Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận sâu sắc khổ cuối bài thơ Nhớ rừng - Dàn ý chi tiết & 3 bài văn mẫu phân tích khổ 5 Nhớ rừng của Thế Lữ
Khám phá sâu sắc khổ cuối bài thơ Nhớ rừng qua 3 bài văn mẫu và dàn ý chi tiết. Qua đó, học sinh lớp 9 sẽ thấu hiểu nỗi bất bình và khát vọng tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại ngột ngạt, tù túng.

Qua bài thơ Nhớ rừng, Thế Lữ đã khéo léo mượn lời con hổ để bày tỏ tâm trạng của người dân Việt Nam trong thời kỳ đen tối. Với khát vọng tự do cháy bỏng, bài viết này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về thông điệp sâu xa của tác phẩm.
Đề bài: Trình bày cảm nhận về khổ thơ cuối trong bài thơ Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ .
Dàn ý Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Nhớ rừng
1. Mở bài
- Giới thiệu Thế Lữ và Nhớ rừng.
- Giới thiệu khổ thơ cuối bài.
2. Thân bài
a. Tâm trạng của con hổ:
- "Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ/Là giống hầm thiêng ta ngự trị":
- Khao khát tự do mãnh liệt đang dần sục sôi trong lòng con hổ, một lòng chỉ muốn hướng về nơi đại ngàn mênh mông với giọng gọi đầy tha thiết, bi tráng.
- Từ "hỡi" được đặt ở đầu câu thơ gợi ra cảm giác oai hùng của chúa sơn lâm, bộc lộ tư thế hiên ngang, phong thái cai trị lừng lẫy của một vị vua.
- "Là chốn hầm thiêng ta ngự trị": Khẳng định sự quyền làm chủ của bản thân con hổ với núi rừng, lời khẳng định ngầm sự làm chủ đất nước của dân tộc Việt Nam, dẫu rằng hiện tại cả con hổ và cả nhân dân ta đều phải vướng vào những cái gông xiềng nặng nề, khó mà thay đổi.
- "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa/Nơi ta không còn được thấy bao giờ!":
- Con hổ phải quay về với một thực tại đớn đau, liên tục cuộn xoáy, âm ỉ trong trong lòng.
- Điệp từ "Nơi" làm tăng thêm xúc cảm cũng như nỗi xót xa của nhân vật trữ tình, sự lưu luyến với những hồi ức tốt đẹp, sự tiếc thương đầy bất lực.
- Giọng thơ chuyển đổi từ một tiếng thét bi tráng cho đến đây thì dần trầm xuống, mang cảm giác đau thương và bất lực.
- "Có biết chăng trong những ngày ta ngao ngán/Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn":
- Khao khát, nhớ thương sự tự do không chỉ cả khi còn thức mà đến cả trong giấc mơ nó vẫn mang theo "giấc mộng ngàn to lớn", chưa từng một lần rời bỏ.
- Con hổ chưa từng khuất phục trước số phận, luôn tràn đầy khao khát tự do mãnh liệt, niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng, quyết theo đuổi những mộng cảnh riêng mình, chứ không chịu khuất phục, chìm đắm trong cảnh tầm thường, giả dối.
=> Giải pháp của con hổ để thoát khỏi cảnh chán chường thực tại, lựa chọn chìm trong những giấc mộng đại ngàn để giữ lại phần oai nghiêm, tốt đẹp, thoát khỏi những nỗi đớn đau, bế tắc và bất lực trước thực tại.
b. Ý nghĩa, nội dung tư tưởng:
- Tâm trạng của con hổ chính là một hình tượng tiêu biểu cho hồn thơ của Thế Lữ, những trí thức tiểu tư sản cùng thời đều phải chịu chung một thực tại ấy là nỗi đớn đau mất nước, mất chủ quyền tộc, bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn trước khi được giác ngộ cách mạng.
=> Thỏa mình trong thơ ca, khát khao vươn tới những cái Đẹp xa xăm, nhiều mộng tưởng, thoát ly khỏi cuộc sống trần tục, có nhiều khốn khổ và chán chường.
- Khốn cảnh chung của dân tộc Việt Nam được phản ánh qua thực tại tầm thường, giả dối với những luận điệu "khai sáng", "bảo hộ" đầy xảo trá của thực dân Pháp. Nhân dân ta, như con hổ bị giam cầm, bị kiềm chế mọi mặt, phải chịu nhục nhã, khốn đốn và bế tắc, nhưng vẫn luôn khát khao mãnh liệt về một cuộc sống tự do. Họ mãi nhớ tiếc, khắc khoải về quá khứ thanh bình, tươi đẹp của đất nước.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Nhà thơ đã khắc họa thành công nỗi bất bình sâu sắc và khát vọng tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại ngột ngạt, tù túng. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đạt đến độ tinh tế, thần diệu. Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn núi non hùng vĩ, nơi giống hầm thiêng từng ngự trị. Bất mãn với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xiềng xích, vị chúa tể rừng xanh đành an ủi mình bằng những giấc mộng đại ngàn. Một nỗi buồn thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ oanh liệt giờ chỉ còn trong giấc mộng! Từ sâu thẳm, vị chúa tể rừng xanh cất lên tiếng than ai oán: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam trong cảnh nô lệ, nhục nhằn. Họ cũng ôm một nỗi căm hờn và nhớ tiếc khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống ngoại xâm vẻ vang. Chính vì chạm đến nỗi lòng sâu thẳm của con người, bài thơ ngay khi ra đời đã được đón nhận nồng nhiệt.
Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt trong cũi sắt để diễn tả tâm trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học, vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, vừa bất mãn với thực tại bất công, ngột ngạt. Họ khao khát phá bỏ xiềng xích để khẳng định và phát triển tự do cá nhân. Nhiều độc giả cảm thấy tác giả đã nói hộ nỗi đau của họ. Ở góc độ nào đó, đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối mạch thơ trữ tình yêu nước đầu thế kỷ XX.
Thế Lữ đã chọn hình ảnh độc đáo, phù hợp để thể hiện chủ đề bài thơ. Con hổ oai hùng, từng là chúa tể rừng xanh, nay bị giam cầm, tượng trưng cho người anh hùng chiến bại. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh giàu ý nghĩa, Thế Lữ dễ dàng gửi gắm tâm sự về thời cuộc. Ngôn ngữ thơ điêu luyện, nhạc điệu du dương, lúc hào hùng, lúc bi thiết, thể hiện xuất sắc nội dung tư tưởng.
Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, thi hứng tuôn trào dưới ngòi bút tài hoa. Đây là đặc điểm tiêu biểu của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố tạo nên sức hút mạnh mẽ của tác phẩm. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng độc giả. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ ngay đến Nhớ rừng. Là thi sĩ, chỉ cần điều đó cũng đủ để mãn nguyện và hạnh phúc.
Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 2
Thế Lữ (1907-1989) là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà phê bình và nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Ông bắt đầu được biết đến từ những năm 1930 với việc sáng tạo ra thơ Mới, mở đường cho một phong cách thơ chịu ảnh hưởng từ văn học Pháp. Dù không nổi bật như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử hay Nguyễn Bính, tác phẩm của Thế Lữ vẫn mang nhiều nét độc đáo, thể hiện tinh thần đổi mới và cách tân thơ ca Việt Nam. Thơ ông trong giai đoạn trước cách mạng phản ánh tâm hồn muốn thoát ly khỏi xã hội rối ren, loạn lạc, hướng đến những vẻ đẹp xa xăm và mộng ảo. Phong cách này được thể hiện rõ nét trong bài thơ Nhớ rừng, mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để diễn tả tâm trạng của chính tác giả. Khổ thơ cuối là điểm nhấn, thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt và tấm lòng yêu nước sâu sắc.
Hình tượng con hổ trong bài thơ là một sáng tạo độc đáo, thể hiện phong cách thơ hướng đến cái Đẹp xa xăm, hùng vĩ. Con hổ bị giam cầm tượng trưng cho tâm hồn của tác giả, một người có tráng chí cao đẹp nhưng bị kìm hãm trong thực tại ngột ngạt. Vườn bách thú là hình ảnh ẩn dụ cho đất nước dưới ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai. Sau những khổ thơ bộc lộ sự chán ghét thực tại và nỗi nhớ nhung chốn núi rừng tự do, khổ thơ cuối là lời kết, thể hiện tâm trạng đau đớn và bất lực của tác giả.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Những dòng thơ thể hiện khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ, luôn hướng về chốn đại ngàn hùng vĩ. Tiếng gọi "Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ" vang lên đầy tha thiết và bi tráng. Từ "hỡi" ở đầu câu thơ gợi lên sự oai hùng của chúa sơn lâm, khẳng định quyền làm chủ của nó với núi rừng. Tuy nhiên, thực tại đau đớn khiến con hổ phải quay về với nỗi xót xa: "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa/Nơi ta không còn được thấy bao giờ!". Điệp từ "Nơi" nhấn mạnh sự lưu luyến và tiếc nuối. Giọng thơ từ hào hùng chuyển sang đau thương, bất lực, phản ánh tâm trạng của con hổ khi phải chấp nhận cảnh giam cầm. Dù vậy, con hổ vẫn giữ vững khát vọng tự do, tìm đến những giấc mộng đại ngàn để thoát khỏi thực tại tầm thường. Tâm trạng này cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam dưới ách thống trị thực dân, luôn khao khát tự do và nhớ tiếc quá khứ oanh liệt.
Nhớ rừng là một bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, thể hiện sự bế tắc của đất nước và con người Việt Nam trước cách mạng. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của Thế Lữ mà còn là tiếng nói chung của nhân dân, luôn khao khát tự do và chống lại sự tầm thường, giả dối. Nhớ rừng không chỉ mang tư tưởng thoát ly mà còn thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và nỗi đau đớn trước thời cuộc rối ren.
Cảm nhận về khổ 5 bài thơ Nhớ rừng
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ mượn lời con hổ trong vườn bách thú để bày tỏ tâm sự thầm kín. Nổi bật trong tác phẩm là hai cảnh tượng đối lập: cảnh con hổ bị giam cầm (khổ 1 và 4) và cảnh nó tự do nơi rừng xưa (khổ 2 và 3). Tuy nhiên, nỗi niềm da diết nhất của chúa sơn lâm được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ cuối.
Với giọng thơ đầy xúc động, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng của vị chúa tể rừng xanh bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Từng câu chữ trong đoạn thơ phản ánh nỗi bất bình sâu sắc và khát vọng tự do mãnh liệt của con hổ trước thực tại tù túng. Bút pháp khoa trương của Thế Lữ đạt đến độ tinh tế, khiến con hổ hiện lên như một con người thực thụ. Trong cảnh giam cầm, nó chỉ còn biết gửi hồn về chốn núi rừng hùng vĩ, nơi từng là giang sơn của giống hùm thiêng:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”
Tiếng than gửi đến núi rừng là lời nhắn nhủ cuối cùng, xác nhận một hiện thực phũ phàng: giang sơn của nó sẽ mãi mãi không còn được nhìn thấy. Không gì đau xót hơn khi bắt hổ phải lìa rừng, cá phải lìa sông.
“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”
Dù căm phẫn thực tại, con hổ không thể thoát khỏi xiềng xích. Trong những ngày ngao ngán, vị chúa tể rừng xanh đành buông xuôi, tự an ủi bằng những giấc mộng đại ngàn:
“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”
Nỗi buồn thực tại làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Tâm trạng này cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam, đặc biệt là thanh niên trí thức yêu nước thời bấy giờ. Họ sống trong cảnh nô lệ, ôm nỗi căm hờn mất nước và hoài niệm về thời oanh liệt với những chiến công chống ngoại xâm.
Thế Lữ mượn lời con hổ để diễn tả nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh ý thức cá nhân và niềm bất mãn với thực tại nô lệ bất công. Đọc khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và khát vọng tự do của người dân trong thân phận nô lệ, cũng như mong ước được trở về quá khứ, được sống tự do và là chính mình.
- Văn mẫu lớp 7: Viết đoạn văn tóm tắt tác phẩm nghị luận hoặc truyện ngắn yêu thích - Dàn ý chi tiết và 9 bài mẫu hay nhất
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân - 2 Dàn ý & 26 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về lòng biết ơn (Sơ đồ tư duy) - 4 Dàn ý và 29 bài văn nghị luận xuất sắc, giúp học sinh nắm vững giá trị của lòng biết ơn trong cuộc sống và ứng dụng vào thực tiễn.
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 86 - Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức tập 1
- Đọc: Cậu bé gặt gió - Bài 1, Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 2 - Khám phá hành trình thú vị của cậu bé với gió