Văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ yêu thích - Dàn ý chi tiết và 6 bài văn mẫu đặc sắc
EduTOPS xin trân trọng giới thiệu tài liệu Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích bài thơ yêu thích, một nguồn tham khảo quý giá dành cho học sinh.

Tài liệu này được biên soạn dành riêng cho học sinh lớp 8, giúp các em có thêm nguồn cảm hứng và ý tưởng để hoàn thiện bài viết của mình. Nội dung chi tiết sẽ được trình bày ngay sau đây.
Dàn ý phân tích bài thơ yêu thích của em
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
- Khái quát những điểm nổi bật về chủ đề và nghệ thuật của bài thơ.
2. Thân bài
- Trình bày chủ đề chính của tác phẩm.
- Phân tích những nét đặc sắc về nội dung và thông điệp của bài thơ.
- Phân tích các yếu tố nghệ thuật độc đáo như ngôn từ, hình ảnh, và nhịp điệu.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm.
- Chia sẻ cảm nhận cá nhân về bài thơ và tác động của nó đối với bản thân.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 1
“Cảnh khuya” được Bác Hồ sáng tác trong thời gian ở chiến khu Việt Bắc, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết và lòng yêu nước sâu sắc của Người.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Trong “Côn Sơn ca”, Nguyễn Trãi cũng đã có cách so sánh độc đáo về tiếng suối:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
Trong “Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh so sánh “tiếng suối” với “tiếng hát xa”, khiến âm thanh trở nên sống động và có hồn. Tiếng suối trong trẻo, vang vọng như tiếng hát từ xa vọng lại. Thiên nhiên còn được tô điểm bởi ánh trăng, một hình ảnh quen thuộc trong thơ Bác. Câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” gợi hai cách hiểu: ánh trăng chiếu xuống hoa rừng tạo bóng in trên mặt đất, hoặc ánh trăng xuyên qua tán cây cổ thụ, phản chiếu xuống đất như những bông hoa. Dù hiểu theo cách nào, cảnh vật đều hiện lên thơ mộng, đẹp đẽ.
Giữa bức tranh thiên nhiên ấy, con người xuất hiện với nỗi niềm trăn trở:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Trong thơ cổ, con người thường xuất hiện như một chấm nhỏ giữa thiên nhiên bao la:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)
Trong thơ Bác, con người trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Nhân vật trữ tình trong “Cảnh khuya” hiện lên với trạng thái “chưa ngủ”. Phải chăng vì cảnh đẹp quá đỗi thơ mộng, hay vì nỗi lo âu, trăn trở về vận mệnh đất nước? Câu thơ cuối đã giải đáp: “vì lo nỗi nước nhà”. Bác luôn một lòng lo cho dân, cho nước. Cụm từ “chưa ngủ” được điệp lại hai lần, nhấn mạnh nỗi trăn trở của Người. Hình ảnh Bác hiện lên cao đẹp, một vị lãnh tụ vĩ đại, luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
“Cảnh khuya” không chỉ miêu tả cảnh đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Người.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 2
Nguyễn Đình Thi, một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có bài thơ “Lá đỏ”.
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Cuộc gặp gỡ giữa nhân vật trữ tình và “em” diễn ra giữa khung cảnh rừng Trường Sơn hùng vĩ, với hình ảnh “lộng gió”, “rừng lạ ào ào lá đỏ”, và “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Những hình ảnh này vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa lãng mạn, vừa dữ dội, mang đậm dấu ấn của chiến tranh và sự kiên cường.
Bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh con đường Trường Sơn trong mùa ra trận. Nổi bật là hình ảnh cô thanh niên xung phong đứng bên đường, biểu tượng của lòng yêu nước và sự hy sinh thầm lặng.
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường”
Cách gọi “em gái tiền phương” vừa gần gũi, vừa trân trọng. Hình ảnh cô gái hiện lên với vẻ đẹp giản dị, thân thương nhưng cũng đầy dũng cảm và kiên cường. So sánh “em” với “quê hương”, tác giả đã biến cô gái thành biểu tượng của đất nước, của khát vọng tự do và hòa bình.
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.”
Hình ảnh đoàn quân hành quân vội vã trong khung cảnh “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa” gợi lên không khí khẩn trương, hào hùng. Từ láy “vội vã” nhấn mạnh tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ, bất chấp gian khổ, hiểm nguy. Đoàn quân ấy chính là hiện thân của ý chí và khát vọng độc lập, tự do của cả dân tộc.
Hai câu thơ cuối là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước thống nhất.
“Chào em em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn…”
Lời chào tưởng chừng đơn giản nhưng ẩn chứa một lời hứa sâu sắc: ngày gặp lại sẽ là ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Sài Gòn, nơi hẹn gặp, sẽ là điểm đến của chiến thắng, của tự do và hòa bình.
Bài thơ “Lá đỏ” không chỉ ca ngợi tình yêu đất nước mà còn tôn vinh những con người anh hùng, những đóng góp thầm lặng đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 3
Nguyễn Khuyến, một nhà thơ lớn của dân tộc, đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có bài thơ “Bạn đến chơi nhà”. Bài thơ ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết và sâu sắc.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”
Hai câu thơ mở đầu giới thiệu tình huống người bạn đến chơi nhà. Cụm từ “đã bấy lâu nay” gợi lên khoảng thời gian dài không gặp, khiến nhân vật trữ tình vô cùng vui mừng và mong muốn tiếp đãi bạn thật chu đáo. Cách xưng hô “bác” thể hiện sự thân mật, gần gũi. Tuy nhiên, hoàn cảnh lại không cho phép: trẻ đi vắng, không ai sai bảo, và chợ thì quá xa.
Nhưng hoàn cảnh càng trở nên éo le hơn khi nhà thơ liệt kê một loạt hình ảnh:
“Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có”
Trong căn nhà của nhân vật trữ tình, mọi thứ đều chưa thể dùng để tiếp khách: “ao sâu - khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ”, “bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Ngay cả “miếng trầu” – thứ được coi là “đầu câu chuyện” – cũng không có. Tuy nhiên, sự thiếu thốn ấy không làm giảm đi tình cảm giữa hai người bạn tri kỉ:
“Bác đến chơi đây ta với ta”
Câu thơ cuối là lời khẳng định về tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Cụm từ “ta với ta” cũng xuất hiện trong thơ Bà Huyện Thanh Quan:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, “ta với ta” chỉ sự cô đơn, lẻ loi của tác giả trước cảnh đèo Ngang hoang vắng. Nó làm tăng thêm nỗi buồn và sự cô độc trước dòng thời gian vô tận.
Trong thơ Nguyễn Khuyến, “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác. Đại từ “ta” thứ nhất chỉ nhân vật trữ tình, còn “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” thể hiện mối quan hệ gắn bó, song hành. “Ta với ta” nghĩa là tôi và bác, chúng ta cùng nhau. Dù cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn, nhưng có bạn bên cạnh lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ ấy thật đáng ngưỡng mộ và cảm phục.
Với hình ảnh giản dị, giọng thơ dí dỏm, bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến đã truyền tải một thông điệp sâu sắc về giá trị của tình bạn chân thành.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 4
Trương Nam Hương là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm ý nghĩa. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông là “Trong lời mẹ hát”, một tác phẩm đầy cảm xúc và sâu lắng.
Mở đầu bài thơ, tác giả gợi nhắc về tuổi thơ của nhân vật trữ tình – người con, với những ký ức đẹp đẽ và ấm áp:
“Tuổi thơ chở đầy cổ tích
Dòng sông lời mẹ ngọt ngào
Đưa con đi cùng đất nước
Chòng chành nhịp võng ca dao”
Khổ thơ gợi lên hình ảnh người mẹ đang đưa nôi, ru con bằng những lời hát ngọt ngào. Nhịp võng chòng chành cùng lời ru của mẹ đã đưa con vào giấc ngủ say nồng, mang theo những câu chuyện cổ tích và ca dao quen thuộc.
Tiếp theo, tác giả khắc họa những hình ảnh quen thuộc trong lời ru của mẹ, gắn liền với quê hương và tuổi thơ:
“Con gặp trong lời mẹ hát
Cánh cò trắng, dải đồng xanh
Con yêu màu vàng hoa mướp
“Con gà cục tác lá chanh”.
Đó là cánh đồng xanh mướt, cánh cò trắng bay lượn, màu vàng rực rỡ của hoa mướp, tiếng gà cục tác, và cả hương thơm của lá chanh. Những hình ảnh ấy đều gắn liền với quê hương, nơi chứa đựng biết bao kỷ niệm tuổi thơ.
Nhắc đến lời ru, người con nhớ về hình ảnh mẹ với cuộc đời lam lũ, vất vả:
“Con nghe thập thình tiếng cối
Mẹ ngồi giã gạo ru con
Lạy trời đùng giông đừng bão
Cho nồi cơm mẹ đầy hơn…
Con nghe dập dờn sóng lúa
Lời ru hóa hạt gạo rồi
Thương mẹ một đời khốn khó
Vẫn giàu những tiếng ru nôi.
Áo mẹ bạc phơ bạc phếch
Vải nâu bục mối chỉ sờn
Thương mẹ một đời cay đắng
Sao lời mẹ vẫn thảo thơm.”
Cả cuộc đời mẹ vì con, vất vả và lam lũ. Hình ảnh “áo mẹ bạc phơ bạc phếch” cho thấy sự khó nhọc, đắng cay mà mẹ phải trải qua. Nhưng dù vậy, lời ru của mẹ vẫn ngọt ngào, dịu dàng, khiến người con càng thêm yêu thương và kính trọng mẹ.
“Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến xôn xao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao”
Thời gian trôi qua, mái tóc mẹ dần bạc trắng, lưng mẹ còng xuống vì nhọc nhằn. Nhưng chính sự hy sinh thầm lặng ấy đã giúp con lớn lên, trưởng thành. Hình ảnh mẹ hiện lên thật đẹp đẽ và thiêng liêng, là biểu tượng của tình yêu thương vô bờ bến.
“Mẹ ơi trong lời mẹ hát
Có cả cuộc đời hiện ra
Lời ru chắp con đôi cánh
Lớn rồi con sẽ bay xa…”
Người con đã bày tỏ tình cảm chân thành dành cho mẹ. Lời ru của mẹ không chỉ là lời hát mà còn là sức mạnh, là đôi cánh nâng đỡ con bay xa. Dù con có đi đến đâu, mẹ vẫn luôn dõi theo, động viên và chờ đợi con trở về trong vòng tay ấm áp của mẹ.
Bài thơ “Trong lời mẹ hát” đã gửi gắm tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý. Trương Nam Hương đã góp thêm một tác phẩm ý nghĩa, ngợi ca tình yêu thương vô bờ của người mẹ.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 5
Vũ Đình Liên, một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, đã để lại nhiều tác phẩm ý nghĩa. Bài thơ “Ông đồ” là một trong những sáng tác đặc sắc, mang đậm dấu ấn của ông.
Hình ảnh ông đồ vốn quen thuộc trong xã hội xưa, là biểu tượng của học thức và tài năng. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ lại xuất hiện với mực tàu, giấy đỏ, viết câu đối cho người qua đường:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Ông đồ không chỉ viết chữ mà còn như một nghệ sĩ biểu diễn thư pháp, khiến người xem trầm trồ khen ngợi. Đó là thời kỳ vàng son, khi ông đồ được trân trọng và ngưỡng mộ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Cụm từ “hoa tay” thể hiện tài năng thiên bẩm. Hình ảnh so sánh “như phượng múa rồng bay” cho thấy sự ngưỡng mộ của tác giả dành cho ông đồ. Nhưng thời gian trôi qua, xã hội đổi thay, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng chẳng còn ai để ý:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay."
Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” phản ánh sự lãng quên dần theo thời gian. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” bộc lộ nỗi buồn và nuối tiếc. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi cô đơn của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Cảnh vật cũng như nhuốm màu u buồn, thê lương.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"
Mùa xuân lại về, nhưng ông đồ xưa đã biến mất. Câu hỏi tu từ như một lời than trách cho số phận của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong những tác phẩm mà em yêu thích nhất của Vũ Đình Liên.
Với thể thơ ngũ ngôn giản dị mà sâu sắc, giọng thơ đầy cảm xúc cùng những biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ đã khắc họa hình ảnh đáng thương của ông đồ, qua đó thể hiện niềm thương cảm chân thành trước một lớp người đang dần bị lãng quên và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ người xưa của nhà thơ.
Phân tích bài thơ yêu thích - Mẫu 6
Bà Huyện Thanh Quan, một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam trung đại, đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong đó, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một kiệt tác, thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.
Mở đầu bài thơ, tác giả khắc họa bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Thời điểm Bà Huyện Thanh Quan đến đèo Ngang là lúc “bóng xế tà” – kết thúc một ngày, khi con người trở về nhà nghỉ ngơi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên hùng vĩ, tràn đầy sức sống. Điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi lên sự sinh sôi, nảy nở. Chỉ vài nét phác họa, khung cảnh đèo Ngang hiện lên chân thực và sống động.
Trong bức tranh thiên nhiên ấy, con người xuất hiện với vẻ nhỏ bé, cô đơn. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú”, “lác đác - chợ mấy nhà” nhấn mạnh sự thưa thớt, lẻ loi của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Qua đó, nỗi cô đơn của tác giả càng được bộc lộ rõ nét.
“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”
Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là loài chim đỗ quyên và đa đa. Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” da diết còn thể hiện nỗi lòng nhớ thương quê hương, đất nước của tác giả.
Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng giữa đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn. Sự cô đơn của tác giả được thể hiện qua “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư không có ai chia sẻ:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
Thiên nhiên rộng lớn, nhưng tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Cụm từ “ta với ta” trong bài thơ này khác biệt so với “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Nếu Nguyễn Khuyến dùng để diễn tả tình bạn tri kỷ, thì ở đây, “ta với ta” lại thể hiện nỗi cô đơn tột cùng của tác giả.
“Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà còn gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện tài năng và tâm hồn sâu sắc của bà.
- Soạn bài Thực hành đọc: Sọ Dừa - Kết nối tri thức 6 Ngữ văn lớp 6 trang 48 sách Kết nối tri thức tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Tuyển tập 28 mẫu kết bài đặc sắc cho bài thơ Qua Đèo Ngang, giúp học sinh nắm vững và phân tích tác phẩm một cách sâu sắc và hiệu quả.
- Mẫu phiếu góp ý SGK lớp 7 bộ Chân trời sáng tạo năm 2022-2023 (7 môn học)
- Ôn tập giữa học kì 1 - Tiết 5 môn Tiếng Việt lớp 4 theo chương trình Kết nối tri thức Tập 1
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 64 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 tập 2