Phân tích đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' của Nguyễn Du: Sơ đồ tư duy chi tiết cùng 3 dàn ý và 21 bài văn mẫu xuất sắc dành cho học sinh lớp 9
TOP 21 bài phân tích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' xuất sắc nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ đáng thương cùng tâm trạng cô đơn, buồn tủi và nỗi nhớ da diết về người thân của Thúy Kiều.

Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là tiếng lòng thương cảm chân thành của Nguyễn Du dành cho những số phận bất hạnh trong cuộc đời. Qua đó, tác phẩm không chỉ khẳng định tài năng nghệ thuật mà còn thể hiện trái tim nhân hậu, biết yêu thương và sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du. Cùng EduTOPS khám phá bài viết dưới đây để nâng cao kiến thức và học tốt môn Ngữ Văn lớp 9.
Phân tích tác phẩm 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' của đại thi hào Nguyễn Du
- Sơ đồ tư duy phân tích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' (2 mẫu)
- Dàn ý chi tiết phân tích đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' (3 mẫu)
- Phân tích đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' (17 mẫu)
- Phân tích ý nghĩa sâu sắc của đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
- Bình luận về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
- Phân tích đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' để thấy được bức tranh tâm tình đầy xúc động mà Nguyễn Du đã khắc họa
- Phân tích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' để làm sáng tỏ nhận định: 'Đây là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất...'
- Những nhận định đặc sắc về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
Sơ đồ tư duy phân tích đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
Mẫu 1: Phân tích chi tiết và sâu sắc về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'

Mẫu 2: Phân tích chi tiết và sâu sắc về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'

Dàn ý chi tiết phân tích đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
Dàn ý 1
1. Mở bài: Giới thiệu về đại thi hào Nguyễn Du, kiệt tác Truyện Kiều và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều.
- Sáu câu thơ đầu khắc họa cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian đặc biệt.
- Không gian nghệ thuật được miêu tả qua góc nhìn của Thúy Kiều:
- Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam cầm. Hai chữ "khóa xuân" đã thể hiện rõ điều đó.
- Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:
- Ngước nhìn xa xa, chỉ thấy dãy núi mờ nhạt.
- Nhìn lên trời cao chỉ có "tấm trăng gần". -> Thời gian chiều tối, gợi buồn.
- Xa hơn nữa, nhìn ra "bốn bề bát ngát xa trông" là những cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm.
=> Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản "non xa"/"trăng gần", đảo ngữ, từ láy "bát ngát"
-> Gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối diện với cảnh ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn.
- Nàng đau đớn, tủi nhục cho thân phận của mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
- Cụm từ "mây sớm đèn khuya" gợi thời gian tuần hoàn khép kín, quanh đi quẩn lại hết "mây sớm" lại "đèn khuya". Thời gian cứ thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều thấy tuyệt vọng với tâm trạng cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến "bẽ bàng".
- Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.
=> Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi.
b. Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.
* Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, tâm trạng của Kiều chuyển từ buồn sang nhớ. Kiều nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ ấy được Nguyễn Du miêu tả xúc động bằng những lời độc thoại nội tâm của chính nhân vật.
- Trước hết, Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào "đền ơn sinh thành" cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.
- Nàng nhớ đến cảnh mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Chữ "tưởng" ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ "nhớ" mà dùng chữ "tưởng". "Tưởng" vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.
- Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: "Tin sương luống những rày trông mai chờ".
- Rồi bất chợt, nàng liên tưởng đến thân phận "bên trời góc biển bơ vơ" của mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai":
- Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.
- Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố, biết bao giờ mới gột rửa được?
-> Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
- Nhớ người yêu, Kiều cũng xót xa nghĩ đến cha mẹ: Chữ "xót" diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:
- Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần
- Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.
- Nàng xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yếu mà mình không được ở bên cạnh để phụng dưỡng.
-> Tác giả đã sử dụng các thành ngữ "rày trông mai chờ", "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" và các điển tích, điển cố "sân Lai, gốc Tử" để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
=> Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu.
Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ. Qua đó chứng tỏ Kiều là con người thủy chung hiếu nghĩa, đáng trân trọng.
c. Tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
- Điệp ngữ "buồn trông" được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết:
- Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ.
- Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.
- Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.
- Hình ảnh "gió cuốn mặt duềnh" và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng "kêu quanh ghế ngồi" gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước, chỉ ngay sau lúc này, giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
=> Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy "thấp thoáng", "xa xa", "man mác","rầu rầu","xanh xanh","ầm ầm"... góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
c. Kết bài:
- Tổng kết những đặc sắc nghệ thuật, nội dung của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Nêu cảm nhận, suy nghĩ của em về hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Giới thiệu về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giới thiệu về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: thuộc phần đầu của tác phẩm, sau khi Kiều bán thân cứu cha và rơi vào tay Tú Bà
- Đoạn trích là bức tranh tâm trạng nhiều cảm xúc và nỗi niềm của Kiều khi rơi vào hoàn cảnh đau xót -> Vậy nên có người đã đưa ra ý kiến "Qua đoạn trích, ... tâm tình xúc động".
2. Thân bài
* Nêu ý kiến của em về nhận định trên:
- Đây là một nhận định hoàn toàn đúng: Đoạn trích miêu tả những phút giây tâm trạng rối bời của Kiều khi biết mình rơi vào cảnh thanh lâu.
- Ý nghĩa của nhận định trên: Tấm lòng thương yêu của Nguyễn Du đã giúp ông dựng lên bức tranh tâm tình đầy nhân đạo này.
* Phân tích đoạn trích để làm rõ nhận định:
- - 6 câu đầu: Hoàn cảnh và tâm trạng buồn tủi của Kiều khi sống trong lầu Ngưng Bích
- Nỗi buồn của Kiều được thể hiện qua hình ảnh của thiên nhiên: mênh mông, bát ngát nhưng không một bóng người
- "Khóa xuân": đóng khung, khóa chặt tuổi trẻ, thanh xuân
-> Cảnh vật cũng hiu hắt, bẽ bàng như chính Kiều vậy. Tâm trạng của Kiều buồn tủi, khổ đau nên nhìn cảnh vật cũng héo hon, sầu muộn. Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- - 4 câu tiếp theo: tâm trạng của Kiều khi nhớ về Kim Trọng
- Nàng nhớ đêm thề nguyền dưới trăng cùng Kim Trọng
- Hình dung ra hình bóng chàng đang mỏi mòn chờ tin của nàng
- "tấm son gột ... phai": Tâm trạng nhung nhớ mối tình đầu, đến bao giờ mới có thể phai nhòa.
-> Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ để diễn tả nỗi nhớ người yêu tha thiết của Kiều và tấm lòng thủy chung son sắt của nàng.
- 4 câu tiếp: Nỗi nhớ người thân, cha mẹ ở nơi xa
- "Xót": Động từ mạnh - nỗi đau khôn cùng của Kiều khi phải để mẹ cha tựa cửa trông chờ trong vô vọng.
- "Quạt lồng ấp lạnh": Lo lắng không ai chăm sóc cha mẹ, thương nhớ cha mẹ khôn nguôi
- Các điển cố "Sân Lai, gốc tử": Diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều khi không được chăm sóc cha mẹ khi về già.
-> Tấm lòng đầy hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
- 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều
+ Điệp từ "Buồn trông" + các từ láy liên tiếp được sử dụng:
- Cảnh vật "cửa bể chiều hôm" - "thuyền ai... xa": Nỗi cô đơn của Kiều gợi tả sự lạc lõng, phải lưu lạc nơi chân trời, cửa bể.
- Cảnh vật "ngọn nước mới sa" -"hoa... đâu": Số phận lênh đênh, ba chìm bảy nổi của nàng Kiều, chẳng biết sẽ đi tới đâu.
- Cảnh vật " nội cỏ rầu rầu" - " chân ... xanh": Một tương lai mờ mịt của một con người thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến. Chỉ là một ngọn cỏ giữa mênh mông.
- Cảnh vật "gió cuốn mặt duềnh" - "ầm ... ngồi": Tâm trạng lo sợ, hãi hùng của Kiều trước bão tố của cuộc đời đang cuốn lên, bủa vây nàng.
+ Nghệ thuật: Sử dụng liên tiếp từ láy, điệp từ, thanh bằng tạo nên nỗi buồn trùng trùng điệp điệp.
+ Miêu tả cảnh vật từ xa tới gần: Tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùng nỗi nhớ quê hương, người thân.
-> Bức tranh tả cảnh ngụ tình: Tâm trạng của Kiều đã lan tỏa sang những cảnh vật xung quanh nàng khiến chúng cũng mang một nỗi buồn sâu sắc.
-> Nỗi buồn của nàng cũng khiến cảnh vật xung quanh mang đầy màu tâm trạng: Đây chính là bức tranh tâm tình đầy xúc động.
* Kết luận chung:
- Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi, lạc lõng, sợ hãi, những dự cảm không lành của Kiều trước muôn vàn sóng gió cuộc đời. Cùng với đó là tấm lòng yêu thương, hiếu thảo của người con dành cho cha mẹ
- Nỗi buồn của nàng thấm sang cảnh vật khiến chúng cũng mang đầy vẻ tâm trạng.
- Nghệ thuật đặc sắc: Tả cảnh ngụ tình, điệp từ, từ láy, cùng cách sử dụng thanh sắc cực kì tinh tế.
3. Kết bài
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc, tinh tế, giàu tính biểu cảm.
- Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thương vô cùng của mình dành cho Kiều qua bức tranh tâm tình xúc động.
....
Phân tích đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' của Nguyễn Du
Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.
Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.
Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thông qua đó, ta có thể thấy được lòng thương cảm, tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.
Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng"
Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xuân của Kiều lại. Hai chữ "khóa xuân" mà Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối lập: "non xa" - "trăng gần" gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có mình Kiều với nỗi cô đơn, trống trải. Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu bạn với nàng được. Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lòng mình như chia đôi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vòng tuần hoàn khép kín của "mây sớm đèn khuya". Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó không hề thay đổi, chỉ có lòng người ngày càng buồn hơn.
Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, Kiều càng thấy nhớ người yêu:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ"
Nhớ người yêu, Kiều nhớ đến khi nàng cùng Kim Trọng uống chén rượu thề dưới ánh trăng, nguyện ở bên nhau đến trọn đời. Ấy vậy mà giờ đây, tất cả chỉ còn là quá khứ. Nàng không thể ở bên người mình yêu, cũng không thể cùng chàng thực hiện lời nguyện ước. Ở bên ngoài kia, Kim Trọng vẫn luôn chờ đợi nàng, chàng đâu hề hay biết lời hứa năm nào đã tan thành mây khói, mà vẫn ngóng trông tin tức về Thúy Kiều. Càng thương Kim Trọng, Kiều càng đau xót cho thân phận của chính mình, bởi lẽ tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng giờ không thể nào gột rửa được:
"Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Sau khi nhớ người yêu, nàng nhớ tới cha mẹ của mình:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"
Ở đây, người đọc có thể cảm thấy một điều vô lí, rằng tại sao Kiều lại nhớ đến người yêu trước khi nhớ về cha mẹ của nàng? Ta có thể hiểu được khi Kiều phải bán mình chuộc cha, hy sinh chữ "Tình" để làm tròn chữ "Hiếu" thì hẳn là ở đây, Kim Trọng là người đau đớn hơn cả. Do đó, Kiều nhớ tới Kim Trọng trước tiên, là áy náy, cảm thấy có lỗi đối với chàng. Khi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du cho Kiều được thể hiện sự đau xót của nàng "Xót người tựa cửa hôm mai". Kiều đau đớn bởi vì nàng không thể phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi về già. Ở nơi quê nhà, không biết đã có ai thay Kiều quạt cho cha mẹ những khi trời nóng, chăm sóc cha mẹ khi ốm đau hay chưa? Một loạt thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", "cách mấy nắng mưa" cùng điển cổ "Sân Lai", "gốc tử" cho thấy tài năng tuyệt vời của tác giả.
Sau khi nhớ tới người thân, Kiều nghĩ về thân phận của mình. Tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên mang âm hưởng trầm buồn:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Điệp từ "buồn trông" được lặp lại bốn lần trong các câu thơ sáu chữ, tạo thành một điệp khúc da diết, diễn tả nỗi buồn như những con sóng dâng trào trong lòng Kiều. Nàng đưa mắt nhìn ra cửa biển, nơi thấp thoáng bóng người trên cánh buồm xa xăm. Hình ảnh người ngư dân cô độc giữa biển trời mênh mông như phản chiếu sự cô đơn của Kiều nơi lầu Ngưng Bích. Trong khi người kia đang hướng về gia đình sau ngày lao động vất vả, Kiều vẫn mãi chôn chân nơi đây, không biết ngày mai sẽ ra sao. Khi nàng nhìn lại gần, những cánh hoa trôi dạt vô định trên mặt nước như gợi lên số phận lênh đênh của chính mình. Cảnh vật xung quanh dường như cũng nhuốm màu u buồn dưới ánh mắt đầy tâm trạng của Kiều, nơi đâu cũng thấy sự cô độc, lẻ loi...
Hai câu thơ cuối khép lại bằng tâm trạng hoang mang, lo lắng, khi những con sóng lòng của Kiều trở nên dữ dội và mãnh liệt hơn bao giờ hết:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Âm thanh của tiếng sóng vang lên như một cơn bão táp nội tâm, đánh dấu đỉnh điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Nàng tự hỏi, liệu mình sẽ đối mặt với cuộc đời phía trước như thế nào? Tám câu thơ cuối thực sự là một kiệt tác, mở ra bức tranh thiên nhiên hòa quyện với tâm trạng nhân vật, qua đó thể hiện tài năng miêu tả cảnh vật và phân tích tâm lý bậc thầy của Nguyễn Du.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" bắt đầu bằng bức tranh thiên nhiên, tiếp nối bằng lời độc thoại nội tâm của nhân vật, và kết thúc lại trở về với thiên nhiên. Điệp khúc vòng tròn này không chỉ thể hiện nét độc đáo trong nghệ thuật thơ của đại thi hào Nguyễn Du mà còn khắc sâu vào lòng người đọc niềm thương cảm chân thành trước số phận đầy bi kịch của Kiều.
....
Phân tích ý nghĩa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là minh chứng rõ nét nhất cho tài năng tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Với nghệ thuật miêu tả tinh tế, ông đã khắc họa thành công tâm trạng đầy bi kịch của Thúy Kiều trong những ngày đầu tiên của cuộc đời lưu lạc. Những câu thơ mênh mang, day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa cho kiếp “hồng nhan bạc phận”.
Trong phần mở đầu, tác giả không trực tiếp miêu tả tâm trạng Thúy Kiều mà khéo léo gợi lên khung cảnh thiên nhiên. Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người, chỉ thuần túy là thiên nhiên, hay đúng hơn là thiên nhiên hiện lên qua con mắt của nhân vật trữ tình – Thúy Kiều. Nàng bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích, chỉ có tâm hồn được tự do, hướng ra thiên nhiên như tìm kiếm sự giải thoát cho nỗi đau đang dày vò.
Trong tâm trạng ấy, Thúy Kiều hướng ánh mắt ra thiên nhiên và bất ngờ bắt gặp một khung cảnh đẹp đến mê hồn:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Khung cảnh vừa thực vừa mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” như một miền xa thẳm, mờ ảo trong sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như thể có thể chạm tay vào. Vầng trăng ấy đã từng là chứng nhân cho tình yêu của nàng:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Giờ đây, tại nơi “chân trời góc bể”, trăng lại tìm đến với nàng như một người bạn tri kỷ. Vầng trăng vô tri nhưng lại vô cùng thủy chung. Trong hoàn cảnh bế tắc, trăng trở thành điểm tựa tinh thần, giúp Kiều cảm nhận rõ hơn thân phận cô đơn của mình:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Nhịp thơ đều đều, trầm bổng, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng”: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya / Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
“Bẽ bàng” là tâm trạng hổ thẹn vì lâm vào cảnh ngộ éo le. Kiều cảm thấy xấu hổ vì đã phụ lời thề ước với Kim Trọng, vì đang ở chốn lầu xanh nhơ nhớp, và vì số phận ngang trái. Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như thấu hiểu nỗi lòng nàng, trở thành điểm tựa tinh thần, hòa cùng khúc nhạc sầu thương: “như chia tấm lòng”.
Tình và cảnh tưởng chừng tách biệt nhưng thực chất lại hòa quyện vào nhau: cảnh chứa tình, tình thấm vào cảnh. Chính vì thế, khi nhìn cảnh, mọi cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Tại sao Kiều lại nhớ đến Kim Trọng đầu tiên mà không phải là cha mẹ? Điều này không phải vì nàng bất hiếu, mà bởi vầng trăng trước mặt đã gợi nhớ về đêm thề nguyền năm xưa. Kiều đã bán mình chuộc cha, nên cảm giác tội lỗi với cha mẹ đã phần nào vơi đi. Nhưng với Kim Trọng, nàng là người bội ước, phá vỡ lời thề son sắt. Điều đó khiến trái tim nàng luôn khắc khoải: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nỗi nhớ thương da diết hòa cùng cảnh vật càng khiến lòng nàng đau đớn khôn nguôi:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Có sự tương phản rõ rệt giữa hai câu thơ “Tin sương luống những rày trông mai chờ” và “Bên trời góc bể bơ vơ”. Sự chờ đợi mòn mỏi, vô vọng hướng về một người nơi xa xăm, mịt mù vô định khiến Kiều càng thấm thía nỗi đau xé lòng. Nhưng chính trong nỗi đau ấy, ta nhận ra những phẩm chất cao quý của người con gái nhỏ bé mà kiên trinh:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Câu thơ vừa là lời tự vấn, vừa là lời khẳng định chắc chắn về tấm lòng thủy chung son sắt của Kiều dành cho người yêu. Đằng sau đó là nỗi chua xót của bi kịch khi phải sống trong cảnh bơ vơ, nơi “bên trời góc bể”, mà nỗi nhớ thương vẫn không nguôi ngoai.
Nỗi đau chồng chất nỗi đau. Sau khi nhớ về Kim Trọng trong sự xót xa, bẽ bàng, Kiều hướng tâm trí về cha mẹ với nỗi nhớ và niềm thương da diết:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Dù đã bán mình chuộc cha, lâm vào cảnh ngộ “bẽ bàng”, Kiều vẫn một lòng lo lắng cho cha mẹ. Nỗi lo ấy đi kèm với sự xót xa của một người con hiếu thảo không thể chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già. Thật đáng trân trọng biết bao trước tấm lòng cao đẹp của nàng. Trong hoàn cảnh ấy, đáng lẽ Kiều phải lo cho bản thân trước, nhưng nàng lại hướng về người yêu và cha mẹ với sự day dứt khôn nguôi. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người con gái “sắc tài” ấy.
Sau nỗi nhớ là niềm đau, nỗi buồn tê tái khi Kiều chợt nhận ra hoàn cảnh hiện tại của mình. Những tháng ngày bão tố vừa qua, chặng đường phía trước mịt mờ, đầy chông gai. Bao nỗi bất hạnh, bao xót xa bủa vây, xiết chặt tâm hồn nàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
(…)
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ chất chứa nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang lo sợ. Điệp từ “buồn trông” lặp lại bốn lần vừa diễn tả trọn vẹn tâm trạng của Kiều, vừa tạo nên âm hưởng da diết cho đoạn thơ. Trong cảnh ngộ cô đơn, bơ vơ nơi chân trời góc bể, Thúy Kiều đã tìm đến thiên nhiên như một người bạn tri âm, một điểm tựa tinh thần. Thiên nhiên đến với nàng để sẻ chia, để đồng cảm. Vì thế, dưới con mắt của Kiều, mỗi hình ảnh thiên nhiên lại gợi lên bao nỗi xót xa về thân phận bơ vơ, về số kiếp bất hạnh:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh buồm thấp thoáng, như thực như ảo giữa “cửa bể chiều hôm” gợi lên hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều. Khung cảnh chiều tà gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ xa quê. Cánh buồm “thấp thoáng” vô định hòa cùng tâm trạng của nàng trước lầu Ngưng Bích. Thân phận nàng giờ đây chẳng khác gì cánh hoa mong manh trước sóng gió cuộc đời:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Câu hỏi này cũng là lời tự vấn, tự thương cho thân phận mình của Kiều. Giữa dòng đời vô định, cánh hoa mong manh biết bao trước sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào cuộc hành trình dài đằng đẵng của số kiếp đoạn trường, oan khổ lưu li. Người con gái “sắc đành đòi một, tài đành họa hai” ấy phải chịu kiếp “cỏ nội hoa hèn” bạc bẽo, sầu đau:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Nội cỏ mang tâm trạng “rầu rầu”, héo úa, cô đơn, lạc lõng giữa “chân mây”, “mặt đất”, hay chính là thân phận của Kiều giữa mênh mông cuộc đời:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Thiên nhiên vắng lặng hòa vào tâm hồn lạnh lẽo, cô đơn, và đầy lo âu của Kiều. Âm thanh duy nhất vang lên là tiếng sóng “ầm ầm”, như phản chiếu nỗi sợ hãi và bất an đang dâng trào trong lòng nàng.
Tám câu thơ chứa đựng trọn vẹn tâm trạng của Kiều. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao. Mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết ngoại cảnh đều trở thành ẩn dụ cho nỗi đau và cảnh ngộ éo le của nàng. Kiều đang chìm đắm trong biển khổ trầm luân. Hệ thống từ láy được sử dụng tài tình đã tạo nên âm hưởng buồn thương, hắt hiu, diễn tả tinh tế tâm trạng đầy bi kịch của nàng.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của Truyện Kiều. Từ bức tranh thiên nhiên, Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó, khắc họa chân dung tâm hồn Kiều trong cơn bĩ cực, mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành và xúc động trước một Thúy Kiều tài hoa nhưng bạc phận, với tâm hồn cao quý. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng xúc động thốt lên:
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.
(Chế Lan Viên – Đọc “Kiều”)
Tình cảm của nhà thơ cũng là tiếng lòng chung của hàng triệu trái tim đã, đang và sẽ mãi thổn thức cùng Kiều.
Bình luận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích được chia thành ba phần rõ rệt, thống nhất trong phong cách ngôn từ và thi pháp tả cảnh ngụ tình. Nếu cho rằng chỉ ở phần thứ ba, nghệ thuật biểu hiện mới là tả tình qua tả cảnh thì điều này tuy đúng nhưng chưa đủ, đặc biệt là không nhận ra được sự nhất quán trong tác phẩm của Nguyễn Du. Để đảm bảo tính khách quan, có lẽ cần một cách đặt tên mới:
– Nỗi buồn hiện tại;
– Lòng thương nhớ người thân;
– Tương lai mờ mịt và bất định của kiếp người.
Cả ba phần tuy hướng đến những khía cạnh khác nhau nhưng đều tập trung vào "cái tôi" chủ thể: nàng Kiều. "Cái tôi" ở đây là "cái tôi" tâm trạng, phản ánh nội tâm sâu thẳm của nhân vật.
Trong sáu câu thơ đầu, tâm trạng của Kiều là một nỗi niềm khắc khoải triền miên trong nỗi buồn vô hạn. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn, có hai cách nhìn nhận khác nhau. Cách thứ nhất cho rằng sáu câu đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn với những căn cứ ngôn từ trong văn bản, chẳng hạn như: "khoá xuân" thực chất là bị giam lỏng, nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông hoang vắng (mênh mang trời nước, dãy núi mờ xa, cồn cát bụi mù, không một bóng người), Kiều sống trong một thời gian tuần hoàn khép kín (mây sớm đèn khuya...). Cách hiểu này rõ ràng có cơ sở nhưng dường như đã bỏ qua hai câu thơ quan trọng:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh, như chia tấm lòng.
Ở câu lục, ý kiến nhận xét trên không đề cập đến hai chữ "bẽ bàng", còn ở câu bát hoàn toàn không được nhắc tới. Do đó, chúng tôi cho rằng nên hiểu đoạn thơ theo cách thứ hai. Cách hiểu này lấy hai câu dẫn làm căn cứ để phát hiện tâm trạng đích thực của nhân vật nàng Kiều. Trong cách hiểu này, ta cần tách đối câu sáu:
Bẽ bàng / mây sớm đèn khuya
Đây là một câu thơ hai đối tượng: "bẽ bàng" thuộc về Thuý Kiều, còn "mây sớm đèn khuya" thuộc về thiên nhiên. Soi vào thiên nhiên, Kiều nhận ra một thứ chân dung biến dạng của bản thân mình. Thiên nhiên ấy là gì? "Mây sớm" tinh khôi, trong sạch, còn "đèn khuya" phải chăng chính là lương tâm? Sự trong sạch của "mây sớm" gợi lên sự tương phản với sự nhơ nhớp, còn "đèn khuya" gợi sự giày vò của chính con người đau khổ ấy. Cái nhìn phản cảm này không phải bây giờ mới có. Ngay từ lần gặp Mã Giám Sinh, tên lừa đảo buôn người, Thuý Kiều đã vô cùng ngượng ngập:
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Bởi đây là hai thế giới khác hẳn nhau, hai hạng người khác nhau mà Kiều phải nhắm mắt đưa chân làm con mồi cho chúng. Nhưng lần này thì khác. Cái xấu không còn ở đối phương, nó đã thuộc về chính mình, một con người đã có một thời không phải thế, một thời phong nhuỵ màn che, trướng rủ. Bởi thế mới dẫn đến "bẽ bàng". "Bẽ bàng" là sự tủi, thẹn cho chính người đang có nó. Bởi nó đang hiện diện nơi nàng nên mới có sự phân đôi: một tấm lòng chia làm hai nửa: nửa tình, nửa cảnh. Tình và cảnh trong văn chương trung đại dường như đồng hành, một tiếng hát bè đôi theo nguyên tắc "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nhưng ở đây một nghịch lí xuất hiện, phá vỡ nguyên tắc chủ quan hóa khách quan. Sự vò xé trong tâm trạng bởi không đồng hóa được giữa khách thể và chủ thể này đã làm giàu thêm yếu tố hiện thực trong thơ. Cảnh rất đẹp, rất trong, đầy ắp tiềm năng cho thi hứng, nhưng đối diện với nó, một hồn thơ không thể cất bút làm thơ như những lần trước đó và sau này. Tâm hồn ấy bị trọng thương. Con chim nhìn bầu trời thèm khát không còn đủ sức bay lên. Nó đã bị mũi tên nhắm trúng đích.
Từ đó ta mới thấy bốn câu mở đầu là một bức hoạ. Bức tranh trời như dệt gấm thêu hoa, ẩn hiện với "Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung". Ở câu thơ này còn có cái bất ngờ của cảm giác lạ. Khoảng xa, độ gần về vật lí, do nhận biết bằng tâm lí mà chúng đổi chỗ cho nhau. Trăng vốn xa bỗng chốc nên gần (tấm trăng gần) và ngược lại cái xa lại thuộc về núi.
Câu thơ "Sen vàng lãng đãng như gần như xa". Hai cảm giác thực và mộng đan xen vào nhau như hiện ra từ một giấc chiêm bao. Có người hiểu câu thơ đó tiếp nối với hai câu sau tạo thành một sự bủa vây, tạo nên sự rợn ngợp trong tâm trạng của người nhìn cảnh là chưa đúng. Bởi nếu thế thì ở đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích có đến hai lớp bao vây: một của Tú Bà (khoá xuân), một là của thiên nhiên vô tội (?). Mà làm sao có thể hiểu hai câu thơ rất đẹp rất thơ là sự bủa vây:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
"Xa trông" mở ra một tầm nhìn rộng lớn, thoáng đãng, phóng tầm mắt đến những dặm đường xa, cồn cát mênh mông. Những chi tiết tưởng chừng bình thường như cát, bụi đường, qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, bỗng trở nên đẹp đẽ, giàu chất thơ. Cát không còn là cát tầm thường mà là "cát vàng", bụi không còn vô giá trị mà là "bụi hồng". Đó là sự biến đổi tinh tế từ cái bình dị thành cái phi thường, từ cuộc sống đời thường thành nghệ thuật. Cái đẹp ấy thuộc về "nửa cảnh", tương phản với "nửa tình" đầy xót xa trong lòng Kiều. Sáu câu thơ đầu tuy bề bộn, ngổn ngang nhưng vẫn giữ được sự hài hòa, nhịp nhàng. Phép đối trong câu thơ không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh vật mà còn khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật.
Phần hai của đoạn trích gồm tám câu tiếp theo, tập trung diễn tả nỗi nhớ thương người thân của Thuý Kiều. Đặc sắc nghệ thuật ở đây là ngôn ngữ nội tâm độc thoại, phản ánh sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Tất cả đều là tiếng lòng, là sự tự vấn, tự trải lòng của Kiều. Phần này không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ mà còn là sự day dứt, đau đớn trước cảnh ngộ éo le. Hai câu thơ:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
"Tấm son" có thể hiểu theo hai cách. Cách thứ nhất, đó là tấm lòng son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng, một tình yêu không thể phai mờ. Cách thứ hai, "tấm son" có thể là tấm lòng trong trắng của Kiều đã bị hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa được. Chúng tôi nghiêng về cách hiểu thứ hai, rằng "tấm son" thuộc về Kim Trọng, bởi ba lí do sau:
Thứ nhất, xét về hình tượng thơ, phần này tập trung vào nỗi nhớ Kim Trọng của Kiều. Nếu "tấm son" thuộc về Kiều, mạch thơ sẽ bị đứt gãy, không còn nhất quán. Thứ hai, "tấm son" gắn liền với khái niệm "chân trời góc bể", nơi mà cả Kiều và Kim Trọng đều cảm thấy lạc lõng. Thứ ba, "tấm son" là biểu tượng của lòng chung thuỷ, và trong hoàn cảnh hiện tại, Kiều không còn dám nhận mình xứng đáng với tấm lòng ấy của Kim Trọng.
"Tấm son" không chỉ là tình yêu mà còn là nỗi day dứt, ân hận của Kiều. Nàng biết rằng mình không còn xứng đáng với tấm lòng son sắt của Kim Trọng, và điều đó khiến nàng đau đớn khôn nguôi. Câu thơ không chỉ nhất quán về ý tứ mà còn giàu tính nhân văn, phản ánh sâu sắc bi kịch tình yêu và thân phận con người.
Bốn câu thơ nói về cha mẹ của Kiều tuy mang tính ước lệ, nhưng vẫn chứa đựng nỗi niềm thương nhớ chân thành. Nguyễn Du đã khéo léo lồng ghép tâm trạng riêng của nhân vật vào những lời thơ quen thuộc về đạo hiếu, khiến chúng trở nên mới mẻ, sâu sắc hơn.
Tám câu thơ cuối cùng là những cảm nhận về tương lai mờ mịt, vô định của Kiều. Cảnh vật ở đây không còn là núi đồi, mây sớm trăng khuya mà là biển cả mênh mông, gợi lên sự cô đơn, lạc lõng. Bốn lần cụm từ "buồn trông" được lặp lại, mở ra từng lớp cảm xúc chất chứa trong lòng Kiều. Ngọn nước đục ngầu, cánh buồm xa xăm, bông hoa trôi dạt, ngọn cỏ héo úa – tất cả đều phản chiếu nỗi đau và sự bất lực của nàng.
Những câu thơ này không chỉ là sự miêu tả cảnh vật mà còn là sự đồng điệu giữa tâm hồn Kiều và thiên nhiên. Chúng mang một hàm ý triết học sâu sắc về thân phận con người, về sự vô nghĩa của kiếp người trong cõi đời "trăm năm".
Qua đoạn trích, Nguyễn Du không chỉ khắc họa thành công nội tâm nhân vật mà còn đặt ra những câu hỏi lớn về ý nghĩa cuộc sống, về tình yêu và thân phận con người. Đó chính là giá trị nhân văn sâu sắc làm nên sức sống bền bỉ của tác phẩm.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm thơ ca đặc sắc và tiêu biểu nhất cho văn học chữ Nôm của Việt Nam. Tác phẩm là lời thương cảm sâu sắc của Nguyễn Du dành cho những số phận bất hạnh của cuộc đời. Ông cũng đã thành công ở nhiều phương diện khi xây dựng lên tính cách, tâm trạng của nhân vật qua lời nói, hành động. Đặc biệt trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", có ý kiến đã nhận định rằng "Nguyễn Du đã xây dựng lên một bức tranh tâm tình xúc động qua hình ảnh của nàng Kiều".
Thúy Kiều sau khi bán mình cứu cha, nàng những tưởng mình bị bán đi làm vợ lẽ cho người ta. Nào ngờ rằng nàng đã bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục rồi bán cho Tú Bà buôn phấn bán hương. Rơi vào nanh vuốt của mụ buôn thịt người, quá uất ức và đau khổ, Kiều quyết định liều mình tự sát, cứu vớt chút danh dự cuối cùng cho bản thân. Thế nhưng, nàng lại được Tú Bà cứu sống chỉ vì không muốn mất đi một món hời lớn. Tú Bà đã dụ dỗ Kiều tới ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ tìm chỗ tử tế để gả nàng đi. Tại đây, nàng sống những ngày tháng buồn bã, đầy đau khổ và tủi nhục, thương nhớ người yêu, thương nhớ mẹ cha ở quê nhà. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" chính là đoạn trích miêu tả tâm trạng của nàng trong những ngày tháng sống tại đây. Bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du thực sự đã dựng xây lên một bức tranh tâm tình đầy xúc động, đúng như nhận định trên. Cảnh vật trong đoạn trích cũng bị nhuốm một màu hiu hắt, đìu hiu, gợi lên mối sầu cô đơn trong lòng nàng Kiều tội nghiệp.
Thúy Kiều sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, được sống trong không khí đầm ấm, dịu êm của gia đình, lại đang say trong hạnh phúc cùng chàng Kim Trọng, ai ngờ đâu nàng lại lỡ sa chân vào vòng xoáy đen bạc của cuộc đời. Nàng bị Mã Giám Sinh rồi Sở Khanh lừa gạt một cách trắng trợn, bị đánh đập, bị xúc phạm, bị làm nhục, tất cả những gì đau khổ nhất dường như đổ lên người nàng cùng một lúc. Tâm hồn nàng, thể xác nàng bị dày vò, bị chà đạp, bị giày xéo bởi những thế lực đen tối đến mức nàng chỉ muốn tìm đến cái chết để giải thoát cho mình. Thế nhưng, đúng là cuộc đời muốn vần xoay nàng khiến nàng chết cũng không được, nàng được Tú Bà cứu sống rồi đưa đến lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Những ngày tháng ở đây, nơi đất khách quê người, không một ai thân thích, Kiều hoàn toàn cô đơn, bất lực, đau xót. Nàng chỉ biết bầu bạn cùng những cảnh vật bên mình, gửi gắm vào chúng những tâm tình đầy đau khổ vì quanh nàng chẳng có lấy một ai cho nàng sẻ chia. Nhưng Nguyễn Du, ông đã vô cùng thấu hiểu nàng khi luôn theo sát bước chân nàng, là người phía sau miêu tả và thấu hiểu những nỗi tâm tư trăm đường tơ vò của Thúy Kiều - người phụ nữ tài sắc vẹn toàn mà ông trân trọng, yêu quý nhất.
Đọc đoạn trích, ở ngay những câu đầu tiên, người ta đã nhận ngay ra cái hoàn cảnh và tâm trạng đầy đau khổ của Kiều hiện lên trong từng câu chữ, từng chút cảnh vật xung quanh:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Những người thân yêu với Kiều giờ đây đang ở một nơi phương xa, chỉ còn mình Thúy Kiều sống giữa bầy lang sói Tú Bà, Sở Khanh, ... thế nên với nàng, một cảnh núi xa, một tấm trăng gần cũng trở thành người bạn tri kỉ, chia sẻ nỗi niềm cùng nàng. Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích hiện lên thật rõ ràng chỉ bằng vài nét miêu tả chấm phá tài hoa của Nguyễn Du. Trước lầu ấy có núi non bát ngát, có trăng, có bụi hồng, cồn cát, ... Cảnh đẹp là thế nhưng ngôi lầu như chiếc lồng son đã khóa chặt bước chân của Kiều. Đây là sự giam lỏng mà Tú Bà dành cho Kiều trước khi dùng âm mưu khác buộc Kiều phải tiếp khách. Lầu Ngưng Bích đã "khóa xuân" tức là khóa chặt tuổi xuân của Kiều, khóa chặt những nỗi thương nhớ, tình yêu, hy vọng, thanh xuân của nàng. Cảnh vật hiện lên thật đẹp, thật mênh mông rộng lớn, thế nhưng, giữa mênh mông đó chỉ có mình Kiều. Chỉ có mình nàng cô đơn giữa chốn đây, đìu hiu, hoang vắng. Nguyễn Du đã mượn cảnh vật để Kiều nói lên tâm trạng của mình:
"Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia"
Có cảnh vật đấy, có cảnh sắc đấy, "bát ngát" mênh mông đấy, thế nhưng lại chẳng có ai cho nàng thổ lộ, chia sẻ nỗi niềm trong lòng. Cảnh vật càng tĩnh lặng lại càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn đau xót của nàng khi phải ở một mình nơi đất khách. Gần là núi, là trăng, xa xa là cồn cát vàng đang tung lên những bụi phấn hồng, thế nhưng sao mà lạnh lẽo, thê lương tới nhường ấy! Mọi cảnh vật ở đây đều ngổn ngang, đều mù mịt như chính tâm trạng và tương lai của nàng vậy. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã phát huy tối đa tác dụng của mình khi miêu tả cảnh vật nhưng lại giấu trong đó bao nhiêu là nỗi niềm của người con gái xa quê tội nghiệp. Tả cảnh xung quanh nhưng cũng là tả những phút giây tâm trạng cô đơn, ngổn ngang suy nghĩ của Kiều. Cô đơn, đau xót là vậy, nghĩ tới thân phận của mình, cõi lòng của Kiều lại càng thêm xót xa hơn:
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
"Bẽ bàng" - sự tủi nhục, đau khổ, hổ thẹn của Kiều khi nàng hết bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi lại phải chịu cảnh bước chân vào một nơi chốn xa lạ, xấu xa, bẩn thỉu. Nàng cảm thấy thật xấu hổ, thật đau đớn tủi nhục biết bao khi chính mình phải chịu kiếp làm thân kỹ nữ mà muôn người cười chê. Bị giam lỏng ở đây, hết tối lại sáng, rồi lại lặp lại vòng xoay ấy, Thúy Kiều chỉ có thể ở lại đây, thui thủi, lẻ loi một mình. Không gian vắng lặng xung quanh bủa vây lấy nàng, vây hãm nàng.
Chính trong những lúc cô đơn buồn bã nhất, nàng lại lặng mình hồi tưởng, âm thầm gạt những giọt lệ khi nghĩ về quá khứ êm đềm ngày xưa. Nàng nhớ về người mình yêu, về những phút giây đầu tiên khi say trong men nồng của hạnh phúc lứa đôi lần đầu nàng bắt gặp. Nàng cũng nhớ về đêm trăng mình cùng tình lang hẹn hò, thề nguyền đôi lứa mãi mãi bên nhau. Nỗi nhớ người yêu bùng lên trong lòng Kiều khiến nàng càng thêm xót xa vô tận:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Hạnh phúc mà nàng có được trong đêm nàng băng tường vượt rào đến với chàng Kim thật khiến nàng không khỏi bồi hồi khi nhớ lại. Những phút giây hạnh phúc nâng chén rượu dưới ánh trăng để hẹn thề, giờ nhớ lại thật là đau xót biết bao. "Tưởng" được Nguyễn Du đặt ngay đầu câu thơ khiến chúng ta như cảm thấy rằng hình ảnh của đôi trai tài gái sắc ấy hiện ra ngay trước mắt. Hay phải chăng chính Kiều cũng đang sống lại trong phút giây ấy trong sự hồi tưởng:
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song"
Nàng hình dung rõ ràng hình ảnh Kim Trọng nơi Lưu Dương xa xôi, ngày ngày mong ngóng tin tức từ nàng, trong sự chờ đợi vô vọng. Nguyễn Du đã khắc họa những lời độc thoại từ sâu thẳm trái tim nàng, tiếng lòng thổn thức hướng về mối tình đầu dang dở. Nỗi nhớ người yêu cháy bỏng, chén rượu thề nguyền vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí nàng. Dù có cách xa chân trời góc bể, tình yêu ấy vẫn mãi trong sáng, không phai nhạt. "Tấm son" - tình yêu đầu đời của nàng sẽ mãi vẹn nguyên.
"Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"
Khi nghĩ về Kim Trọng đang mòn mỏi chờ tin, nỗi nhớ cha mẹ bỗng trào dâng trong lòng nàng:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"
Nàng đã rời xa quê hương, để lại cha mẹ già yếu. Ai sẽ là người chăm sóc họ? Nàng ra đi vì chữ hiếu, nhưng lòng vẫn đau đáu khi nghĩ về cảnh cha mẹ già nua, tựa cửa mong con. Nếu như nỗi nhớ người yêu chỉ là hồi tưởng, thì nỗi nhớ cha mẹ lại là nỗi xót xa, day dứt. Nguyễn Du sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" để diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cha mẹ ngày càng già yếu, mà mình không thể ở bên chăm sóc. Lời thơ ẩn chứa sự tự trách, ân hận vì chưa trọn đạo hiếu.
Qua tám câu thơ, Kiều hiện lên là một người con hiếu thảo, một tình nhân thủy chung. Dù sống trong cảnh đau khổ, nàng không nghĩ đến bản thân mà luôn hướng về tình yêu đầu và cha mẹ nơi quê nhà. Nàng nhớ Kim Trọng vì cảm thấy mình có lỗi, còn với cha mẹ, nàng đã phần nào thực hiện chữ hiếu. Thứ tự này tuy ngược với lễ giáo nhưng lại hợp lý trong hoàn cảnh của Kiều.
Bức tranh tâm trạng của Kiều hiện lên qua từng câu chữ, cảnh vật xung quanh nàng. Nỗi buồn của nàng thấm vào cảnh vật, khiến chúng cũng mang màu sắc u uẩn. Như Nguyễn Du từng nói:
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Nguyễn Du đã khắc họa chân thực nỗi niềm của Kiều, để những câu thơ tiếp theo hiện lên bức tranh tâm trạng của nàng khi nhìn về số phận mình:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trông man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân may mặt nước một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi"
Nguyễn Du sử dụng hàng loạt từ láy và điệp ngữ để nhấn mạnh tâm trạng Kiều. Bốn từ "buồn trông" lặp lại liên tiếp, mỗi lần là một cảnh vật khác nhau, diễn tả nỗi buồn trùng điệp. Nỗi buồn ấy bao trùm không gian, thời gian, vẽ nên bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nỗi buồn ấy cuộn lên không ngừng trong lòng Kiều.
Mỗi cặp câu thơ lại khắc họa một nỗi buồn khác nhau của Kiều.
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"
Ánh mắt Kiều hướng ra không gian mênh mông, nơi cánh buồm lẻ loi thấp thoáng ngoài khơi. Cánh buồm ấy như tâm trạng nàng, cô đơn, lạc lõng. Liệu bao giờ nàng mới được trở về quê hương, về vòng tay người thân?
Điệp từ "buồn trông" lại xuất hiện, nhưng cảnh vật lần này hiện ra khác biệt so với câu thơ trước.
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trông man mác biết là về đâu"
Ánh mắt Kiều đắm chìm trên dòng nước chảy chậm rãi, nơi một cánh hoa rơi rụng đang bị cuốn trôi theo dòng. Cánh hoa ấy lững lờ trôi, chẳng biết sẽ dạt về đâu. Phải chăng, Kiều nghĩ, thân phận mình cũng giống như cánh hoa kia, bị cuộc đời xô đẩy, chẳng biết tương lai sẽ đi về đâu? Nàng tự ví mình như cánh hoa mỏng manh, yếu đuối, không biết cuộc đời sẽ vùi dập nàng thêm bao lần nữa. Hình ảnh cánh hoa không chỉ là ước lệ miêu tả vẻ đẹp mong manh của Kiều mà còn thể hiện nỗi lo lắng, bất an về số phận của nàng.
Khi hướng tầm mắt ra xa hơn, Kiều thấy chân trời mênh mông, nơi biển cả xanh thẳm. Nhưng trong màu xanh ấy, hiện lên hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" - một màu sắc u ám, héo úa như dự báo về con đường phía trước của nàng:
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh"
"Nội cỏ rầu rầu" - từ láy gợi sự tàn lụi, héo úa, chẳng còn sức sống. Phải chăng, nội cỏ ấy cũng như tâm trạng của Kiều, đang chìm trong u ám, mệt mỏi và cô đơn? Nàng cảm thấy cuộc đời mình cũng sẽ lụi tàn như nội cỏ kia, hao mòn theo năm tháng. Màu xanh nhợt nhạt của chân trời như báo hiệu một tương lai mịt mù, đầy bão tố.
Khi nghĩ về bão tố, trong lòng Kiều dâng lên một dự cảm chẳng lành, như thể sóng gió cuộc đời đang chờ đợi nàng:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
"Gió cuốn mặt duềnh" - gió thổi mạnh, sóng nước dâng cao, tiếng sóng ầm ầm vang dội. Từ "ầm ầm" được đặt ngay đầu câu, gợi lên sự hãi hùng, dữ dội của biển cả trong cơn giông bão. Câu thơ khiến người đọc như cảm nhận được sự rung chuyển của từng đợt sóng đang vây quanh. Phép nhân hóa không chỉ làm câu thơ sống động mà còn thể hiện nỗi sợ hãi trong lòng Kiều. Tiếng sóng gầm gào như dự báo về những thử thách khủng khiếp mà nàng sẽ phải đối mặt. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để khắc họa tâm trạng đầy lo âu của Kiều về tương lai mịt mù.
Khép lại đoạn trích, bức tranh tâm trạng của Kiều hiện lên đậm nét qua cảnh vật u sầu, buồn bã. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", và những dự cảm của Kiều về tương lai càng làm nổi bật nỗi cô đơn, lo lắng của nàng. Đoạn trích thể hiện tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du, với những phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ tinh tế. "Kiều ở lầu Ngưng Bích" thực sự là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Đọc đoạn trích, người đọc thấy hiện lên hình ảnh Thúy Kiều với tâm trạng cô đơn, buồn tủi và đầy lo sợ. Nhưng trong lòng nàng vẫn cháy bỏng tình yêu thủy chung với Kim Trọng và tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Nguyễn Du đã khắc họa tâm trạng Kiều một cách chân thực, sử dụng cảnh vật để phản ánh nỗi lòng nhân vật. Ông không chỉ đồng cảm mà còn chia sẻ những nỗi buồn của Kiều, thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc. Nguyễn Du xứng đáng là nhà thơ tài ba và nhân đạo của nền văn học Việt Nam.
Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để làm rõ nhận định: “Đây là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới, đã để lại cho đời kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm này không chỉ là bức tranh hiện thực sống động mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du, qua đó làm nổi bật tâm trạng cô đơn, buồn tủi cùng tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả của tác giả.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần hai của tác phẩm, kể về giai đoạn gia biến và lưu lạc của Kiều. Sau khi bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định kết liễu cuộc đời. Tú Bà, lo sợ mất đi “vốn liếng”, đã dỗ dành Kiều bằng lời hứa hão về một cuộc hôn nhân tử tế, rồi đưa nàng ra giam lỏng tại lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu đen tối hơn.
Đoạn trích mở đầu bằng khung cảnh hoang vắng, mênh mông của lầu Ngưng Bích:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”
Cụm từ “khóa xuân” mang ý nghĩa mỉa mai, ám chỉ việc Kiều bị giam cầm. Sau những đau khổ chồng chất, nàng lại bị nhốt trong nơi cô quạnh, cảm giác cô đơn và chán chường bao trùm. Hình ảnh “non xa, trăng gần” gợi lên sự chơ vơ của lầu Ngưng Bích giữa không gian bao la. Từ trên cao, Kiều nhìn ra xung quanh chỉ thấy sự xa vời, mênh mông:
“Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Chỉ với mười bốn chữ, Nguyễn Du đã khắc họa thành công không gian và thời gian mênh mông, hoang vắng. Từ lầu Ngưng Bích, Kiều chỉ thấy núi non mờ ảo, cồn cát bụi bay mù mịt. Nàng rơi vào cảnh cô đơn tột cùng, tâm trạng bị dồn nén đến mức tuyệt vọng:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Kiều sống trong sự cô độc giữa lầu cao trơ trọi, giữa không gian và thời gian vô tận. “Bẽ bàng” là tâm trạng vừa chán nản, vừa xấu hổ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi lên sự tuần hoàn khép kín của thời gian, như một nhà tù vô hình giam hãm nàng. Sớm tối, Kiều chỉ có mây và đèn làm bạn, nỗi cô đơn và buồn tủi luôn đè nặng lên tâm hồn nàng.
Trong hoàn cảnh cô đơn ấy, Kiều nhớ đến người thân. Tám câu thơ tiếp theo miêu tả nỗi nhớ da diết của nàng dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Trước hết, nàng nhớ về mối tình đầu trong sáng với Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những dày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Không phải Kiều không nhớ cha mẹ, nhưng sau gia biến, nàng cảm thấy mình đã phần nào làm tròn bổn phận. Giờ đây, trong cảnh cô đơn, nàng nhớ về Kim Trọng trước tiên. Nàng coi mình là người phụ bạc tình yêu của chàng. Nàng nhớ đến lời thề nguyền dưới ánh trăng, nơi hai người cùng nâng chén rượu thề non hẹn biển. Giờ đây, nàng tưởng tượng Kim Trọng cũng đang hướng về mình, chờ đợi tin tức. Nỗi nhớ ấy đầy đau đớn và xót xa. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” thể hiện nỗi đau vì tình yêu son sắt bị vùi dập, hoen ố. Kiều day dứt, hổ thẹn vì đã phụ lòng tin yêu của Kim Trọng. Những từ ngữ như “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã tạo nên một hệ thống ngôn ngữ độc thoại, phản ánh sâu sắc nội tâm nhân vật.
Nhớ về Kim Trọng, Kiều lại nhớ đến cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nghĩ đến cha mẹ, lòng Kiều trào dâng nỗi xót xa. Nàng thương cha mẹ sớm hôm tựa cửa ngóng trông tin con, mong mỏi sự đỡ đần. Nàng đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già yếu mà không có người chăm sóc. Nàng lo lắng không biết ai sẽ là người quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ lúc tuổi già. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cùng điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đã khắc họa rõ nét tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà, thời gian và nắng mưa đã làm thay đổi tất cả, cha mẹ ngày càng già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” không chỉ diễn tả thời gian xa cách mà còn gợi lên sức tàn phá của thiên nhiên đối với con người. Nàng luôn ân hận vì cảm thấy mình đã phụ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ.
Chỉ với tám câu thơ, Nguyễn Du đã miêu tả trọn vẹn nỗi nhớ da diết của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Nỗi nhớ ấy sâu lắng, thấm đẫm tình yêu thương và sự hiếu thảo.
Trong tám câu thơ cuối, tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Kiều được thể hiện rõ nét qua bức tranh tâm trạng. Điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện liên tiếp, khiến nỗi buồn như chất chồng, mỗi câu thơ là một cảnh, một tâm trạng, nhưng tựu chung vẫn là nỗi đau đớn, tuyệt vọng. Đây có thể xem là đoạn thơ xuất sắc nhất trong “Truyện Kiều”, nơi ngoại cảnh và tâm cảnh hòa quyện, tạo nên một bức tranh đầy xúc động:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cửa bể mênh mông lúc chiều tà càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của Kiều. Hình ảnh “thuyền ai” thấp thoáng xa xa gợi lên sự lẻ loi, ám ảnh, khiến nàng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách.
“Buồn trông gió cuốn mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu.”
Những cánh hoa trôi man mác như dự báo cho kiếp đời lưu lạc của Kiều. Nàng không biết tương lai mình sẽ đi về đâu, giữa dòng đời vô định. Nhìn ra xa, nàng chỉ thấy màu xanh mịt mờ của chân trời, nơi nội cỏ héo úa, tàn tạ, phản chiếu nỗi đau tê tái trong lòng:
“Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Nhìn xa rồi lại nhìn gần, Kiều lắng nghe tiếng gió cuốn mặt duềnh, tiếng sóng ầm ầm vang dội. Tâm trạng cô đơn, lo âu của nàng được đẩy lên đỉnh điểm, như dự báo cho những tai ương sắp ập đến:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Cảnh lầu Ngưng Bích được miêu tả qua tâm trạng Kiều: từ xa đến gần, từ nhạt đến đậm, từ tĩnh đến động. Nỗi buồn của nàng được khắc họa từ man mác đến lo âu, kinh sợ. Điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện bốn lần, nhấn mạnh nỗi buồn chất chồng và thân phận đáng thương của Kiều. Càng buồn, nàng càng trông; càng trông, nàng càng buồn. Đó là nỗi đau của kiếp người lưu lạc.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ xuất sắc, kết hợp tinh tế giữa miêu tả nội tâm và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều, giúp ta hiểu thêm về nàng - một người tình chung thủy, một người con hiếu thảo, và một tâm hồn giàu lòng vị tha. Qua đó, ta càng căm phẫn xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy con người tài hoa vào kiếp lầu xanh tủi hổ. Đồng thời, đoạn thơ cũng thể hiện tài năng và trái tim nhân đạo của Nguyễn Du, khiến ta không khỏi xúc động như lời nhà thơ Tố Hữu:
“Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều”
Nhận định hay về đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
1. Để diễn tả tâm trạng phức tạp của Kiều, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng nghệ thuật "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này". Đoạn thơ không chỉ khắc họa nỗi buồn đa chiều của Kiều (nhớ người yêu, thương cha mẹ, và tự thương mình) mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc và đầy bi kịch của nàng. Qua đó, tác giả cũng thể hiện rõ cảm hứng nhân văn trong tác phẩm.
2. Nguyễn Du, với tư cách là một nhà thơ-họa sĩ tài ba, đã vẽ nên bốn bức tranh tâm trạng liên hoàn: từ hy vọng đến lo âu, từ chán nản đến kinh hoàng. Mỗi bức tranh đều được tô điểm bằng gam màu lạnh, phản ánh sâu sắc nỗi buồn trông của Kiều. Nhà thơ còn sử dụng giai điệu trầm buồn để diễn tả tiếng lòng nhân vật, khiến mỗi âm tiết đều thấm đẫm nỗi sầu. Kết thúc đoạn thơ, hình ảnh sóng biển, sóng lòng, và sóng đời hòa quyện tạo nên một bản hòa tấu phức điệu, vừa là tiếng gọi của định mệnh, vừa là lời cảnh báo về những hiểm họa đang chờ đợi Kiều.
(Trần Đồng Minh...trong Tiếng nói tri âm,NXB Trẻ TP HCM, 1994)
3. Nguyễn Du đã kết hợp tài năng văn chương với sự đồng cảm sâu sắc với số phận con người để tạo nên một đoạn thơ đầy cảm xúc. Khả năng cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên và thấu hiểu tâm tư nhân vật đã giúp ông sáng tạo nên một trong những đoạn thơ nổi tiếng nhất trong Truyện Kiều.
(Đặng Thanh Lê)
4. Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm đã để Thúy Kiều viết một bài thơ với những hình ảnh đầy chất thơ:
Bên song nước suối thoảng mùi hoa
Sương khói mung lung ngọn núi xa
Gần biển, triều dâng bờ đá ướt
Cách thành, buồm ngả bóng chiều tà
Gió nâng vóc liễu trên từng gác
Sóng giục người đi biệt đất nhà
Việc cũ can chi mà nhỏ lệ?
Đốt lò nhắp thử vị hương trà
Hãy so sánh cách viết của Nguyễn Du trong "Kiều ở lầu Ngưng Bích" với bài thơ này?
....
- Văn mẫu lớp 11: Nghị luận xã hội về học đi đôi với hành - 2 Dàn ý chi tiết & 28 bài văn mẫu xuất sắc dành cho học sinh lớp 11
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt - 4 dàn ý chi tiết và 22 bài văn mẫu đặc sắc
- Tác Phẩm Nghệ Thuật Tái Hiện Chiến Thắng Lịch Sử Điện Biên Phủ
- Nghệ Thuật Mở Bài Trong Văn Nghị Luận: Bí Quyết Viết Mở Đầu Ấn Tượng Và Sâu Sắc
- Đáp Án Chi Tiết 30 Câu Trắc Nghiệm Mô Đun 8 Dành Cho Bậc THCS