Văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Dàn ý chi tiết và 7 bài văn mẫu đặc sắc
Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh là một tác phẩm thơ đặc sắc, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn lớp 6, mang đến những bài học sâu sắc về nguồn gốc và ý nghĩa của loài người.

EduTOPS xin giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người, bao gồm dàn ý chi tiết và 7 bài văn mẫu đặc sắc, giúp học sinh nắm vững kiến thức và phát triển kỹ năng viết văn.
Dàn ý phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Hướng dẫn chi tiết và hệ thống ý tưởng để hiểu sâu hơn về bài thơ.
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh và tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người, một bài thơ mang đậm tính nhân văn và triết lý sâu sắc.
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, nổi bật với cách kể chuyện độc đáo và hình ảnh thơ giàu sức gợi.
II. Thân bài
1. Sự ra đời của loài người
- Con người sinh ra đầu tiên là những đứa trẻ, tượng trưng cho sự ngây thơ và thuần khiết của buổi đầu sáng thế.
- Khung cảnh thuở sơ khai:
- Không có cây cối hay ngọn cỏ.
- Chưa có mặt trời, chỉ toàn là bóng đêm bao phủ.
- Thế giới chỉ có một màu đơn điệu, thiếu sự đa dạng.
2. Sự ra đời của thiên nhiên
- Mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ mọi vật.
- Cây cỏ và hoa lá giúp trẻ con nhận biết màu sắc và kích thước.
- Tiếng chim và làn gió mang đến âm thanh và cảm giác.
- Sông ngòi cung cấp nước để tắm mát.
- Biển cả là nơi để suy ngẫm, cung cấp thực phẩm và khám phá.
- Đám mây đem lại bóng mát dịu dàng.
- Con đường giúp trẻ con tập đi và khám phá thế giới.
=> Thiên nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là người bạn đồng hành, phục vụ và nuôi dưỡng cuộc sống con người.
3. Sự ra đời của gia đình
- Mẹ mang đến tình yêu thương, lời ru và sự chăm sóc dịu dàng.
- Bà kể những câu chuyện cổ tích, truyền dạy những giá trị văn hóa tốt đẹp.
- Bố dạy dỗ kiến thức, giúp trẻ em hiểu biết và trưởng thành.
=> Gia đình là nơi yêu thương, che chở và nuôi dưỡng con người, là nền tảng của sự phát triển.
4. Sự ra đời của xã hội
- Chữ viết, bàn ghế, cục phấn, bảng đen, trường học… là những công cụ và không gian học tập không thể thiếu của con người.
- Thầy cô giáo đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức và dạy dỗ thế hệ trẻ.
=> Giáo dục là nền tảng vững chắc, đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển và tiến bộ của con người.
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Chuyện cổ tích về loài người, một tác phẩm giàu tính nhân văn và sâu sắc.
Phân tích bài thơ Chuyện cổ tích về loài người - Khám phá hành trình sáng tạo và ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Mẫu 1
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã dành nhiều tác phẩm ý nghĩa cho thiếu nhi, trong đó nổi bật là bài thơ Chuyện cổ tích về loài người.
Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc. Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa ra cách lí giải độc đáo về nguồn gốc của loài người:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khác với quy luật tự nhiên, Xuân Quỳnh cho rằng trẻ con là những sinh linh đầu tiên được tạo ra. Trái đất lúc ấy còn hoang sơ, chưa có sự sống, chỉ toàn bóng tối bao trùm. Điều này thể hiện tình yêu thương và sự trân trọng mà tác giả dành cho trẻ nhỏ. Sau khi trẻ con xuất hiện, vạn vật mới dần hình thành để phục vụ nhu cầu của chúng. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì trong bóng tối, vì thế mặt trời xuất hiện. Cây cỏ, hoa lá mang đến màu sắc, giúp trẻ con nhận biết thế giới. Tiếng chim hót, tiếng gió thổi đem lại âm thanh. Dòng sông xuất hiện để trẻ con có nước tắm mát. Biển cả giúp trẻ con suy ngẫm, và con đường hình thành để trẻ con tập đi.
Không chỉ thiên nhiên, những người thân trong gia đình cũng lần lượt xuất hiện để yêu thương và chăm sóc trẻ con.
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng..."
Người mẹ ra đời để yêu thương, chăm sóc và ru trẻ con ngủ. Trong lời ru của mẹ, trẻ con cảm nhận được âm thanh, mùi vị, hình ảnh và vẻ đẹp của thiên nhiên.
Khi lớn lên, trẻ con bắt đầu tò mò về thế giới cổ tích. Và người bà xuất hiện, kể cho trẻ con nghe những câu chuyện hấp dẫn:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Trẻ con cũng tò mò về thế giới xung quanh, và người bố xuất hiện để dạy dỗ, giúp trẻ con hiểu biết hơn:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”
Để đáp ứng nhu cầu học hỏi của trẻ con, trường học được thành lập. Thầy cô giáo là người truyền đạt kiến thức, dạy dỗ trẻ con trở thành người có ích. Lớp học, bàn ghế, bảng đen, phấn trắng, chữ viết là những biểu tượng cho sự phát triển văn minh của loài người.
Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh không chỉ mang đến một cách nhìn độc đáo về nguồn gốc loài người mà còn gửi gắm tình yêu thương trẻ nhỏ và thông điệp nhân văn sâu sắc.
Mẫu 2
Xuân Quỳnh, một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, đã sáng tác nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi, trong đó có bài thơ Chuyện cổ tích về loài người.
Bài thơ được viết dưới hình thức tự sự, mang đến một góc nhìn độc đáo và mới mẻ về nguồn gốc ra đời của vạn vật trên Trái Đất:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi Trái Đất còn hoang sơ, không một bóng cây hay ngọn cỏ, ánh sáng mặt trời chưa xuất hiện, chỉ có bóng đêm bao trùm. Không khí chỉ có một màu đen, chưa có sự đa dạng về màu sắc. Trẻ em được sinh ra đầu tiên, thể hiện tình yêu thương và sự trân trọng của tác giả dành cho trẻ nhỏ. Những câu thơ tiếp theo tiếp tục lí giải sự ra đời của vạn vật, đều xuất phát từ nhu cầu của trẻ em:
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì. Mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Cây cỏ, hoa lá ra đời giúp trẻ con nhận biết màu sắc. Chim chóc xuất hiện để mang đến âm thanh. Dòng sông, đám mây, biển cả giúp trẻ con cảm nhận giá trị cuộc sống. Nhờ có trẻ em, Trái Đất trở nên rực rỡ sắc màu, thiên nhiên trở nên tươi đẹp hơn.
Trẻ em cần tình yêu thương và sự dạy dỗ, vì vậy những người thân yêu như mẹ, bố và bà đã xuất hiện:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…"
Mẹ là người quan trọng nhất, nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ trẻ con. Lời ru của mẹ giúp trẻ em cảm nhận được cuộc sống qua những điều giản dị nhưng đẹp đẽ.
Người bà xuất hiện để kể cho trẻ em nghe những câu chuyện cổ tích, từ cô Tấm hiền lành đến thằng Lý Thông độc ác. Qua mỗi câu chuyện, trẻ em học được những bài học quý giá về cuộc sống:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Khi trẻ em lớn lên, chúng cần hiểu biết và trưởng thành. Bố xuất hiện để dạy dỗ, uốn nắn tính cách và giải đáp những thắc mắc về thế giới xung quanh:
“Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất..."
Tuy nhiên, bố không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vì vậy trường học ra đời để dạy dỗ kiến thức và kỹ năng cần thiết cho trẻ em.
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ viết xuất hiện đầu tiên, tiếp theo là trường học với bàn ghế, rồi thầy cô giáo ra đời. Họ là những người truyền đạt kiến thức, dạy dỗ trẻ em trở thành người có ích. Với thể thơ năm chữ, kết hợp hình ảnh gần gũi và các biện pháp tu từ, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã mang đến cách lí giải thú vị về nguồn gốc vạn vật và con người, đồng thời thể hiện tình yêu thương trẻ nhỏ của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Tóm lại, Xuân Quỳnh đã mang đến một cách nhìn độc đáo về sự ra đời của vạn vật, đồng thời bộc lộ tình yêu thương sâu sắc dành cho trẻ em qua bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người”.
Mẫu 3
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm viết về tình cảm gia đình và cuộc sống đời thường, trong đó bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” là một tác phẩm tiêu biểu.
Để giải thích về nguồn gốc loài người cho trẻ em, Xuân Quỳnh đã sử dụng cách diễn đạt khéo léo và hài hước. Ở khổ thơ đầu, tác giả đã lí giải sự ra đời của loài người:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Trái đất lúc này còn hoang sơ, không có cây cối hay ngọn cỏ. Ngay cả mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ có bóng đêm bao trùm. Mọi thứ đều sinh ra vì trẻ em. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Màu xanh của cây cỏ, màu đỏ của hoa giúp trẻ con nhận biết màu sắc. Cây cối giúp trẻ con cảm nhận kích thước. Tiếng chim hót, tiếng gió thổi mang đến âm thanh. Dòng sông xuất hiện để trẻ con có nước tắm. Biển cả giúp trẻ con suy ngẫm, cung cấp thực phẩm và là nơi khám phá. Khi trẻ con bắt đầu tập đi, con đường cũng hình thành.
Nhưng trẻ con còn cần tình yêu thương, vì vậy người mẹ đã xuất hiện:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng..."
Đoạn thơ bắt đầu với sự xuất hiện của người mẹ. Lý do mẹ có mặt thật đơn giản nhưng ý nghĩa: trẻ con cần bàn tay dịu dàng chăm sóc và lời ru ngọt ngào. Lời ru được sinh ra từ những thứ giản dị như cái bống, cái bang, bông hoa thơm, vị gừng đắng, vết lấm chưa khô, đầu nguồn cơn mưa, bãi sông cát vắng... Tất cả đều gần gũi và quen thuộc với trẻ em. Lời ru chứa đựng âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của thiên nhiên, giúp trẻ con cảm nhận cuộc sống. Tình yêu của mẹ cũng lớn lao, mênh mông như trời đất, được gửi gắm qua từng lời hát.
Tiếp theo, Xuân Quỳnh lí giải sự xuất hiện của bà. Bà là người mang đến cho trẻ con những câu chuyện cổ tích:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Tuổi thơ của mỗi người đều gắn liền với hình ảnh người bà nhân hậu và những câu chuyện cổ tích quen thuộc như con cóc, nàng tiên, cô Tấm ở hiền, thằng Lý Thông ở ác… Qua những câu chuyện này, bà muốn truyền đạt cội nguồn văn hóa dân tộc và bài học về lối sống hiền lành, lương thiện.
Có mẹ mang đến tình yêu, bà dạy dỗ đạo đức, trẻ em còn cần bố để học hỏi kiến thức. Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ em “biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người dần mở rộng hiểu biết, khám phá thế giới xung quanh:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”
Khi cuộc sống phát triển, con người được học hành. Trường học được thành lập, thầy cô giáo là người truyền đạt kiến thức, dạy dỗ trẻ em trở thành người có ích. Lớp học, bàn ghế, bảng đen, phấn trắng, chữ viết là những biểu tượng cho sự tiến bộ văn minh của loài người. Dưới ánh sáng mặt trời, con người được sống trong ánh sáng của khoa học, giáo dục và văn minh.
"Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo"
Như vậy, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” đã mang đến một cách lí giải độc đáo về nguồn gốc loài người, đồng thời thể hiện tình yêu thương sâu sắc của Xuân Quỳnh dành cho trẻ em.
Mẫu 4
“Chuyện cổ tích về loài người” là một trong những bài thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh. Với tác phẩm này, tác giả đã mang đến cách lí giải độc đáo và thú vị về nguồn gốc của loài người.
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Khi Trái Đất còn hoang sơ, không có cây cối hay ngọn cỏ, ánh sáng mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ có bóng đêm bao trùm. Trẻ em được sinh ra đầu tiên - một cách lí giải trái ngược với thực tế nhưng xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho trẻ nhỏ.
Mọi vật trên Trái Đất đều xuất hiện vì trẻ em. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Cây cỏ, hoa lá mang đến màu sắc, giúp trẻ con nhận biết thế giới. Chim chóc xuất hiện để mang đến âm thanh. Dòng sông, biển cả, đám mây, con đường ra đời cũng để phục vụ cuộc sống của trẻ con. Mọi thứ trong tự nhiên đều sinh ra vì trẻ em.
Tiếp theo, Xuân Quỳnh lí giải nguồn gốc ra đời của gia đình, bắt đầu với sự xuất hiện của người mẹ:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng..."
Đoạn thơ bắt đầu với sự xuất hiện của người mẹ. Lý do mẹ có mặt thật đơn giản nhưng ý nghĩa: trẻ con cần bàn tay dịu dàng chăm sóc và lời ru ngọt ngào. Lời ru được sinh ra từ những thứ giản dị như cái bống, cái bang, bông hoa thơm, vị gừng đắng, vết lấm chưa khô, đầu nguồn cơn mưa, bãi sông cát vắng... Tất cả đều gần gũi và quen thuộc với trẻ em. Lời ru chứa đựng âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của thiên nhiên, giúp trẻ con cảm nhận cuộc sống. Tình yêu của mẹ cũng lớn lao, mênh mông như trời đất, được gửi gắm qua từng lời hát.
Sau đó, người bà xuất hiện để giúp trẻ con hiểu hơn về văn hóa và truyền thống dân tộc:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Tuổi thơ của mỗi người đều gắn liền với hình ảnh người bà nhân hậu và những câu chuyện cổ tích quen thuộc như con cóc, nàng tiên, cô Tấm ở hiền, thằng Lý Thông ở ác… Qua những câu chuyện này, bà muốn truyền đạt cội nguồn văn hóa dân tộc và bài học về lối sống hiền lành, lương thiện.
Nhưng trẻ con cũng cần hiểu biết, vì vậy người bố đã xuất hiện:
"Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất..."
Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ em “biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người dần mở rộng hiểu biết, khám phá thế giới xung quanh. Khi cuộc sống phát triển, trường học được thành lập, đánh dấu sự tiến bộ văn minh của loài người. Lớp học, bàn ghế, bảng đen, phấn trắng, chữ viết là những biểu tượng cho sự phát triển của xã hội.
Qua “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã thể hiện tình yêu thương sâu sắc dành cho trẻ em, đồng thời gửi gắm thông điệp về sự chăm sóc và nâng niu thế hệ tương lai.
Phân tích tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - Khám phá thế giới ngôn từ và triết lý nhân sinh của Xuân Quỳnh
Mẫu 1
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi, trong đó bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” là một tác phẩm tiêu biểu.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã hình dung về cuộc sống trên Trái Đất khi mới có loài người, khi đó “chỉ toàn là trẻ con”. Trái Đất còn hoang sơ, “trụi trần”, chưa có màu xanh, “không dáng cây ngọn cỏ”:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Đó là khi Trái Đất còn hoang sơ, không có cây cối hay ngọn cỏ, ánh sáng mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ có bóng đêm bao trùm. Trẻ em được sinh ra đầu tiên - một cách lí giải độc đáo và trái ngược với thực tế. Sau đó, tác giả tiếp tục lí giải sự ra đời của vạn vật, tất cả đều bắt nguồn từ trẻ em. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Cây cỏ, hoa lá mang đến màu sắc, giúp trẻ con nhận biết thế giới. Chim chóc xuất hiện để mang đến âm thanh. Dòng sông, biển cả, đám mây, con đường ra đời cũng để phục vụ cuộc sống của trẻ con. Qua cách lí giải này, người đọc cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ dành cho trẻ em.
Tiếp theo, tác giả lí giải sự ra đời của người mẹ trong mối liên hệ với trẻ em:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
…
Từ bãi sông cát vắng”
Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc sống. Người mẹ chăm sóc trẻ con từ khi mới sinh ra, nâng niu con trong bàn tay, dành cho con những lời ru ngọt ngào. Những lời ru mở ra cho trẻ con hiểu biết về thế giới xung quanh. Tác giả liệt kê các hình ảnh, màu sắc, hương vị xuất hiện từ lời ru của mẹ. Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn, Xuân Quỳnh đã khắc họa ý nghĩa sâu sắc của người mẹ đối với trẻ con.
Không chỉ có mẹ, người bà cũng xuất hiện để mang đến cho trẻ con những câu chuyện cổ tích:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ…”
Trẻ em cần hiểu biết, vì vậy người bố xuất hiện để dạy dỗ, giúp trẻ em biết suy nghĩ và ngoan ngoãn hơn. Nhờ sự dạy dỗ của bố, trẻ em trưởng thành và học cách khám phá thế giới: đâu là mặt bể, đâu là con đường, núi như thế nào, trái đất ra sao… Khi con người có ngôn ngữ, chữ viết và nền giáo dục, cuộc sống trở nên văn minh hơn. Trường học được mở ra, thầy giáo xuất hiện để dạy dỗ trẻ em.
Tóm lại, bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” là một cách lí giải thú vị về nguồn gốc con người. Những hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ hóm hỉnh và ngôn ngữ hồn nhiên đã góp phần làm nên thành công của tác phẩm.
Mẫu 2
“Chuyện cổ tích về loài người” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi, thể hiện rõ phong cách sáng tác độc đáo của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã đưa ra cách lí giải độc đáo về nguồn gốc của loài người:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
Trái Đất lúc này còn hoang sơ, chưa có sự sống, chỉ toàn bóng tối bao trùm. Trẻ em được sinh ra đầu tiên. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Màu xanh của cây cỏ, màu đỏ của hoa giúp trẻ con nhận biết màu sắc. Cây cối giúp trẻ con cảm nhận kích thước. Tiếng chim hót, tiếng gió thổi mang đến âm thanh. Dòng sông xuất hiện để trẻ con có nước tắm. Biển cả giúp trẻ con suy ngẫm. Con đường hình thành để trẻ con tập đi. Mọi thứ đều sinh ra để đáp ứng nhu cầu của trẻ con.
Ngay cả những người thân trong gia đình cũng xuất hiện vì trẻ con cần tình yêu thương và hiểu biết:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng..."
Người mẹ ra đời để mang đến cho trẻ tình yêu thương. Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Mẹ đem đến lời ru, trong đó chứa đựng âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của thiên nhiên, giúp trẻ con cảm nhận cuộc sống. Lời ru và tình yêu của mẹ đều có nhiều sắc thái, tự nhiên như trời đất. Khi lớn hơn, trẻ con bắt đầu tò mò về thế giới cổ tích. Bà xuất hiện để kể cho trẻ con nghe:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Nhưng trẻ con còn cần học hỏi thêm kiến thức. Vì vậy, người bố xuất hiện. Nhờ “bố bảo”, “bố dạy” mà trẻ em “biết ngoan”, “biết nghĩ”. Con người dần mở rộng hiểu biết, khám phá thế giới xung quanh:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”
Khi trẻ con lớn lên, cần thêm nhiều kiến thức, trường học được thành lập. Thầy cô giáo là người truyền đạt kiến thức, dạy dỗ trẻ em trở thành người có ích. Lớp học, bàn ghế, bảng đen, phấn trắng, chữ viết là những biểu tượng cho sự tiến bộ văn minh của loài người.
Với giọng thơ hồn nhiên, Xuân Quỳnh đã mang đến một cách lí giải thú vị về nguồn gốc loài người, đồng thời thể hiện tình yêu thương sâu sắc dành cho trẻ em.
Mẫu 3
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, trong đó “Chuyện cổ tích về loài người” là một bài thơ đặc sắc, lí giải về nguồn gốc loài người một cách thú vị:
“Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ
Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác”
“Chuyện cổ tích về loài người” được viết dưới hình thức một bài thơ nhưng giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện kể về nguồn gốc loài người. Khi Trái Đất còn hoang sơ, không có cây cối hay ngọn cỏ, ánh sáng mặt trời cũng chưa xuất hiện, chỉ có bóng đêm bao trùm. Không khí chỉ có một màu đen, chưa có sự đa dạng về màu sắc. Trẻ em được sinh ra đầu tiên - một cách lí giải độc đáo và trái ngược với thực tế, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của Xuân Quỳnh dành cho trẻ nhỏ.
“Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu!
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay…”
Mọi vật xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của trẻ con. Đôi mắt trẻ con sáng nhưng chưa thể nhìn thấy gì, vì vậy mặt trời xuất hiện để giúp trẻ con nhìn rõ. Cây cỏ, hoa lá mang đến màu sắc, giúp trẻ con nhận biết thế giới. Chim chóc xuất hiện để mang đến âm thanh. Dòng sông, đám mây, biển cả giúp trẻ con cảm nhận giá trị cuộc sống. Con đường hình thành để trẻ con tập đi…
Không chỉ vậy, trẻ em cũng cần tình yêu thương. Vì thế, những người thân như bà, mẹ, bố đã xuất hiện:
"Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…"
Đầu tiên là mẹ, người quan trọng nhất đối với trẻ con. Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ trẻ con. Lời ru ngọt ngào của mẹ đưa trẻ con vào giấc ngủ bình yên. Trong lời ru đó, mẹ gửi gắm âm thanh, mùi vị, hương sắc, hình dáng của cuộc sống. Tình yêu của mẹ bao la, lớn lao như trời đất.
Tiếp theo, trẻ con khao khát được nghe những câu chuyện cổ tích. Vì vậy, người bà đã xuất hiện:
"Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện"
Những câu chuyện bà kể giúp trẻ con hiểu thêm về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyện cổ tích về con cóc, nàng tiên, cô Tấm ở hiền, thằng Lý Thông ở ác… qua giọng kể của bà trở nên hấp dẫn và sinh động. Bà còn gửi gắm bài học quý giá về cội nguồn và văn hóa dân tộc, hướng trẻ con đến lối sống tốt đẹp.
“Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất..."
Trong quá trình trưởng thành, trẻ con không ngừng học hỏi và khám phá. Vì vậy, người bố xuất hiện để dạy cho trẻ con nhiều kiến thức thú vị. Bố dạy trẻ con “biết ngoan, biết nghĩ” - uốn nắn để trẻ con trở thành người có ích. Bố còn là kho tàng tri thức, giải đáp mọi thắc mắc của trẻ con về cuộc sống.
Dù vậy, bố cũng không thể mãi đồng hành cùng trẻ con, vì vậy trường học được thành lập:
“Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất”
Chữ viết xuất hiện để lưu giữ kiến thức. Trường học được thành lập, nơi thầy cô giáo truyền đạt tri thức cho trẻ em. Từ đó, trẻ con học hỏi và mở rộng hiểu biết. Sự ra đời của trường học là biểu tượng cho sự tiến bộ văn minh của loài người.
Qua “Chuyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã mang đến cách lí giải độc đáo về sự ra đời của vạn vật, đồng thời thể hiện tình yêu thương sâu sắc dành cho trẻ em.
- Cảm xúc chân thành về bài thơ Mây và sóng của Ta-go - 12 mẫu đoạn văn cảm nhận sâu sắc
- Văn mẫu lớp 6: Viết đoạn văn ngắn 5 - 7 câu với nhan đề Gửi tác giả truyện Cô bé bán diêm - Tuyển tập 12 đoạn văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 6: Cảm nhận sâu sắc về nhân vật người anh trong tác phẩm Bức tranh của em gái tôi (12 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu lớp 6
- Văn mẫu lớp 6: Phân tích sâu sắc nhân vật Sơn trong tác phẩm Gió lạnh đầu mùa - Tuyển tập 8 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 6: Cảm nhận sâu sắc về đoạn thơ yêu thích trong tác phẩm Chuyện cổ tích về loài người - 12 đoạn văn mẫu đặc sắc