Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình tượng con hổ trong Nhớ rừng (Dàn ý + 6 mẫu) - Thế Lữ
TOP 6 bài Phân tích hình tượng con hổ trong Nhớ rừng SIÊU HAY, kèm dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc tâm trạng chán chường, uất ức của chúa sơn lâm.

Qua đó, Thế Lữ đã khắc họa thành công hình tượng chú hổ bị giam cầm trong cũi sắt, phản ánh tâm trạng và khát khao tự do của người dân Việt Nam thời bấy giờ. Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo thêm bài cảm nhận Nhớ rừng hoặc phân tích tâm trạng con hổ để hiểu sâu sắc hơn. Mời các em tải miễn phí.
Dàn ý Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu của Thế Lữ - một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới.
- Khái quát tâm trạng: Trong tác phẩm, trung tâm chính là tâm trạng con hổ trước thực tại tầm thường và quá khứ vàng son, qua đó nói về chính những con người Việt Nam đang trong hoàn cảnh mất nước.
2. Thân bài
- Hoàn cảnh con hổ
- Trước đây: là chúa sơn lâm oai hùng của rừng thẳm.
- Bây giờ: bị bắt giam vào lồng ở vườn bách thú.
=> Cuộc sống bị giam cầm, tù hãm.
- Cảm nhận về tâm trạng tủi nhục, phẫn uất, chán ghét khung cảnh thực tại.
- Tâm trạng phẫn uất, chán ghét đến tột đỉnh khi bị giam cầm, bị coi làm trò đùa cho lũ người nhỏ bé tầm thường của con hổ - biểu tượng của rừng xanh oai linh.
- Nhớ về quá khứ, con hổ nhớ về những kỉ niệm chốn rừng xanh với tâm trạng nuối tiếc.
- Sống trong cũi sắt, chứng kiến những điều chán ghét tầm thường, con hổ khao khát được trở về với đại ngàn sâu thẳm, trở về với tự do, với thân phận đáng có của nó. Dù chỉ là trong giấc mộng, con hổ cũng muốn đưa hồn mình trở về với núi non
- Đó là nỗi nhớ, niềm tự hào về quá khứ, về độc lập dân tộc, và là khao khát tự do, phá nát cái gọng kìm của bọn thực dân.
3. Kết bài
- Khái quát lại tâm trạng con hổ: Nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
- Liên hệ, đánh giá nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Thế Lữ.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1
Hình tượng con hổ là hình tượng trung tâm trong bài "Nhớ rừng” của Thế Lữ. Thấm đượm trong từng câu, từng ý là nỗi "Nhớ rừng” của con hổ. Nỗi nhớ ở đây được biểu hiện một cách hết sức mãnh liệt, có khi trở nên dữ dội trên nhiều khía cạnh của tình cảm, chứ không phải là một nỗi nhớ man mác, bâng quơ. Nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ của một anh hùng bị thất thế, chứ không phải là một nỗi nhớ của một kẻ bé nhỏ, tầm thường.
Ngay từ đầu bài thơ, ta thấy nỗi "Nhớ rừng” của chúa sơn lâm được biểu hiện ở thái độ căm tức đến mức đau đớn cho số phận không may của mình:
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt...” và "sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm”. Nó cảm thấy nhục vì phải trở thành một "thứ đồ chơi cho một lũ người” "mắt bé” nhưng lại "ngạo mạn” và "ngẩn ngơ”. Nó không chịu được cái cảnh phải "sống ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”.
Nó căm hờn! Nó thấy nhục! Nó căm ghét tất cả! Vì nó đang phải nằm dài trong "cũi sắt”.
Nỗi nhớ rừng của mãnh hổ càng được biểu hiện một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc hơn khi nó hồi tưởng về một thời quá khứ vàng son, oanh liệt của mình với một tâm trạng luyến tiếc.
Nó nhớ những hình ảnh đẹp đẽ, những âm thanh vang vọng của núi rừng:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội”.
Giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ đó, nó xuất hiện như một vị sơn thần. Từ "bước chân” "dõng dạc” đến "lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng từ "vờn bóng âm thầm" đến “quắc đôi mắt thần" làm sáng rực cả hang tối, nó là "chúa tể của muôn loài", làm cho mọi vật phải “im hơi” lặng tiếng.
Nó nhớ những kỉ niệm trong cuộc sống thường ngày ở chốn rừng sâu, nhớ đến thèm khát, cháy bỏng. Những lúc say mồi dưới ánh trăng:
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Những lúc ngủ ngon khi bình minh đang lên và chim rừng đang tưng bừng ca hát. Những lúc chờ đợi mảnh mặt trời tắt đi để một mình chiếm lấy cả không gian bí mật.Những lúc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của giang sơn sau một cơn mưa rừng dữ dội. Tất cả, đối với nó là một thời oanh liệt.
Nhưng thời oanh liệt đó đã thuộc về dĩ vãng. Nó chỉ còn biết cất một tiếng than: "Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”. Càng căm uất cho số phận của mình lúc sa cơ thất thế, càng luyến tiếc về một quá khứ oai hùng, oanh liệt, con hổ tỏ một thái độ khinh bạc, coi khinh cuộc sống thực tại giả dối đang diễn ra xung quanh nó:
"Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng...”
Chẳng qua cũng là "học đòi, bắt chước vẻ hoang vu, của chốn nghìn năm cao cả, âm u”.
Khinh bạc với hiện tại, nó lại khát khao được trở về với nơi "núi non hùng vĩ" để ngự trị sơn lâm, trở về với cuộc sống tự do, phóng khoáng, tha hồ vùng vẫy, tung hoành. Nhưng một sự thực, nó đang bị giam trong "cũi sắt”. Chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo giấc mộng ngàn” để được sống những phút oanh liệt, để xua tan những ngày ảm đạm "ngao ngán” của mình.
Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính là vì chán ngán trước cuộc sống mà nó đang bị giam hãm, mất tự do.
Tâm trạng của con hổ, cũng chính là tâm trạng của tác giả, tâm trạng của một lớp người trong xã hội lúc bấy giờ (1931-1935) cảm thấy bế tắc trước cuộc sống, chán chường với thực tại, khát khao một cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dầu chưa được định hướng rõ ràng. Đó cũng là một thái độ đáng quý, đáng trân trọng. Rõ ràng, bài thơ Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ là một bài thơ rất hay, là bài thơ hay nhất trong phong trào thơ mới khi đã mượn hình ảnh của con hổ để nói về nỗi đau mất nước, nỗi đau chung của người dân khi đang phải chịu sống trong cảnh tù đày, dưới ách thống trị của bọn thực dân. Hình tượng con hổ có giá trị nghệ thuật vô cùng đặc sắc, nó không chỉ là hình tượng của tự nhiên mà còn biểu trưng cho cả một xã hội, gửi gắm ý nghĩa sâu xa, đầy ẩn ý của tác giả.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 2
Nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nó cũng là một bài in được dấu ấn đậm và bền trong nhiều thế hệ bạn đọc - Tác giả của nó - thi sĩ Thế Lữ, là một nhà thơ tài năng, người có công đầu trong phong trào Thơ mới. Có thể nói ông đã nhập thân hoàn toàn vào hình tượng con hổ trong bài, mượn con hổ để bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc đời tù túng, nô lệ.
Một khía cạnh rõ nét của tâm sự ấy, là nỗi "tủi nhục" vì hiện trạng của thân phận:
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đỏ chơi,
Chịu chung bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Nỗi tủi nhục đến cao độ, chuyển thành phẫn uất, căm hờn. Bị mất tự do trong "cũi sắt", đành thúc thủ bất lực "nằm dài trông ngày tháng dần qua", lại còn bị "lũ người kia", tác giả muốn ám chỉ ai đây? Phải chăng bọn thực dân người nước ngoài xa lạ nhào cợt, khinh thường:
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thâm
Xưa kia ta từng là "chúa tể của muôn loài", "oai linh" ta ngự trị cả núi cao rừng sâu. Nay bị nhốt củi, cùng thân phận "làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi" bị coi cá mè một lứa với bầy gấu dở hơi, cặp báo nông nổi! Nhục nhã, uất hận biết bao.
Cùng với "niềm uất hận ngàn thâu" ấy, là thái độ khinh ghét. Và khinh cũng đến cao độ như căm hờn, con hổ này không có gì lưng chừng, nửa vời cà. Nó ghét tất cả những cảnh tượng môi trường xung quanh, từ:
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.
Cho đến:
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém.
Nó khinh ghét tất cả cái môi trường áp đặt giả tạo mà "lũ người kia" đã thiết kế bày đặt ra. Nó nhận ra tất cả chỉ là trò nhái lại, là lối "học đòi" cái môi trường sống đích thực của nó xưa kia, cái "cảnh sơn lâm bóng cả, cây già - với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi" mà nó không thể nào quên được, mà nó mãi mãi nhớ thương. Phải chăng lầm sự con hổ ở đây, một lần nữa lại phản chiếu tâm sự của chàng thanh niên Nguyễn Thế Lữ - người từng có thời hoạt động trong một "hội kín" yêu nước? Cái tâm sự bất bình, phủ định thứ văn minh "Tây Tàu nhố" nhăng" đang thay thế cho những "vẻ hoang vu" của "bóng cả cây già" "những đêm vàng bên bờ suối", "những bình minh cây xanh nắng gội"... một cách hình dung, gợi nhớ đến những giá trị văn hoá cổ truyền của Tổ quốc?
Nhưng có lẽ luồng tâm sự xuyên suốt, điều canh cánh thường xuyên hơn cả trong lòng con hổ là nỗi nhớ - một nỗi nhớ vừa da diết xót xa, vừa mênh mang hoành tráng. Đó là nỗi "nhớ rừng" cao cả, thiêng liêng, đúng như đầu đề bài thư xác định. Ta dễ dàng nhận thấy hai đoạn thơ tả nỗi nhớ này lập trung, đậm đặc nhất - đoạn thứ hai và thứ ba trong bài - là hai đoạn có nhiều cảnh sắc huy hoàng hấp dẫn nhất, có nhạc điệu lôi cuốn say mê nhất. Nhớ làm sao bóng dáng xưa kia của ta "bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng" giữa "sơn lâm bóng cả, cây già - với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi", đẹp đẽ, uy nghi, hùng tráng biết bao! Nhớ làm sao.
... những đệm vùng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
... những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?
... những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng?
Những kỉ niệm mới lộng lẫy, hùng vĩ, nên thơ nên nhạc biết bao!
Có thể nói Thế Lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. Và cũng không riêng gì một thế hệ. Ai là người Việt Nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? Ai đã từng đọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền "văn hiến" đã lâu "của đất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạp thời thực dân? Người Việt Nam chưa mất gốc nào mà chẳng ủ ấp hi vọng được "thênh thang (...) vùng vẫy", được "ngự trị" trên "nước non hùng vĩ" của mình, tương tự chú hổ vườn thú kia vẫn không nguôi "giấc mộng vàng to lớn" của nó.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 3
Nhân vật con hổ trong vườn thú được khắc họa như một biểu tượng của sự dữ dội, lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng. Bài thơ Nhớ rừng đã hòa vào dòng chảy thi ca, mang đến những tác phẩm để đời. Tuy nhiên, không thể đặt con hổ trong bài thơ này ngang hàng với những nhân vật vĩ đại như Prômêtê bị xiềng, Hamlet hay Người tù xứ Capcadơ. Nhớ rừng chỉ là tiếng lòng đau đớn của một kẻ đã đánh mất niềm tin vào tự do và ước mơ chiến thắng. Con hổ trong bài thơ chỉ biết nằm dài trong cũi sắt, nhìn ngày tháng trôi qua và nhớ về những ngày oanh liệt đã qua.
Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.
Có thể nói rằng, hình tượng con hổ nằm dài trong Nhớ rừng đã tạo nên tư thế của những con người đã ngừng nghĩ đến hành động, những con người mà nhiệt huyết cách mạng và khát vọng đổi thay đã không còn.
Dù bị mất tự do, con hổ - hình tượng trung tâm của bài thơ - vẫn giữ vững niềm kiêu hãnh. Trong đau khổ, trong cảnh tù đày, nó vẫn biết phân biệt mình với những kẻ đã hoàn toàn trở nên tầm thường. Vấn đề không phải là xem xét 'tác phong quần chúng' của con hổ hay phê bình nó không có sự ưu ái với những con vật khác. Ở đây, giống như chim trong lồng, Prômêtê bị xiềng và Hamlet, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống là cách thức nghệ thuật để làm nổi bật sự cao cả và tô đậm cảm hứng bi kịch của một tâm hồn đau khổ nhưng không chịu khuất phục.
Thế Lữ, ít nhất một lần trong đời thơ, đã cố gắng xây dựng hình tượng thơ như vậy. Con hổ trong Nhớ rừng biết mình thất bại nhưng không chịu làm nô lệ cho sự tầm thường và giả dối của cảnh tù đày. Nó bất lực nhưng không hoàn toàn khuất phục. Nó vẫn ghét những cảnh tượng không bao giờ thay đổi và vẫn ước ao sự đổi thay. Bị giam cầm trong lồng sắt chật hẹp, nó vẫn khao khát vươn tới những chân trời rộng lớn với giấc mộng to lớn và niềm uất hận ngàn đời. Bài thơ, xét đến cùng, vẫn thể hiện tinh thần từ chối thực tại, dù chỉ là trong mộng tưởng.
Sự xung đột, chống đối quyết liệt và không thể dung hòa giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật và nội tâm, giữa thấp hèn và cao thượng chính là nền tảng để xây dựng nên bài thơ. Cảm giác như nghe được từ Nhớ rừng một bản giao hưởng bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai chủ đề tương phản. Chủ đề chính, 'nhớ rừng', bỗng vút lên sau những nốt nhạc chậm chạp và buồn nản ở chương đầu, rồi vang lên dào dạt, dâng lên đến cao trào với tất cả niềm phấn khích của tâm hồn, để rồi đột ngột tắt lịm trong uất nghẹn. Cuối cùng, chủ đề chính quay trở lại, không còn hùng tráng như trước, mà đầy thiết tha và nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một kẻ biết mình sắp phải kết thúc cuộc vượt ngục trong tâm tưởng. Bằng cách liên tục chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ, nhà thơ đã tìm được cách hiệu quả để diễn tả mọi cung bậc cảm xúc của một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 4
"Nhớ rừng" là một kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào "Thơ mới". Với nhạc điệu du dương, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và hình tượng con hổ đầy ám ảnh, bài thơ đã chinh phục trái tim độc giả và chiếm lĩnh sâu thẳm tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.
Con hổ trong bài thơ được miêu tả với sự đồng cảm và ngưỡng mộ sâu sắc. Nó bị giam cầm trong cũi sắt tại vườn Bách thú, mang trong lòng nỗi căm hờn và uất hận tột cùng. Chúa sơn lâm, trong cảnh tù đày, chỉ biết "gậm một khối căm hờn", muốn nghiền nát mọi đau khổ và phẫn uất đã tích tụ thành "một khối" trong lòng. Không thể không căm hờn khi phải "nằm dài trông ngày tháng dần qua" trong cũi sắt chật hẹp. Không thể không uất ức khi kẻ từng là "oai linh rừng thẳm" giờ đây bị lũ người "giương mắt bé giễu", trở thành "thứ đồ chơi" bên cạnh những con báo "vô tư lự". Thế Lữ đã khắc họa tâm trạng đau đớn và phẫn nộ của con hổ mất tự do một cách đầy ám ảnh:
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
(...)
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm..."
Qua đó, ta càng thấm thía câu nói: "Anh hùng thất thế sa cơ cũng hèn" (Truyện Kiều), và càng hiểu sâu sắc hơn: "Trên đời nghìn vạn điều cay đắng - cay đắng chi bằng mất tự do" (Nhật kí trong tù).
Thời gian trôi qua, nhưng nỗi nhớ rừng của chúa sơn lâm chẳng bao giờ nguôi ngoai. Nó nhớ về "thuở tung hoành hống hách những ngày xưa", nhớ về vương quốc "miền đất thiêng" nơi nó từng ngự trị:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi"...
Nó nhớ về tư thế oai hùng, cao sang của mình. Mỗi bước chân, mỗi tấm thân lượn sóng, mỗi cái vờn bóng... Tất cả đều toát lên vẻ "dõng dạc, đường hoàng". Chữ "ta" vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện quyền uy của chúa sơn lâm:
"Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc".
Quyền uy của "ta" là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải "im hơi" khi "mắt thần" của ta "đã quắc". "Ta biết" mình là chúa tể của muôn loài, giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi:
"Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi".
Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ về quyền uy của chúa sơn lâm chính là nỗi nhớ về những năm tháng không thể nào quên. Đó cũng là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng trong tâm hồn con hổ.
Con hổ nhớ rừng là nhớ về những kỷ niệm chói lọi của một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật hùng vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu của thơ cũng là nhạc điệu của rừng:
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
........
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"
Các luyến láy, điệp ngữ: "đâu những đêm vàng...", "đâu những ngày mưa...", "đâu những bình minh...", "đâu những chiều...", "nay còn đâu" xuất hiện liên tiếp trong năm câu hỏi tu từ, tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ và tình thương của chúa sơn lâm sa cơ. Nỗi nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành quá khứ, hiện lên qua từng câu chữ. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng. Nhớ cảnh giang san trong màn mưa rừng. Nhớ "cây xanh nắng gội". Nhớ tiếng chim hót rộn rã lúc bình minh. Nhớ mặt trời chói chang trong khoảnh khắc hoàng hôn... Nỗi nhớ tiếc ấy không chỉ là nỗi đau buồn vì bị tước đoạt tự do, mà còn là khát khao cháy bỏng được trở về với tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dạt dào cảm xúc để diễn tả nỗi nhớ rừng của hùm thiêng sa cơ... Một tiếng than như xiết chặt lòng người, khơi gợi và lay động:
"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"
Bị sa cơ, bị giam cầm trong cũi sắt, phải xa rừng nên nỗi nhớ rừng càng da diết. Đau đớn và uất hận không biết bao giờ mới nguôi ngoai? Như một tiếng thở dài đầy ngao ngán:
"Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu".
Hổ "nhớ cánh sơn lâm, bóng cả, cây già" rồi "uất hận" căm ghét những cảnh "không đời nào thay đổi", tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa, "tầm thường giả dối", nhỏ bé:
"Hoa chăm, cỏ xén, cây trồng; Dài nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém".
Uất hận vì cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do "lũ người kia ngạo mạn" tạo ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi "cảnh nước non hùng vĩ". Nhớ rừng là nhớ về vương quốc tự do ngày nào:
"Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa".
Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo "giấc mộng ngàn". Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nỗi nhớ thương bồi hồi, da diết:
"Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"
"Nhớ rừng" là một trong mười bài thơ hay nhất của phong trào "Thơ mới" (1932-1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc "nhớ rừng" dạt dào. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.
Trong bối cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận... của con hổ nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xiềng xích nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ mang hàm nghĩa như một lời nhắn gửi kín đáo, tha thiết về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là giá trị của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 5
Nhà thơ Thế Lữ, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới buổi đầu, được biết đến với hồn thơ dồi dào và đậm chất lãng mạn. Bài thơ "Nhớ rừng" của ông không chỉ thể hiện tình yêu nước sâu sắc mà còn gửi gắm qua hình tượng con hổ một thông điệp về sự chán ghét thực tại tầm thường và tình yêu dân tộc thầm kín. Hình ảnh con hổ trong bài thơ là một sáng tạo đặc biệt, qua đó tác giả đã truyền tải những tâm sự sâu kín, mang đậm tính nhân văn.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh con hổ hiện lên trong sự kìm kẹp, tù hãm. Từng là chúa tể muôn loài, giờ đây nó bị giam cầm trong cũi sắt lạnh lẽo, mang trong mình nỗi căm hờn không nguôi:
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua"
"Cũi sắt" tượng trưng cho sự giam cầm, một không gian chật hẹp, bức bối, khiến con hổ cảm thấy "nhục nhằn". Những ngày tháng trôi qua trong cảnh tù đày, chúa sơn lâm từng uy nghiêm giờ đây phải sống trong sự tù túng, "sa cơ" lỡ vận. Con hổ, vốn quen với việc vùng vẫy trong rừng thiêng rộng lớn, giờ đây cảm thấy mình trở nên tầm thường khi bị biến thành trò tiêu khiển cho những kẻ "giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm".
Dù bị giam cầm, con hổ vẫn không ngừng hướng về quá khứ oai hùng, đầy uy nghiêm. Đại từ nhân xưng "ta" được sử dụng để thể hiện bản lĩnh và sự uy nghiêm của chúa sơn lâm một thời. Con hổ nhớ về thời kỳ vàng son, khi nó "tung hoành hống hách" giữa "bóng cả, cây già". Sự uy nghiêm ấy được thể hiện qua tiếng gầm thét vang dội núi rừng, qua những bước đi lẫm liệt, đường hoàng khiến muôn loài phải khiếp sợ. Quá khứ hiện lên trong nỗi nhớ của con hổ vừa là niềm tự hào, vừa là nỗi đau đớn vì những ngày tháng oanh liệt đã qua.
Nỗi nhớ về quá khứ vàng son luôn thường trực trong tâm trí con hổ. Nó nhớ về những đêm trăng, khi "say mồi đứng uống ánh trăng tan", một khung cảnh lãng mạn và đầy chất thơ. Nó nhớ những ngày mưa rừng rả rích, cây cối bừng tỉnh sau cơn mưa, và cả những buổi hoàng hôn khi mặt trời dần tắt, báo hiệu một cuộc săn mồi đầy bí ẩn. Tất cả những ký ức ấy giờ chỉ còn là "thời oanh liệt", bởi hiện thực quá đối lập với quá khứ. Giờ đây, con hổ phải sống trong một không gian giả tạo, tầm thường:
"Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối..."
Sự chán ghét thực tại của con hổ được thể hiện rõ ràng. Dưới con mắt của chúa sơn lâm, cảnh suối, nước, hoa, cây được tạo ra để giống với rừng thiêng đều mang sự giả dối, nhàm chán. Con hổ vẫn luôn đau đáu nhớ về thời kỳ oai nghiêm của mình, về cảnh rừng thiêng "của ta", như một sự khẳng định vị thế và bản lĩnh của một chúa sơn lâm, dù đã sa cơ lỡ vận.
Qua hình tượng con hổ, nhà thơ Thế Lữ gửi gắm nỗi chán ghét thực tại tầm thường, đơn điệu, đồng thời thể hiện niềm khao khát tự do mãnh liệt. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của con hổ mà còn là thông điệp về tình yêu nước thầm kín nhưng sâu sắc của tác giả.
Hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 6
Nhớ rừng của Thế Lữ, xuất bản năm 1934, ra đời trong bối cảnh đất nước chìm đắm trong nỗi nhục nô lệ. Nỗi đau mất nước kéo dài đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ, thể hiện qua nỗi nhớ tiếc và căm hờn. Thế Lữ, thấu hiểu sâu sắc nỗi niềm dân tộc, đã mượn hình ảnh con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú để bày tỏ tâm sự u uất, căm phẫn và khát vọng tự do cháy bỏng của những kiếp người nô lệ.
Bài thơ được chia thành năm đoạn, trong đó đoạn một và bốn, đoạn hai và ba tạo thành những cặp ý tương phản: cảnh tù túng trong vườn bách thú đối lập với khung cảnh hùng vĩ của núi rừng, nơi con hổ từng ngự trị và tung hoành trong quá khứ.
Mở đầu bài thơ là tiếng lòng đầy căm hờn nhưng bất lực của con hổ. Sự căm phẫn này là kết quả của những ngày dài bị giam cầm trong chật chội và ngột ngạt. Con hổ cảm thấy bứt rứt, khó chịu và u uất vô cùng. Khổ thơ thể hiện sự chán ghét thực tại, chán ghét "lũ người ngạo mạn, ngẩn ngơ" dám "giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm". Cảnh tù đày "nhàn hạ" như một trò đùa đã trở thành nỗi nhục nhã đối với chúa tể rừng xanh. Khổ bốn tiếp tục khắc họa "niềm uất hận" khi chúa sơn lâm hàng ngày phải chứng kiến những thay đổi tầm thường và giả tạo. Đó là "những cảnh sửa sang" giả vờ "bí hiểm" nhưng thực chất chỉ là sự bắt chước vụng về của thiên nhiên hoang dã.
Trái ngược với cảnh tù túng trong vườn bách thú là khung cảnh hùng vĩ và âm u của rừng già được miêu tả trong khổ hai và ba. Nơi đây, hổ hiên ngang, đường hoàng trong vai trò chúa tể sơn lâm. Đó là vùng đất hoang sơ với thảo hoa dày đặc đến mức không ai có thể nhớ hết tên và tuổi. Chốn thiên đường của chúa tể muôn loài chứa đầy kỷ niệm và chiến tích oai hùng từ thuở tự do. Nhưng đau đớn thay, những chiến tích ấy giờ chỉ còn là dĩ vãng. Chính vì vậy, khát vọng tự do của chúa sơn lâm được thể hiện mãnh liệt trong những dòng thơ cuối, mong muốn được trở về với uy danh thực sự và cuộc sống tự do nơi rừng già.
Bài thơ là bức tranh tâm trạng đầy bi kịch của chúa tể rừng xanh khi bị sa cơ, thất thế và giam cầm. Đặt trong bối cảnh lịch sử những năm 1930, nỗi tủi nhục, cay đắng và căm hờn của con hổ cũng chính là bi kịch của đồng bào ta trong xiềng xích nô lệ.
Bài thơ là minh chứng cho một hiện thực sáng tác phổ biến trong giới văn nghệ sĩ, đồng thời phản ánh tâm trạng của tầng lớp tiểu tư sản thời bấy giờ. Những trí thức lãng mạn giàu lòng yêu nước, nhưng bị áp bức tàn bạo bởi thực dân, đã tìm cách phản kháng gián tiếp. Nhớ rừng chọn lời con hổ để thể hiện tình yêu nước và tinh thần dân tộc. Bằng cách này, Thế Lữ có thể thoải mái bộc lộ cảm xúc, phơi bày sự giả dối của hiện thực và khát vọng tự do cháy bỏng của nhân dân.
Nhớ rừng có cách thể hiện cảm xúc tương đồng với Thề non nước và Muốn làm thằng Cuội. Nội dung tư tưởng của bài thơ được truyền tải một cách gián tiếp nhưng sắc sảo. Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng, nỗi đau sa cơ, thất thế cũng chính là bi kịch của dân tộc, là tình yêu quê hương tha thiết và khát vọng tự do mãnh liệt.
- Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về lòng biết ơn (Sơ đồ tư duy) - 4 Dàn ý và 29 bài văn nghị luận xuất sắc, giúp học sinh nắm vững giá trị của lòng biết ơn trong cuộc sống và ứng dụng vào thực tiễn.
- Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh với sơ đồ tư duy chi tiết và 19 bài văn mẫu xuất sắc nhấtGiới thiệu về bài thơ 'Ngắm trăng': Bài thơ 'Ngắm trăng' của Hồ Chí Minh là một tác phẩm nổi bật trong kho tàng văn học Việt Nam, được viết trong hoàn cảnh đặc biệt. Bài thơ thể hiện những cảm xúc sâu sắc của tác giả về quê hương, đất nước, và khát vọng tự do. Đây là một tác phẩm tiêu biểu, với những giá trị nghệ thuật và tư tưởng vô cùng phong phú.Phân tích nghệ thuật trong bài thơ: 'Ngắm trăng' nổi bật với hình ảnh thiên nhiên và sự kết hợp giữa thực và ảo, phản ánh tâm trạng của tác giả. Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh vầng trăng để gửi gắm những suy tư sâu sắc về cuộc đời, với một sự đối thoại độc đáo giữa bản thân và vầng trăng. Những câu thơ mượt mà và giàu tính biểu tượng khiến bài thơ trở thành một tác phẩm đặc sắc trong nền văn học Việt Nam.Ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ không chỉ là lời tự sự về tâm trạng của tác giả, mà còn chứa đựng thông điệp về lòng yêu nước, sự kiên trì và khát vọng tự do. Vầng trăng trong bài thơ là biểu tượng cho khát vọng tự do và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Những hình ảnh này thể hiện một cách trực quan sự kết nối giữa tác giả và đất nước trong cuộc sống đầy gian khó.Kết luận: Phân tích bài thơ 'Ngắm trăng' không chỉ giúp học sinh hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật mà còn làm phong phú thêm những hiểu biết về tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh. Với sơ đồ tư duy đi kèm, bài phân tích sẽ giúp học sinh nắm bắt dễ dàng các ý chính của tác phẩm và phát triển kỹ năng phân tích văn học một cách hệ thống.
- Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long: 5 dàn ý chi tiết & 17 bài văn mẫu xuất sắc kèm sơ đồ tư duy
- Viết bài văn nghị luận trình bày ý kiến phản đối về vấn đề đời sống - Dàn ý và 11 bài mẫu lớp 7
- Kể lại hành trình khám phá di tích lịch sử văn hóa: Dàn ý chi tiết và 14 bài văn mẫu lớp 8 đặc sắc