tác phẩm sẽ được khám phá trong chương trình Ngữ Văn lớp 11.

EduTOPS hân hạnh giới thiệu tài liệu chi tiết về nhà văn Thạch Lam và kiệt tác "Hai đứa trẻ". Mời bạn đọc cùng khám phá và cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm này.
Hai đứa trẻ
Nghe đọc truyện Hai đứa trẻ:
Tiếng trống thu không vang lên từ chợ huyện nhỏ, từng tiếng một lan xa gọi buổi chiều về. Phía tây trời rực đỏ như ngọn lửa cháy, những đám mây hồng rực như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng in bóng đen sẫm, nổi bật trên nền trời chiều.
Chiều dần buông, một buổi chiều êm đềm như lời ru, tiếng ếch nhái văng vẳng từ đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, tiếng muỗi vo ve bắt đầu vang lên. Liên ngồi lặng yên bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị chìm dần vào bóng tối, nỗi buồn man mác của buổi chiều quê thấm đẫm tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao, nhưng chị cảm thấy lòng mình trĩu nặng trước khoảnh khắc ngày tàn.
- Em thắp đèn lên nhé chị Liên?
Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:
- Cứ từ từ một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo trong ấy nhiều muỗi.
An đặt bao diêm xuống bàn rồi cùng chị ra ngồi trên chiếc chõng nan, chiếc chõng kêu cót két dưới sức nặng của hai chị em.
- Chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
- Ừ, để rồi chị bảo mẹ mua cái mới thay vào.
Hai chị em ngồi yên lặng nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn, ánh sáng từ đèn treo trong nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...
Những nguồn ánh sáng chiếu ra phố, khiến cát lấp lánh từng chỗ và con đường trở nên mấp mô hơn bởi những hòn đá nhỏ, một bên sáng một bên tối.
Chợ đã tan từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng im bặt. Trên mặt đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng ban ngày hòa lẫn mùi cát bụi quen thuộc, khiến chị em Liên cảm nhận như đó là mùi riêng của đất, của quê hương. Một vài người bán hàng về muộn đang thu dọn đồ đạc, gánh hàng đã xỏ sẵn vào quang, họ còn đứng nói chuyện với nhau vài câu.
Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, tìm kiếm những thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ thứ gì có thể dùng được từ những thứ người bán hàng bỏ lại. Liên nhìn thấy mà lòng đầy thương cảm, nhưng chính chị cũng chẳng có gì để giúp chúng.
Trời nhá nhem tối, lúc này chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế từ trong ngõ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay mang vô số đồ đạc: tất cả cửa hàng của chị.
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
Chị Tí đặt chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước một lúc rồi mới thở dài trả lời Liên:
- Ối chao, sớm muộn gì cũng chẳng khác nhau là mấy.
Ban ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn hàng nước dưới gốc cây bàng, cạnh bức tường gạch cũ. Khách hàng của chị là ai? Mấy người phu gạo, phu xe, thỉnh thoảng có vài chú lính lệ trong huyện hoặc người nhà thầy thừa ghé qua uống bát nước chè tươi, hút điếu thuốc lào. Chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ lúc chập tối cho đến đêm khuya.
Chị kê xong chõng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kỳ lại để ngồi têm trầu, còn thằng cu thì loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Lúc ấy chị mới ngẩng lên nói chuyện với Liên:
- Cô chưa dọn hàng à?
Liên giật mình, kêu khẽ: “Chết chửa!”, rồi đứng dậy giục em:
- Vào đóng cửa hàng thôi, không mẹ mắng chết.
An đáp:
- Hôm nay chưa chắc mẹ có ra không, chị ạ. Mẹ còn bận làm gạo cơ mà.
Ngày nào cũng vậy, cứ chập tối, mẹ Liên tạt qua thăm hàng một lần, và bà dặn hễ nghe tiếng trống thu không là phải đóng cửa hàng lại. Thế mà Liên mải ngắm phố quên mất! Giờ đây, Liên vội vàng vào thắp đèn, xếp lại những quả sơn đen, trong lúc An đi tìm then cài cửa cho chắc chắn. Cửa hàng nhỏ xíu mà hai chị em trông coi là một cửa hàng tạp hóa, mẹ Liên dọn từ khi cả nhà rời Hà Nội về quê sống, vì thầy Liên mất việc. Gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng tấm phên nứa dán giấy báo. Mẹ Liên giao cho Liên trông coi - bà còn bận làm hàng xáo - và buổi tối hai chị em cùng ngủ lại đây để trông hàng.
Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng. Hôm nay là ngày phiên mà bán cũng chẳng được bao nhiêu.
- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?
An ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Vâng, bà ta mua hai bánh, còn cụ Chi lấy chịu nửa bánh nữa.
Liên cầm bàn tính để cộng số tiền, nhưng trong cửa hàng nóng bức và muỗi vo ve, chị ngần ngại rồi xếp hết tiền vào tráp, không tính nữa:
- Thôi, để mai tính một thể.
An nhìn chị, chỉ chờ lúc ấy. Hai chị em đều muốn nhanh chóng đóng cửa hàng để ra ngoài ngồi trên chõng, ngắm nhìn cảnh phố. Liên khóa vội tráp tiền bằng chiếc chìa khóa chị đeo trên dây xà tích bạc ở thắt lưng - chiếc xà tích và chìa khóa mà chị rất quý và hãnh diện, vì nó chứng tỏ chị là một cô gái lớn và đảm đang.
- A, cô bé làm gì thế?
Nghe tiếng nói và tiếng cười khanh khách, chị em Liên không cần quay lại cũng biết ai vừa bước vào. Đó là cụ Thi, một bà già hơi điên, thường mua rượu ở hàng Liên. Liên đã quen tính cụ, chị lặng lẽ rót một cút rượu đầy đưa cho cụ; chị không dám nhìn mặt cụ, trong lòng hơi run sợ, chỉ mong cụ chóng đi. Cụ cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã:
- A, em Liên thảo nhỉ. Hôm nay lại rót đầy cho chị đây.
Cụ ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, rồi vừa chép miệng vừa lần ruột tượng trả tiền - Cụ đặt ba đồng xu vào tay Liên, xoa đầu chị một cái rồi lảo đảo bước ra ngoài. Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng.
*
**
Trời đã vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung, thoảng gió mát. Đường phố và các ngõ dần chìm trong bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, chỉ còn vài cửa hàng hé ra khe ánh sáng. Trẻ con tụ tập ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ khiến An thèm nhập bọn, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải trông hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chõng, đưa mắt theo những bóng người về muộn lặng lẽ đi trong đêm.
Vòm trời ngàn sao lấp lánh, hòa cùng ánh sáng của đom đóm bay lượn trên mặt đất hay đậu trên cành cây. An và Liên ngước mắt nhìn lên trời, tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ bao la thăm thẳm đối với tâm hồn hai đứa trẻ đầy bí ẩn và xa lạ, khiến trí óc mỏi mệt, nên chỉ một lát sau, hai chị em lại chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân thuộc quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí. Về phía huyện, một chấm lửa nhỏ vàng lơ lửng trong đêm tối, biến mất rồi lại hiện ra... An chỉ tay bảo chị:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến rồi.
Tiếng đòn gánh kĩu kịt vang lên rõ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ hai chị em: bác Siêu đã đến gần, đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống nhóm lửa, thổi vào cái nứa con. Bóng bác mênh mông ngả xuống đất, kéo dài đến tận hàng rào hai bên. An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là thứ xa xỉ, đắt tiền, hai chị em chẳng bao giờ mua được. Liên nhớ lại khi ở Hà Nội, được thưởng thức những món quà ngon, lạ - lúc ấy mẹ Liên còn nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Kỷ niệm ấy giờ chỉ còn là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cửa hàng này, đêm nào hai chị em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng, giữa bóng tối của phố chợ.
Đêm tối đã quen thuộc với Liên, chị không còn sợ nó nữa. Tối bao trùm mọi nơi: con đường dài ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng thêm sẫm đen. Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí và bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, vặn nhỏ, thưa thớt từng hạt sáng lọt qua phên nứa. Cả phố xá trong huyện giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm một gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe.
Chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy món hàng, chậm rãi nói:
- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?
Chị muốn nói đến mấy chú lính trong huyện, mấy người nhà của cụ thừa, cụ lục - những khách hàng quen thuộc của chị. Bác Siêu trả lời một cách vẩn vơ.
- Hôm nay trong ông giáo cũng có tổ tôm. Chắc họ không phải đi gọi đâu.
Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng vài tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Trong bóng tối, những con người ấy đang mong đợi một điều gì tươi sáng hơn cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ.
*
**
An và Liên đã buồn ngủ, mắt díu lại. Dù vậy, hai chị em vẫn cố gắng thức thêm chút nữa, trước khi vào hàng đóng cửa đi ngủ. Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống - đường sắt chạy ngang qua ngay trước mặt phố - để bán hàng, biết đâu còn có vài người mua. Nhưng cũng như mọi đêm, Liên không hy vọng còn ai đến mua nữa. Đêm khuya, họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng. Lý do Liên và em cố thức là vì điều khác: họ muốn được nhìn chuyến tàu. Chín giờ tối, chuyến tàu từ Hà Nội đi qua huyện. Đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
An đã nằm xuống, gối đầu lên đùi chị, mí mắt sắp sửa khép lại, còn dặn dò:
- Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.
- Ừ, em cứ ngủ đi.
Liên khẽ quạt cho An, vuốt lại mái tóc tơ của em. Đầu em bé nặng dần trên người Liên; chị ngồi yên, không động đậy. Qua khe lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy. Hoa bàng rụng xuống vai Liên khẽ khàng, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên trở nên yên tĩnh, với những cảm giác mơ hồ không thể hiểu hết.
Tiếng trống cầm canh từ huyện vang lên một tiếng ngắn, khô khan, không lan xa, rồi chìm ngay vào bóng tối. Người vắng bóng, trên hàng ghế chị Tí chỉ còn hai ba bác phu ngồi uống nước và hút thuốc lào. Nhưng một lát sau, từ phố huyện đi ra, hai ba người cầm đèn lồng lung lay, bóng dài in xuống đất: mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ từ tỉnh về. Bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga, lên tiếng:
- Đèn ghi đã ra kia rồi.
Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa vang lên từ đâu đó, trong đêm khuya kéo dài theo gió xa xôi. Liên đánh thức em:
- Dậy đi, An. Tàu đến rồi.
An nhổm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh táo. Hai chị em nghe tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng ở đằng xa, tiếp theo là tiếng hành khách ồn ào khẽ vang. Mấy năm nay buôn bán kém, người lên xuống ít, có khi hai chị em chờ mãi chẳng thấy ai. Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng đến nửa đêm. Nhưng giờ họ đóng cửa cả, im lặng và tối đen như ngoài phố.
Hai chị em không phải chờ lâu. Tiếng còi rít lên, và tàu rầm rộ tiến đến. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng xuống đường. Liên thoáng thấy những toa hạng trên sang trọng, lố nhố người, đồng và kền lấp lánh, cùng các cửa kính sáng. Rồi tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa cuối, xa dần rồi khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và ánh sáng mờ hơn. Nhưng họ từ Hà Nội về! Liên lặng lẽ mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như mang một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn so với Liên, khác hẳn ánh sáng từ ngọn đèn của chị Tí và bếp lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao trùm xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mông và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
Liên vỗ vai em ngồi xuống chõng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên. Tiếng vang động của xe lửa nhỏ dần, rồi mất hẳn trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện giờ mới thật sự yên tĩnh, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga, bóng đêm hòa với bóng người đi về; chị Tí đang sửa soạn đồ đạc, bác Siêu gánh hàng vào làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu từ lúc nào.
Liên quay lại nhìn em, thấy An đã ngủ say, tay nắm chặt tà áo chị và đầu vẫn dựa vào vai. Liên nhìn quanh đêm tối, gió đã thoảng lạnh và đom đóm không còn nữa. Chị cúi xuống đỡ em vào trong hàng, mắt cũng đã ríu lại. Chị gài cửa cẩn thận và vặn nhỏ đèn đặt trên quả thuốc sơn đen. Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay, nhắm mắt lại. Những cảm giác ban ngày lắng xuống trong tâm hồn Liên, hình ảnh thế giới quanh mình mờ dần trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao điều xa xôi không biết, như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi chìm vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
I. Đôi nét về tác giả Thạch Lam
- Thạch Lam (1910 - 1942), tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân), sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức có gốc quan lại.
- Ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên sáng lập của nhóm Tự lực văn đoàn.
- Thời thơ ấu, Thạch Lam sống ở quê nhà là phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau đó, ông theo cha chuyển đến tỉnh Thái Bình.
- Ông học tập tại Hà Nội, sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất thì bắt đầu sự nghiệp viết báo và sáng tác văn chương.
- Thạch Lam thường viết những truyện ngắn “không có cốt truyện”, tập trung khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống đời thường.
- Văn phong của ông trong sáng, giản dị nhưng ẩn chứa chiều sâu tâm hồn.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942)
- Tiểu thuyết: Ngày mới (1939)
- Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường (1943)...
II. Khám phá truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' của Thạch Lam
1. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Thạch Lam.
2. Tóm tắt
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống của những con người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo qua góc nhìn của nhân vật Liên. Liên và An sống tại một phố huyện nghèo, được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Trước đây, gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng vì bố mất việc nên phải chuyển về quê. Những người như chị Tí bán hàng nước, gánh phở của bác Siêu, hay sập hát của bác Xẩm... đều là những kiếp người nhỏ bé, nghèo khổ nơi phố huyện. Liên, cũng như những người dân nơi đây, ngày ngày đều mong ngóng chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh chuyến tàu mang theo âm thanh và ánh sáng, gợi lên trong Liên những ký ức về Hà Nội và khát vọng về một cuộc sống tươi sáng hơn.
3. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Cảnh phố huyện lúc chiều tà.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Cảnh phố huyện khi đêm về.
- Phần 3: Còn lại. Cảnh chờ đợi chuyến tàu đêm của người dân phố huyện.
4. Thể loại
- 'Hai đứa trẻ' của Thạch Lam thuộc thể loại truyện ngắn.
- Truyện ngắn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, ít nhân vật và sự kiện phức tạp; cốt truyện thường đơn tuyến; chi tiết cô đọng; ngôn từ giàu ẩn ý…
5. Nội dung
Truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' thể hiện niềm xót thương sâu sắc trước những kiếp người sống trong cơ cực, tăm tối và bế tắc nơi phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ sự trân trọng trước những ước mơ đổi đời, dù còn mơ hồ, của những con người nhỏ bé ấy.
6. Nghệ thuật
Cốt truyện đơn giản, hình ảnh giàu tính biểu tượng, giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng…
III. Dàn ý phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
(1) Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' của Thạch Lam.
(2) Thân bài
a. Cảnh phố huyện khi chiều xuống
* Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện:
- Điểm nhìn: Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên.
- Âm thanh: Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.
- Hình ảnh, màu sắc: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.
- Đường nét: Dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.
=> Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thể hiện sự cảm nhận tinh tế của nhân vật.
* Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện
- Cảnh chợ tàn:
- Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
- Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.
- Con người:
- Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại ở chợ.
- Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
- Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
- Bác Siêu với gánh hàng phở - một thứ quà xa xỉ.
- Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.
=> Sự nghèo đói bao trùm lên khu phố huyện nghèo.
* Tâm trạng của Liên
- Ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chìm trong bóng tối, nỗi buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ.
- Lòng buồn man mác trước khoảnh khắc ngày tàn.
- Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng chẳng có gì để giúp chúng.
- Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước chè tươi chẳng kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên.
=> Một tâm hồn giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
b. Cảnh phố huyện khi về đêm
* Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”
- Phố huyện ngập chìm trong bóng tối:
- “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
- “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.
=> Bóng tối bao trùm, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.
- Ánh sáng chỉ còn leo lét ở một vài nơi: Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh trong hiệu khách, ngọn đèn trong cửa hiệu của Liên…
=> Ánh sáng chỉ còn là khe sáng, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…
=> Biểu tượng cho những kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.
* Cuộc sống của những kiếp người nghèo khổ
- Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:
- Chị Tí dọn hàng nước.
- Bác Siêu hàng phở thổi lửa.
- Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”.
- Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.
- Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Chị Tí “mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào”. Mơ ước: “Chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
=> Dù cuộc sống quẩn quanh, bế tắc nhưng con người nơi đây vẫn không ngừng mơ ước về một tương lai tươi sáng hơn.
c. Cảnh đợi tàu của những người dân phố huyện
- Lí do đợi tàu của Liên và An:
- Để bán hàng theo lời mẹ dặn.
- Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua - hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:
- Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”...
- Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.
- Khi tàu đến:
- Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng xuống đường.
- Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.
- Liên mơ về Hà Nội trong kí ức đầy ánh sáng.
- Khi tàu đi:
- Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.
- Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Cả phố huyện bây giờ mới thật sự yên tĩnh, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn.
- Chị Tí sửa soạn chuẩn bị ra về, bác Siêu gánh hàng vào trong làng, vợ chồng bác xẩm ngủ trên manh chiếu từ bao giờ…
- Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên.
=> Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ. Qua đó, Thạch Lam muốn thể hiện ước mơ thoát khỏi cuộc sống hiện tại, khao khát hướng tới một cuộc sống tươi sáng hơn, ý nghĩa hơn của những người dân nghèo.
- Mở bài ấn tượng cho tác phẩm 'Nắng mới' của nhà thơ Lưu Trọng Lư
- KHTN 8 Bài 10: Khám phá Base - Giải bài tập KHTN 8 Chân trời sáng tạo trang 50, 51, 52
- Văn mẫu lớp 6: Tả cảnh quê hương buổi chiều hè qua 6 bài văn mẫu chọn lọc
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 64 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 tập 2
- KHTN 8: Ôn tập chủ đề 2 - Giải bài tập Chân trời sáng tạo trang 75, 76