Văn mẫu lớp 9: Phân tích sâu sắc tác phẩm Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh - Dàn ý chi tiết & 8 bài văn mẫu chọn lọc
TOP 8 bài phân tích sâu sắc Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh, kèm theo dàn ý chi tiết, giúp học sinh khám phá nguồn gốc, tác dụng và giá trị vĩnh cửu của văn chương trong đời sống nhân loại.

Văn chương không chỉ tạo nên cái đẹp mà còn làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và đáng trân trọng hơn. Qua tác phẩm, tác giả đã khẳng định sức sống bền bỉ và sức hấp dẫn vĩnh cửu của văn chương đối với con người. Mời các em cùng khám phá bài viết dưới đây của EduTOPS để trau dồi thêm vốn từ phong phú:
Dàn ý phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hoài Thanh (tiểu sử, sự nghiệp văn học, những đóng góp nổi bật…).
- Giới thiệu về tác phẩm “Ý nghĩa văn chương” (bối cảnh sáng tác, nguồn gốc, giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu…).
II. Thân bài
1. Nguồn gốc của văn chương
- Văn chương bắt nguồn từ tình yêu thương con người và mở rộng ra là tình yêu thương vạn vật, muôn loài.
=> Đây là một quan niệm đúng đắn và có cơ sở, nhưng không phải là quan niệm duy nhất về nguồn gốc văn chương.
2. Nhiệm vụ của văn chương
- Văn chương là tấm gương phản chiếu cuộc sống muôn màu muôn vẻ.
=> Văn chương không chỉ phản ánh hiện thực mà còn làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người.
- Văn chương kiến tạo nên sự sống.
=> Văn chương xây dựng những hình ảnh, ý tưởng và thế giới mơ ước mà con người luôn khao khát vươn tới.
3. Công dụng của văn chương
- Văn chương khơi gợi những cung bậc cảm xúc đa dạng, nuôi dưỡng tình yêu thương và lòng vị tha trong tâm hồn con người.
=> Văn chương mang trong mình sức mạnh cảm hóa kỳ diệu.
- Khơi dậy những tình cảm mới mẻ và bồi đắp những tình cảm vốn có trong tâm hồn con người.
- Giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và cuộc sống.
- Lưu giữ những dấu ấn văn hóa và lịch sử của nhân loại qua thời gian.
=> Văn chương làm giàu đời sống tinh thần, khơi gợi những cảm xúc chân thành và sâu sắc trong lòng người.
III. Kết bài
- Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
- Nội dung: Nguồn gốc cốt lõi của văn chương là tình yêu thương và lòng vị tha. Văn chương phản ánh cuộc sống đa dạng và sáng tạo nên những giá trị mới, nuôi dưỡng tình cảm và làm giàu tâm hồn.
- Nghệ thuật: Lập luận chặt chẽ, kết hợp hài hòa giữa lí lẽ và cảm xúc, hình ảnh sinh động…
- Vai trò của văn chương đối với bản thân: Mở rộng hiểu biết, làm phong phú thế giới tinh thần và nuôi dưỡng tâm hồn.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 1
Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học lỗi lạc của nền văn học hiện đại Việt Nam, qua bài viết “Ý nghĩa văn chương”, đã thể hiện quan niệm sâu sắc về nguồn gốc, vai trò và sứ mệnh của văn chương đối với tâm hồn con người và đời sống. Ông khẳng định vị trí và trách nhiệm của người nghệ sĩ trong việc sáng tạo và nuôi dưỡng đời sống văn hóa nhân loại.
Bài viết tập trung vào ba luận điểm chính. Đầu tiên, Hoài Thanh xác định nguồn gốc cốt lõi của văn chương là tình yêu thương con người và mở rộng ra là tình yêu thương muôn loài. Quan niệm này nhấn mạnh rằng văn chương bắt nguồn từ tình cảm, từ trái tim biết yêu thương. “Cốt yếu” ở đây không có nghĩa là duy nhất, mà là yếu tố quan trọng nhất. Hoài Thanh cho rằng: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người”. Điều này thể hiện tính nhân văn sâu sắc, khi văn chương trở thành cầu nối của tình yêu thương giữa con người và vạn vật.
Cách trình bày của tác giả vừa độc đáo vừa hấp dẫn. Ông dùng một câu chuyện cảm động để dẫn dắt người đọc vào vấn đề. Trên thực tế, có nhiều quan niệm khác về nguồn gốc văn chương, chẳng hạn như văn chương bắt nguồn từ lao động, nghi lễ tôn giáo, hoặc nhu cầu giải trí. Các quan niệm này không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, làm phong phú thêm hiểu biết về văn chương.
Tiếp theo, văn chương là sự phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Không chỉ dừng lại ở đó, văn chương còn có khả năng sáng tạo nên sự sống. Từ “hình dung” được sử dụng một cách tinh tế, vừa mang nghĩa là hình ảnh, vừa thể hiện quá trình sáng tạo của nhà văn.
Văn chương là tấm gương phản chiếu cuộc sống đa dạng, từ thiên nhiên kỳ vĩ đến những biến động xã hội. Đồng thời, “hình dung” còn cho thấy cách nhà văn nhìn nhận và tái hiện cuộc sống qua lăng kính nghệ thuật của mình. Nhà văn không sao chép hiện thực một cách máy móc mà sáng tạo nên những hình ảnh, ý tưởng mới mẻ thông qua trí tưởng tượng và cảm xúc cá nhân.
Văn chương không chỉ phản ánh mà còn kiến tạo nên sự sống. Những thế giới mà nhà văn tạo ra trên trang giấy có thể chưa từng tồn tại trong thực tế, như thế giới tiên cảnh, siêu nhân, hay những câu chuyện về loài vật. Những sáng tạo này không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần mà còn khơi gợi khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhà văn thường xây dựng trong tác phẩm của mình một bức tranh cuộc sống lý tưởng, qua đó truyền cảm hứng để mọi người hướng tới những giá trị cao đẹp. Như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói: “Nghệ thuật không chỉ nâng cao hiểu biết mà còn nuôi dưỡng tình cảm, giúp tâm hồn con người luôn tươi mới như một bông hoa vừa nở.”
Cuối cùng, văn chương có công dụng nuôi dưỡng tình cảm và khơi gợi lòng vị tha. Nó giúp ta có được những tình cảm mới mẻ và làm sâu sắc thêm những tình cảm vốn có. Những tình cảm mới có thể là sự đồng cảm với những số phận bất hạnh, tình yêu với những vùng đất xa lạ, hay nỗi xót xa trước cảnh đời cơ cực. Những tình cảm này nảy nở trong ta khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương.
Những tình cảm sẵn có, như tình yêu gia đình, lòng yêu nước, hay tình yêu thiên nhiên, được văn chương bồi đắp thêm, trở nên trong sáng và cao quý hơn. Văn chương giúp con người sống đẹp hơn, giàu lòng nhân ái và vị tha.
Như vậy, văn chương tác động một cách tự nhiên đến thế giới tình cảm của con người, làm giàu có tâm hồn và hướng con người đến những giá trị cao đẹp. Văn chương không chỉ làm đẹp cuộc đời mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần nhân loại. Vai trò của các nhà văn, vì thế, là vô cùng quan trọng.
Với hệ thống luận điểm phong phú, lập luận chặt chẽ, giàu cảm xúc, Hoài Thanh đã làm sáng tỏ ý nghĩa và công dụng của văn chương. Văn chương không chỉ nuôi dưỡng tình cảm, khơi gợi lòng vị tha mà còn giúp con người nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. Nếu thiếu văn chương, lịch sử nhân loại sẽ mất đi những dấu ấn tinh thần quý giá, trở nên nghèo nàn và khô cứng.
Phân tích tác phẩm ý nghĩa văn chương - Mẫu 2
Hoài Thanh là một nhà phê bình văn học tài ba, với những bài viết sắc sảo và đầy tinh tế. Tên tuổi của ông trở nên bất tử qua tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” (1942). Bài viết “Ý nghĩa văn chương” của ông dù đã được viết cách đây hơn 60 năm, nhưng đến nay vẫn mang lại nhiều điều thú vị và sâu sắc cho người đọc.
Trong bài viết này, hai chữ “văn chương” được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ những tác phẩm thơ văn, vẻ đẹp của ngôn từ và câu chữ. Đây là một bài báo ngắn, nên Hoài Thanh chỉ tập trung vào một số ý chính về ý nghĩa và giá trị của văn chương.
Tác giả mở đầu bằng một câu chuyện cổ về một thi sĩ Ấn Độ, người đã khóc nức nở khi chứng kiến một con chim bị thương. Từ đó, Hoài Thanh khẳng định: “Tiếng khóc ấy, nhịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Cách vào đề này vừa nhẹ nhàng, vừa hấp dẫn, được gọi là “dụ khởi”. Qua câu chuyện, tác giả nêu bật nguồn gốc của văn chương: đó là lòng thương người và rộng ra là tình yêu thương muôn loài. Nói cách khác, cảm hứng văn chương bắt nguồn từ tình thương.
Ý nghĩa của văn chương là “hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống”. Nguồn gốc của văn chương cũng là để nuôi dưỡng tình cảm và khơi gợi lòng vị tha. Hoài Thanh đã chỉ ra hai chức năng chính của văn chương: nhận thức và giáo dục. Văn học phản ánh hiện thực, giúp người đọc “hình dung sự sống muôn hình vạn trạng”. Đồng thời, văn học còn “sáng tạo ra sự sống”, đó là điều kỳ diệu của thơ văn. Ví dụ, khi đọc những bài thơ như “Khoảng trời, hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ hay “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, ta có thể hình dung được cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ và sự anh dũng của tuổi trẻ Việt Nam.
Nguồn gốc của văn chương là tình cảm và lòng vị tha. Thơ văn chân chính có sức mạnh kỳ diệu, có thể khiến độc giả vui, buồn, giận dữ, hay xúc động. Đó chính là giá trị giáo dục của văn chương. Văn chương mang tính nhân bản, góp phần nhân đạo hóa con người. Quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc và công dụng của văn chương rất tiến bộ và đúng đắn. Chẳng hạn, khi đọc bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn”, ta thêm yêu kính và hiếu thảo với cha mẹ. Hay khi đọc những câu thơ về người nông dân, ta thầm biết ơn những người đã gieo trồng để ta có được hạt gạo thơm ngon:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Văn chương kỳ diệu ở chỗ nó thể hiện những ước mơ, khát vọng của con người. Như Hoài Thanh đã nói, văn chương “gây cho ta những tình cảm ta không có (hoặc sẽ có), luyện những tình cảm ta sẵn có”. Tình yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên, say mê học tập và lao động, những tình cảm ấy được nuôi dưỡng và bồi đắp qua văn chương.
Văn chương làm cho cuộc đời thêm đẹp, thêm ý nghĩa và phong phú. Như tác giả đã viết: “Cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”.
“Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân..!”
(Vũ Bằng)
“Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Cuộc đời không thể thiếu văn chương. Văn chương sáng tạo nên cái đẹp, giúp ta thấy cuộc đời đáng yêu hơn. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh gợi cảm để diễn tả điều này: “Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay”.
Vai trò của các nhà văn, thi sĩ là vô cùng to lớn. Nếu nhân loại xóa bỏ các thi nhân, văn nhân và những tác phẩm của họ, cuộc đời sẽ trở nên nghèo nàn và tẻ nhạt biết bao! Cảm xúc của Hoài Thanh như tràn đầy trên từng trang viết, khẳng định giá trị vĩnh cửu của văn chương.
Khi bàn về ý nghĩa văn chương, Hoài Thanh đã đưa ra những luận điểm vững chắc về nguồn gốc và giá trị của thơ văn. Tác giả đã làm nổi bật tính nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc của văn chương. Với lối viết nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, cùng những hình ảnh đẹp và gợi cảm, những luận điểm của Hoài Thanh tuy không mới mẻ nhưng vẫn mang sức thuyết phục mạnh mẽ.
Phân tích tác phẩm ý nghĩa văn chương - Mẫu 3
Hoài Thanh, một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất Việt Nam, với những đánh giá và bình luận sâu sắc về văn học. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, "Thi nhân Việt Nam", xuất bản năm 1942, cùng với "Ý nghĩa văn chương", đã làm sáng tỏ nguồn gốc, tác dụng và ý nghĩa của văn chương trong đời sống con người.
Phan Kế Bính định nghĩa văn chương: “Văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Lời lẽ rực rỡ, bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng nên gọi là văn chương”. Hoài Thanh trong tác phẩm của mình cũng sử dụng khái niệm tương tự, nhấn mạnh tính nghệ thuật và vẻ đẹp của ngôn từ. Ông mở đầu tác phẩm bằng một giai thoại về nguồn gốc của văn chương: "Một nhà thi sĩ Ấn Độ thấy con chim bị thương rơi xuống chân mình, cảm động đến mức khóc nức nở, trái tim hòa cùng nhịp run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy chính là nguồn gốc của thi ca".
Nguồn gốc của văn chương bắt nguồn từ những rung động sâu sắc trong trái tim người nghệ sĩ. Văn chương không thể tồn tại nếu thiếu đi sự chân thật trong cảm xúc. Hoài Thanh khẳng định: "Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài". Lòng nhân ái chính là khởi nguyên của văn chương, một nhận định sâu sắc và chính xác.
Ngoài lòng nhân ái, văn chương còn bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Quan điểm này của Hoài Thanh tương đồng với Nam Cao: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối... nghệ thuật chỉ có thể phát ra từ những kiếp lầm than trong cuộc sống...". Văn chương phản ánh sự sống muôn hình vạn trạng, ghi lại những sự kiện xã hội và tự nhiên một cách chân thực và chi tiết.
Tổng hợp hai quan điểm trên, nguồn gốc của văn chương vừa bắt nguồn từ tình thương và hiện thực cuộc sống: "Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, lòng vị tha". Sự kết hợp này tạo nên những tác phẩm giàu ý nghĩa.
Văn chương không chỉ bộc lộ tình cảm mà còn có tác dụng to lớn đối với cuộc sống. Hoài Thanh chỉ ra: "Văn chương là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng... Văn chương còn sáng tạo ra sự sống". Mỗi nhà văn với góc nhìn khác nhau đã mang đến những hình ảnh đa dạng về cuộc sống.
Văn chương không chỉ phản ánh mà còn sáng tạo. Sáng tạo trong văn chương vừa là khả năng của tác giả, vừa là khả năng của văn chương đối với cuộc sống. Thế giới trong văn chương có thể giống hoặc khác hiện thực, nhưng luôn hướng đến cải tạo và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Hoài Thanh còn nhấn mạnh: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần". Văn chương mở rộng thế giới tinh thần con người, giúp ta cảm nhận được những điều vô hình.
Văn chương giúp con người biết yêu thương quê hương, đồng loại, và cả những số phận bất hạnh. Những tình cảm này không dễ có được trong cuộc sống thực, nhưng qua văn chương, chúng trở nên sâu sắc và bao la hơn.
Thế giới thực của chúng ta có thể hạn hẹp, nhưng văn chương mở ra một chân trời mới. Ta biết đến cô bé bán diêm trong đêm Noel, chú bé chăn cừu nói dối hại thân. Văn chương thẩm thấu vào tâm hồn, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu.
Văn chương có vai trò quan trọng trong đời sống nhân loại. Nếu thiếu văn chương, thế giới sẽ trở nên đơn điệu và nghèo nàn: "Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn đến bậc nào!".
Với những luận điểm chính xác và đầy tính nhân văn, Hoài Thanh đã giúp chúng ta hiểu rõ nguồn gốc và tác dụng của văn chương. Văn chương không chỉ cung cấp tri thức mà còn bồi đắp tình cảm và tinh thần cho con người.
Qua cách lập luận chặt chẽ và cảm xúc tinh tế, Hoài Thanh đã thể hiện tình yêu với văn chương và khẳng định sức sống muôn đời của nó đối với con người.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 4
Văn chương luôn là đề tài được nghiên cứu và bàn luận sâu rộng, với nhiều định nghĩa và công trình khám phá vai trò của nó trong đời sống con người. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh. Bài viết này không chỉ làm rõ nguồn gốc mà còn khẳng định chức năng quan trọng của văn chương, giúp người đọc thấu hiểu sâu sắc hơn giá trị của nó.
Đầu tiên, tác giả đề cập đến nguồn gốc của văn chương. Thông qua một câu chuyện Ấn Độ, Hoài Thanh khẳng định rằng văn chương bắt nguồn từ những cảm xúc mãnh liệt của con người trước những hiện tượng trong cuộc sống. Văn chương là tiếng lòng xót thương trước những điều đáng thương, và nguồn gốc của nó chính là lòng yêu thương. Văn chương không chỉ xuất phát từ cuộc sống lao động hàng ngày, như những bài ca dao về “Trâu ơi ta bảo trâu này…”, mà còn từ cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và những giá trị văn hóa, lễ hội truyền thống. Tóm lại, văn chương bắt nguồn từ tình yêu thương của con người đối với cuộc sống. Cách dẫn dắt vấn đề của Hoài Thanh vừa tự nhiên, vừa thuyết phục, biến bài nghị luận thành một tác phẩm hấp dẫn.
Thứ hai, tác giả phân tích công dụng và nhiệm vụ của văn chương. Hoài Thanh chỉ ra rằng văn chương có nhiệm vụ phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực. Từ hình ảnh chú bé Lượm trong thơ Tố Hữu đến cánh cò trong ca dao, văn chương đều phản ánh đời sống thực. Những tác phẩm như Thạch Sanh hay Cây bút thần thể hiện ước mơ về công lý và cải tạo hiện thực. Về công dụng, văn chương giúp nuôi dưỡng tình cảm, gợi lòng vị tha, và rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp. Hoài Thanh dẫn chứng qua hai tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài và “Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài, minh chứng rằng văn chương có thể khiến con người đồng cảm với những số phận xa lạ.
Tóm lại, qua bài viết của Hoài Thanh, chúng ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của văn chương. Nguồn gốc của văn chương là lòng thương yêu, công dụng của nó là nuôi dưỡng tình cảm và rèn luyện phẩm chất tốt đẹp. Nhiệm vụ của văn chương là phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực, mang đến những giá trị nhân văn sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 5
Trong tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”, Hoài Thanh đã làm sáng tỏ nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương, mang đến những góc nhìn sâu sắc về giá trị của nghệ thuật ngôn từ.
Tác phẩm được viết năm 1936 (in trong sách Văn chương và hành động), thuộc thể loại nghị luận văn chương, bàn về các vấn đề liên quan đến văn học. Khác với văn chính luận như “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, tác phẩm này tập trung vào ba nội dung chính: nguồn gốc, nhiệm vụ và công dụng của văn chương. Những luận điểm này được trình bày một cách mạch lạc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về ý nghĩa của văn chương trong đời sống.
Hoài Thanh đã giải thích nguồn gốc của văn chương thông qua một câu chuyện về một thi sĩ Ấn Độ. Ông khẳng định: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”. Cách diễn đạt này vừa mềm mại, vừa sâu sắc, không áp đặt mà gợi mở cho người đọc tự suy ngẫm. Quan điểm của Hoài Thanh không chỉ dừng lại ở đây mà còn mở ra nhiều hướng tư duy khác về nguồn gốc của văn chương.
Từ việc giải thích nguồn gốc, Hoài Thanh tiếp tục khẳng định: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhấn mạnh nhiệm vụ của văn chương là phản ánh và sáng tạo hiện thực. Ví dụ, trong bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh, hình ảnh đêm rừng Việt Bắc được tái hiện một cách sinh động, hay trong “Sài Gòn tôi yêu” của Minh Hương, tác giả đã khắc họa một Sài Gòn đầy sức sống.
Cách văn chương phản ánh và sáng tạo hiện thực vô cùng đa dạng, phụ thuộc vào tài năng và tâm hồn của mỗi nhà văn. Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đây chính là nhiệm vụ sáng tạo của văn chương, giúp con người vượt lên trên hiện thực để khám phá những điều tốt đẹp hơn.
Ví dụ, Nguyễn Trãi trong “Bài ca Côn Sơn” đã biến cảnh núi rừng tĩnh lặng thành một thế giới sống động, nơi có tiếng đàn cầm, có chiếu êm, giường phẳng và tiếng thơ nhàn tản. Qua đó, ông không chỉ giải tỏa những ẩn ức của bản thân mà còn gửi gắm thông điệp về một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Văn chương không chỉ sáng tạo ra thế giới mới mà còn truyền cảm hứng để người đọc hành động vì những điều tốt đẹp.
Trong bài “Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh không chỉ miêu tả cảnh đêm rừng Việt Bắc mà còn gửi gắm khát vọng về một đất nước độc lập, hạnh phúc. Tương tự, Minh Hương trong “Sài Gòn tôi yêu” đã truyền tình yêu Sài Gòn đến độc giả, thúc đẩy họ góp phần xây dựng một Sài Gòn đẹp hơn. Đây chính là nhiệm vụ “sáng tạo sự sống” của văn chương mà Hoài Thanh đã đề cập.
Hoài Thanh cũng nhấn mạnh công dụng của văn chương: “Công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Văn chương có khả năng lay động tâm hồn, giúp con người biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với người khác. Qua những tác phẩm văn học, chúng ta học được cách yêu thương, đồng cảm và sống nhân ái hơn.
Văn chương không chỉ bồi đắp tình cảm mà còn làm giàu thêm thế giới tâm hồn của con người. Hoài Thanh viết: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Những bài ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đã giúp chúng ta thêm yêu thương ông bà, cha mẹ và những người xung quanh. Văn chương còn tô điểm cho cuộc sống bằng những sắc màu và âm thanh, khiến thế giới trở nên đẹp đẽ và đáng yêu hơn.
Câu cuối của văn bản thật ý nghĩa: “Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bậc nào!...”. Câu văn này không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của văn chương mà còn nhắc nhở chúng ta biết trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hóa mà các nhà văn, nhà thơ đã để lại.
Tóm lại, với lối văn nghị luận vừa chặt chẽ, vừa giàu cảm xúc, Hoài Thanh đã chứng minh một cách thuyết phục về nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương. Qua đó, chúng ta càng thêm yêu quý và trân trọng những giá trị mà văn chương mang lại cho đời sống con người.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 6
Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học xuất sắc của Việt Nam, đã mang đến những góc nhìn sâu sắc về nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương qua tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”. Bài viết không chỉ làm rõ giá trị của văn chương mà còn khẳng định vai trò quan trọng của nó trong đời sống tinh thần con người.
Tác phẩm “Ý nghĩa văn chương” được in trong cuốn “Bình luận văn chương” và sau này còn được xuất bản lại với tên gọi “Ý nghĩa và công dụng của văn chương”. Điều này cho thấy sức ảnh hưởng và giá trị lâu bền của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam.
Hoài Thanh bắt đầu bằng việc lý giải nguồn gốc của văn chương thông qua một câu chuyện Ấn Độ. Ông khẳng định: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người, và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài”. Cách tiếp cận này vừa sáng tạo, vừa đi thẳng vào trọng tâm, giúp người đọc hiểu rõ hơn về khởi nguyên của văn chương.
Tiếp theo, tác giả đề cập đến công dụng và nhiệm vụ của văn chương. Văn chương có nhiệm vụ phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực. Ví dụ, trong văn học dân gian, truyện “Tấm Cám” phản ánh mâu thuẫn giữa mẹ ghẻ và con chồng, còn trong văn học hiện đại, “Cuộc chia tay của những con búp bê” lại phơi bày thực trạng đáng báo động về vấn đề ly hôn. Ngoài ra, Hoài Thanh còn nhấn mạnh công dụng của văn chương trong việc nuôi dưỡng tình cảm và gợi lòng vị tha. Khi đọc “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê hương da diết, còn “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen lại khơi gợi lòng thương cảm trước số phận bất hạnh của cô bé.
Qua tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”, Hoài Thanh đã làm sáng tỏ nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương. Văn chương không chỉ phản ánh hiện thực mà còn sáng tạo ra những giá trị tinh thần, giúp con người sống nhân ái và giàu cảm xúc hơn.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 7
Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học tài ba, đã khéo léo trình bày về nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương trong tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”. Bài viết không chỉ mang tính học thuật cao mà còn truyền cảm hứng sâu sắc đến người đọc.
Mở đầu, Hoài Thanh đã lý giải nguồn gốc của văn chương thông qua một câu chuyện Ấn Độ: “Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Từ đó, ông khẳng định: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người, và rộng ra là cả muôn vật, muôn loài”. Cách tiếp cận này vừa sáng tạo, vừa thuyết phục, giúp người đọc hiểu rõ hơn về khởi nguyên của văn chương.
Tiếp theo, tác giả đề cập đến nhiệm vụ của văn chương: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng”, tức là văn chương phản ánh hiện thực đa dạng của cuộc sống. Đồng thời, “văn chương còn sáng tạo ra sự sống”, nghĩa là nó xây dựng nên những thế giới mơ ước mà con người luôn khao khát hướng tới. Khi đọc một tác phẩm văn học, người đọc không chỉ hiểu về thời đại mà tác phẩm phản ánh, mà còn được truyền cảm hứng để vươn tới những giá trị tốt đẹp hơn.
Cuối cùng, Hoài Thanh nhấn mạnh công dụng to lớn của văn chương: “Văn chương gây cho ta những tình cảm không có và luyện cho ta những tình cảm sẵn có”. Điều này có nghĩa là văn chương không chỉ khơi gợi những cảm xúc mới mẻ trong lòng người đọc, mà còn làm sâu sắc thêm những tình cảm vốn có. Ví dụ, khi đọc truyện “Bức tranh của em gái tôi”, người đọc cảm nhận được tình yêu thương trong sáng của cô bé Kiều Phương dành cho người anh trai, từ đó nhận ra bài học quý giá về tình cảm gia đình.
Tóm lại, “Ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng những luận điểm sâu sắc. Tác phẩm đã làm sáng tỏ nguồn gốc, công dụng và nhiệm vụ của văn chương, khẳng định vai trò không thể thiếu của nó trong đời sống tinh thần con người.
Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương - Mẫu 8
Hoài Thanh, một nhà phê bình văn học xuất sắc, đã để lại dấu ấn sâu sắc với tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”. Bài viết không chỉ là một công trình nghiên cứu mà còn là tình yêu, sự trân trọng dành cho nghệ thuật ngôn từ.
Với lối văn nghị luận kết hợp hài hòa giữa lí lẽ sắc bén và cảm xúc tinh tế, Hoài Thanh khẳng định: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha”. Văn chương không chỉ là tấm gương phản ánh cuộc sống muôn hình vạn trạng mà còn góp phần sáng tạo ra sự sống, nuôi dưỡng những tình cảm mới và làm sâu sắc thêm những tình cảm vốn có. Đời sống tinh thần của nhân loại sẽ trở nên nghèo nàn, tẻ nhạt nếu thiếu đi văn chương. Quan niệm này thể hiện sự hiểu biết sâu sắc và tình yêu mãnh liệt của tác giả dành cho văn chương.
Hoài Thanh bắt đầu bằng việc giải thích nguồn gốc của văn chương thông qua một giai thoại: “Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, nỗi đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Cách mở đầu độc đáo này không chỉ thu hút người đọc mà còn khẳng định rằng văn chương bắt nguồn từ những cảm xúc mãnh liệt trước hiện thực cuộc sống. Từ đó, ông kết luận: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài”. Lòng nhân ái chính là khởi nguyên của văn chương.
Nhận định này của Hoài Thanh rất đúng đắn, nhưng không phải là duy nhất. Có những quan điểm khác cho rằng văn chương bắt nguồn từ cuộc sống lao động của con người, hoặc văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Các quan niệm này tuy khác biệt nhưng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau, làm phong phú thêm ý nghĩa của văn chương.
Để làm rõ hơn, Hoài Thanh tiếp tục khẳng định vai trò của tình cảm trong sáng tạo văn chương: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Như vậy, dù là phản ánh hiện thực hay sáng tạo ra thế giới mới, nguồn gốc của văn chương đều xuất phát từ tình cảm và lòng vị tha.
Ở câu đầu tiên, tác giả nhấn mạnh rằng văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống đa dạng, muôn màu. Ở câu thứ hai, ông khẳng định văn chương còn có khả năng sáng tạo ra những hình ảnh, ý tưởng mới, thúc đẩy con người hướng tới những giá trị tốt đẹp hơn. Sự sáng tạo này bắt nguồn từ cảm xúc chân thành của nhà văn, giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống.
Thông qua văn chương, chúng ta có thể hình dung được cuộc sống của tổ tiên qua những bài ca dao, tục ngữ, thần thoại, cổ tích. Những ước mơ chinh phục thiên nhiên, những bài học đạo lý và kinh nghiệm sống được truyền lại qua thế hệ, thấm sâu vào tâm hồn mỗi người, tạo nên một đời sống tinh thần phong phú.
Văn chương hướng con người tới chân, thiện, mỹ, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu. Nó giúp con người hoàn thiện nhân cách, trở nên hữu ích hơn cho gia đình và xã hội. Câu tục ngữ “Lời nói chẳng mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” là minh chứng cho điều này. Nguồn gốc của câu tục ngữ xuất phát từ lòng nhân ái, mong muốn con người biết cách ăn nói và ứng xử tốt đẹp hơn.
Câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” đã trở thành lời nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Đó là thước đo phẩm chất đạo đức của mỗi người, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có vô số lời ru, câu chuyện khuyên nhủ mọi người xây dựng tình cảm gia đình đầm ấm, thuận hòa. Một trong những lời khuyên đó là:
“Anh em như chân với tay,
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”
Cuộc sống lao động của người nông dân xưa được tái hiện một cách đẹp đẽ, thơ mộng qua cái nhìn yêu thương trìu mến:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
Chỉ với hai dòng thơ, tác giả dân gian đã vẽ nên bức tranh sinh hoạt tuyệt đẹp: cảnh thôn nữ tát nước dưới ánh trăng. Ánh trăng tràn ngập khắp nơi, hòa vào từng gàu nước, tạo nên hình ảnh vừa thực vừa mộng. Câu hỏi tu từ không chỉ là cách tỏ tình tinh tế mà còn thể hiện sự liên tưởng độc đáo, làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên và con người.
Để tôn vinh vẻ đẹp của làng quê và phẩm chất cao quý của người dân quê, ca dao có câu:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Bài ca dao này không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen mà còn tôn vinh tâm hồn thanh cao của người lao động. Dù sống trong môi trường không mấy thuận lợi, họ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch và cao quý. Tình yêu quê hương tha thiết được thể hiện rõ nét qua từng câu chữ.
Hoài Thanh từng viết về sức hấp dẫn của văn chương: “Một người suốt ngày chỉ biết lo cho bản thân, nhưng khi đọc truyện hay ngâm thơ lại có thể cảm nhận được niềm vui, nỗi buồn, sự giận dữ cùng với những nhân vật xa lạ. Điều này chẳng phải là minh chứng cho sức mạnh kỳ diệu của văn chương hay sao?” Văn chương có khả năng khơi dậy những cảm xúc cao đẹp trong lòng người. Khi đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, độc giả không khỏi xúc động trước số phận của Thúy Kiều, căm phẫn trước những nhân vật phản diện như Sở Khanh, Tú Bà, và càng thêm ghê tởm xã hội coi trọng đồng tiền.
Hoài Thanh cũng nhấn mạnh: “Văn chương giúp ta có những tình cảm mới và nuôi dưỡng những tình cảm sẵn có. Cuộc sống nhỏ bé của cá nhân nhờ văn chương mà trở nên sâu sắc và rộng mở hơn gấp bội.” Đây chính là giá trị giáo dục của văn chương, giúp con người tự khám phá bản thân và hướng tới chân lý, cái đẹp.
Văn chương có khả năng nâng con người lên khỏi những toan tính vật chất tầm thường. Khi đắm chìm trong thế giới văn chương, độc giả được sống cùng nhân vật, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, và tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn.
Văn chương không chỉ thỏa mãn thị hiếu thẩm mỹ qua ngôn từ và cốt truyện mà còn làm rung động lòng người qua những hình tượng nhân vật điển hình. Những nhân vật như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, hay Chí Phèo đã trở thành biểu tượng vĩnh cửu của niềm vui và nỗi đau trong cuộc sống con người.
Văn chương còn là người thầy dạy ta những bài học đạo đức, giúp ta hoàn thiện nhân cách và mở rộng tầm hiểu biết. Nó không chỉ là người bạn đồng hành mà còn là người thầy tận tâm trên hành trình cuộc đời.
Có người nói rằng từ khi thi sĩ ca ngợi cảnh núi non, hoa cỏ, chúng mới trở nên đẹp đẽ; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề tài thơ ca, những âm thanh ấy mới trở nên du dương.
Hãy cùng đọc lại bài “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn…”
Thiên nhiên Côn Sơn hiện lên sống động qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi. Dòng suối chảy róc rách như tiếng đàn, phiến đá phủ rêu xanh mướt, rừng thông và trúc bạt ngàn tạo nên một khung cảnh yên bình và thơ mộng.
Những vần thơ này giúp ta hiểu thêm về tình yêu quê hương sâu sắc của Nguyễn Trãi. Đọc “Côn Sơn ca”, lòng ta không khỏi bồi hồi và thêm gắn bó với từng góc phố, mảnh vườn quê hương. Văn chương có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại. Nếu một ngày nào đó, lịch sử loài người không còn dấu vết của các thi nhân, văn nhân, thế giới sẽ trở nên nghèo nàn biết bao.
Hoài Thanh luôn trân trọng và đề cao giá trị của văn chương. Ông khẳng định rằng thế giới văn chương là một thế giới kỳ diệu, có sức hấp dẫn vĩnh cửu đối với con người.
- Tác phẩm 'Ý nghĩa văn chương' - Trích từ 'Bình luận văn chương' của Hoài Thanh
- Bộ 8 đề thi học kì 2 môn Toán lớp 4 năm 2023 - 2024 theo chương trình sách mới: Kết nối tri thức, Chân trời sáng tạo, Cánh diều. Bao gồm đáp án chi tiết và bảng ma trận đánh giá, giúp học sinh ôn tập hiệu quả.
- Truyện Đồng Thoại: Khám Phá Khái Niệm, Đặc Điểm Nổi Bật Và Ý Nghĩa Sâu Sắc
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 110 - Ngữ văn lớp 11, sách Kết nối tri thức tập 2
- Hướng dẫn viết bài văn thuyết minh về sự kiện hoặc sinh hoạt văn hóa - Dàn ý chi tiết & 15 bài văn mẫu lớp 6