Văn mẫu lớp 12: Suy ngẫm về đoạn kết truyện Vợ nhặt (Dàn ý chi tiết cùng 5 bài văn mẫu chọn lọc) - Tài liệu tham khảo hữu ích dành cho học sinh lớp 12
Khám phá ý nghĩa sâu sắc của đoạn kết trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân - Tuyển tập 5 bài văn mẫu xuất sắc, bao gồm phân tích ngắn gọn, chi tiết và bài làm của học sinh giỏi. Tài liệu này giúp học sinh lớp 12 tự học, mở rộng kiến thức và rèn luyện kỹ năng viết văn một cách hiệu quả.

TOP 5 bài suy ngẫm về kết thúc truyện Vợ nhặt dưới đây sẽ giúp các em lựa chọn cách tiếp cận và giọng văn phù hợp, biến kiến thức thành hành trang tâm đắc. Hy vọng tài liệu này sẽ đồng hành cùng bạn trong quá trình học tập và ôn thi THPT Quốc gia. Bên cạnh đó, tham khảo thêm các bài văn mẫu: Đáp án đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn, phân tích nhân vật Thị, tóm tắt Vợ nhặt, phân tích bà cụ Tứ và phân tích nhân vật Tràng.
Dàn ý suy ngẫm về kết thúc truyện Vợ nhặt
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm: Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân, phản ánh nạn đói khủng khiếp. Kết thúc truyện mang tính gợi mở, khắc sâu chủ đề và để lại nhiều suy ngẫm.
II. Thân bài:
– Khái quát kết thúc truyện:
+ Trong bữa cơm ngày đói, người vợ nhặt kể chuyện đoàn người đói phá kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo, xóa tan bầu không khí u ám.
+ Câu chuyện của vợ khiến Tràng liên tưởng đến hình ảnh đám người đói đi trên đê và lá cờ đỏ bay phấp phới trong gió.
– Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ không chỉ khép lại câu chuyện mà còn gợi lên nhiều liên tưởng sâu sắc, củng cố chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
+ Hình ảnh thoáng qua trong tâm trí Tràng phản ánh cảnh đói khát thê thảm của người dân, đồng thời báo hiệu những tín hiệu đầu tiên của cách mạng.
–> Kim Lân khéo léo tái hiện thực trạng xã hội qua kết thúc truyện mang tính gợi mở, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc.
+ Kết thúc còn thể hiện tinh thần nhân đạo của tác giả khi trân trọng sức sống mãnh liệt của con người ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
III. Kết bài:
- Kết thúc mở của truyện Vợ nhặt gợi lên nhiều liên tưởng và suy ngẫm, thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được khắc họa qua câu chuyện.
Dàn ý số 2
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt
- Dẫn dắt giới thiệu hai ý kiến bàn về tác phẩm Vợ nhặt
- Khái quát về tác giả, tác phẩm.
II. Thân bài
1. Tác giả Kim Lân: Kim Lân được mệnh danh là “con đẻ của đồng ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người, với sự thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Kim Lân đã khắc họa chân thực đời sống làng quê qua những thú vui tao nhã mà ông gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết về người nông dân chất phác, hóm hỉnh nhưng không kém phần tài hoa.
– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng Tháng Tám nhưng còn dang dở và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản năm 1962).
2. Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói năm 1945. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người nông dân vẫn đùm bọc, yêu thương nhau, khao khát mái ấm gia đình và luôn nuôi hi vọng vào tương lai.
Truyện kể về cuộc sống của những người dân xóm ngụ cư trong nạn đói, tiêu biểu là gia đình Tràng. Vì nghèo đói, Tràng không thể tổ chức đám cưới đàng hoàng, và bữa cơm đón nàng dâu mới cũng thảm hại: “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn, họ nghe tiếng trống thúc thuế, và qua lời kể của vợ, Tràng nhớ lại lần gặp Việt Minh: “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
3. Trình bày ý kiến của bản thân về cách kết thúc truyện.
*Bàn luận về ý kiến: “Đó là một cái kết mở, tự nhiên và sáng”
– Đó là cách kết truyện tự nhiên và phù hợp.
- Kết thúc này có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 – một thời điểm lịch sử có thật, khi đất nước chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám. Phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo là một sự kiện tiêu biểu. Trong hoàn cảnh đói khát cùng cực, người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Thực dân Pháp thi hành những chính sách tàn bạo, vơ vét của cải, còn phát xít Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu, dẫn đến nạn đói khủng khiếp. Người dân trong hoàn cảnh ấy ý thức được rằng họ phải đứng lên đấu tranh, tìm con đường giải phóng. Họ tìm đến cách mạng như một điều tất yếu.
- Sự hợp lý ở đây là họ mới chỉ bắt đầu nhận thức về cách mạng, như ánh sáng le lói cuối đường hầm. Kim Lân không kết thúc câu chuyện bằng việc Tràng tham gia cách mạng và kêu gọi quần chúng đấu tranh, vì điều đó có phần gượng ép. Thay vào đó, qua lời kể của vợ, Tràng nhớ lại lần nhìn thấy đoàn người phá kho thóc và nghe nói họ là Việt Minh. Quá trình nhận thức diễn ra từ từ, khiến kết thúc trở nên tự nhiên và hợp lý.
– Đó còn là cách kết truyện mở và sáng.
- Kết thúc truyện mở ra nhiều suy ngẫm cho người đọc. Kim Lân không nói rõ cuộc sống của Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt sẽ ra sao, để độc giả tự tưởng tượng và suy ngẫm. Cách kết thúc “lửng” này thể hiện sự tôn trọng của tác giả với nhận thức của độc giả, đồng thời khuyến khích họ suy nghĩ sâu sắc hơn về câu chuyện. Điều này cũng khơi gợi sự tìm tòi, khám phá về cuộc sống và xã hội, thay vì chỉ đọc và hiểu tác phẩm một cách đơn thuần. Với hình ảnh “ánh sáng le lói cuối đường hầm”, người đọc có thể hiểu rằng Tràng sẽ theo cách mạng, cùng quần chúng khởi nghĩa, và cuộc sống của anh cùng gia đình sẽ ấm no, hạnh phúc hơn khi cách mạng thành công.
- Kết thúc của Kim Lân còn mang tính “sáng”, khác biệt với văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Trong tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo rơi vào bi kịch bế tắc. Ngô Tất Tố để chị Dậu đối mặt với “trời tối đen như mực”. Nhưng trong “Vợ nhặt”, Kim Lân hướng người nông dân về tương lai tươi sáng. Dù trong cảnh “bữa cơm ngày đói” với “mẹt rách chỉ có rau chuối và muối ăn với cháo”, Kim Lân không để họ chìm trong bế tắc. Ông hướng họ về ánh sáng cách mạng: “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Đây là cách kết truyện sáng, mở ra tương lai tươi sáng cho con người.
* Bàn luận về ý kiến: “Đó chưa phải là một cái kết thực sự tự nhiên”.
Có ý kiến cho rằng kết thúc này “chưa thực sự tự nhiên”, còn gượng ép về mặt nghệ thuật. Lý do là bối cảnh truyện vẫn ngập tràn trong đói khát, và cái chết là điều khó tránh khỏi. Những người nông dân trong truyện còn nhỏ bé, chưa hiểu rõ về cách mạng, và họ chưa đủ khả năng thay đổi cuộc sống. Vì vậy, âm thanh tiếng trống thúc thuế và hình ảnh lá cờ đỏ có phần gượng ép. Tuy nhiên, như đã phân tích, nhận thức về cách mạng của người nông dân trong thời điểm tiền khởi nghĩa là điều có cơ sở, khiến kết thúc trở nên hợp lý.
*Quan điểm cá nhân.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về cách cảm nhận văn học, điều này phụ thuộc vào quyền cá nhân của mỗi người. Tuy nhiên, bản thân tôi nhận thấy mạch truyện vẫn duy trì tính logic về mặt nội dung và tư tưởng. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét hiện thực cuộc sống của người nông dân thời bấy giờ, mang đậm dấu ấn thi pháp của thời đại. Cách kết thúc có hậu phản ánh chính xác những đặc trưng của văn học cách mạng giai đoạn đó.
* Mở rộng vấn đề: So sánh với các tác phẩm cùng thời và trước đó
- So sánh với các tác phẩm trước năm 1945 như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Chí Phèo” của Nam Cao để thấy sự khác biệt trong cách kết thúc giữa văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng sau năm 1945.
- So sánh với tác phẩm cùng thời như “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài để nhận ra những điểm tương đồng trong các tác phẩm sau năm 1945, đồng thời làm nổi bật đặc điểm thi pháp của văn học giai đoạn này.
III. Kết bài: Đánh giá tổng quan về cách kết thúc của truyện ngắn Vợ nhặt, khẳng định lại quan điểm cá nhân về kết thúc truyện.
Tác phẩm Vợ nhặt không chỉ là một bức tranh chân thực về cuộc sống người nông dân mà còn là một minh chứng cho sự chuyển mình của văn học cách mạng, với cách kết thúc mang đậm tính nhân văn và hy vọng.
Ý nghĩa đoạn kết Vợ nhặt cực hay - Mẫu 1
Nếu kết thúc truyện "Tắt đèn", chị Dậu chạy ra khỏi nhà tên quan huyện trong một đêm đen "như cái tiền đồ của chị"; nếu kết thúc truyện "Chí Phèo" là cái chết trong đau đớn của Chí và hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không như dự báo một Chí Phèo con ra đời thì Kim Lân lại tìm một hướng đi khác cho câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của anh cu Tràng. Kim Lân đã không để cuộc đời của các nhân vật chìm đắm trong bóng tối của đói nghèo và cái chết, hình ảnh Việt Minh cùng lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm "Vợ nhặt" đã tạo nên cho truyện một kết thúc "mở, tự nhiên và sáng".
Bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941-1944, Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều như mang trong đó mùi của rơm rạ, khói bếp, lúa đồng, mùi của cuộc sống nông thôn cơ cực, nhọc nhằn.
"Vợ nhặt" được viết lên mang cái tình của Kim Lân dành cho những người nông dân nghèo khổ, lam lũ mà chất phác, yêu đời. Nhân vật chính của truyện là anh cu Tràng - anh chàng kéo xe thuê nghèo khổ, xấu xí, lại là dân ngụ cư. Giữa những ngày đói khủng khiếp của năm Ất Dậu, hắn bỗng dưng "nhặt" được vợ chỉ qua hai lần gặp gỡ và mấy bát bánh đúc. Hắn đưa vợ về nhà trong sự ái ngại những người dân xóm ngụ cư, trong trạng thái ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bà mẹ hắn. Với lòng nhân hậu, yêu thương, bà cụ đã đón nhận người vợ nhặt. Chi tiết kết thúc truyện là bữa cơm mừng dâu mới với âm thanh dồn dập của tiếng trống thúc thuế, với câu chuyện người vợ Tràng kể về sự nổi dậy của người dân vùng cách mạng và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong óc Tràng khi nghe câu chuyện ấy.
Trước hết, đoạn kết truyện tiếp tục hoàn thiện bức tranh về nạn đói thảm khốc năm Ất Dậu. Nếu ở phần đầu, tác giả tập trung miêu tả hiện thực qua hình ảnh những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma, những chiếc thây nằm còng queo bên đường.. thì phần cuối, giữa không khí có phần im lặng, "tủi hờn" của bữa ăn mừng dâu mới, một âm thanh dồn dập, vội vã bỗng dội lên: Âm thanh của tiếng trống thúc thuế - âm thanh gây ám ảnh kinh hoàng đối với những người dân đói khổ. Bởi sau chuỗi âm thanh ấy là biết bao thảm cảnh đau thương. Kim Lân không miêu tả trực tiếp, nhưng ta có thể hình dung thảm cảnh ấy qua hình ảnh gia đình chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" của tiểu thuyết "Tắt đèn".
Phụ họa cùng âm thanh tiếng trống là hình ảnh đàn quạ "lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen." Loài vật "biểu tượng" cho sự chết chóc này đâu phải xuất hiện một lần. Âm thanh tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" mà Kim Lân miêu tả trong đoạn trước đã được chuyển hóa thành "những đám mây đen" như phủ bóng đen của cái chết lên bầu trời, lên thân phận của những con người đói khổ dưới mặt đất.
Trong khi người con dâu ngơ ngác chưa biết tiếng trống gì, thì lòng người mẹ nghèo đã chất đầy bi thương. Tiếng trống quá quen thuộc mỗi ngày ấy lại có sức "sát thương" ghê gớm:
"Trống thúc thuế đất. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ.. Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."
Câu nói của cụ Tứ giúp người đọc hiểu rõ hơn nguyên nhân của tình cảnh thê thảm khiến trong vòng ba tháng hơn hai triệu đồng bào ta chết đói: Thực dân Pháp thì thi hành những "luật pháp dã man", vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay phục vụ cho mục đích chiến tranh. Lời than thở của cụ Tứ cũng chính là lời kết tội đanh thép của nhà văn hướng về phía bọn xâm lược bạo tàn.
Nhận thức về hiện thực khiến cụ Tứ vừa mới đây còn vui vẻ nói nói, cười cười, bàn tính toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau, giờ đây, tâm trí cụ lại như rơi vào điểm đáy. Cụ lo lắng: "Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ". Tiên cảm về cái đói, cái chết giống như bóng đen trở đi trở lại ám ảnh cụ. Hiện thực quá khốc liệt khiến cụ không thể vui trọn vẹn trong ngày đại hỷ của con. Dòng nước mắt hiếm hoi nơi kẽ mắt kèm nhèm lần nữa nhỏ xuống. "Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."
Nếu như theo "mô típ" của dòng truyện hiện thực trước Cách mạng, Kim Lân có thể đã kết thúc truyện ở những dòng nước mắt bi thương của người mẹ nghèo. Nếu vậy, cái kết này sẽ giống với cái kết của Chí Phèo, Một bữa no, Bước đường cùng hay Tắt đèn.. Nhưng không, Kim Lân đột ngột chuyển mạch truyện sang một hướng mới, tươi sáng, lạc quan hơn.
Câu chuyện của chị con dâu kể về mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa, mà còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói là bước ngoặt đầu tiên của kết truyện. Chuyện không đóng thuế, phá kho thóc.. dù ở tận mạn ngược xa xôi, nhưng cũng đủ để mang đến một luồng sinh khí mới cho cả gia đình. Câu chuyện ấy như giống như tia sáng le lói nhen nhóm lên giữa khung cảnh "tối sầm vì đói khát".
Điều đặc biệt là câu chuyện của vợ Tràng đã khiến tâm trí Tràng xuất hiện những hình ảnh thật đẹp. Lần đầu tiên trong óc Tràng, không phải là những suy nghĩ ngờ nghệch, vô tâm, vô tư mà là hình ảnh đám người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Những hình ảnh ấy chính là bước ngoặt thứ hai cho kết truyện, quyết định cái kết "mở, tự nhiên và sáng".
Những người đói kia, họ cũng như Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng – là nạn nhân của thảm cảnh năm đói Ất Dậu. Nhưng họ đã biết đi theo tiếng gọi của Đảng, của Cách mạng, đứng lên đấu tranh, phá kho thóc Nhật, giành lại sự sống về tay mình. Tín hiệu của một cuộc Cách mạng đã khá rõ ràng. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại nhắc đến những địa danh Thái Nguyên, Bắc Giang. Đó chẳng phải là căn cứ địa của Cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp đó sao?
Ý đồ gửi gắm trong những dòng cuối cùng của câu chuyện trước hết tạo nên một kết thúc "mở", gợi nhiều suy ngẫm trong lòng người đọc. Truyện không "đóng khung" số phận của nhân vật theo hướng nào mà để "lửng", để người đọc mỗi người tự hình dung về số phận nhân vật theo suy nghĩ của mình. Nhà văn đã để bạn đọc đồng sáng tạo cùng tác giả. Và có lẽ, trong suy ngẫm của nhiều độc giả, một ngày kia, Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng sẽ được giác ngộ Cách mạng, hòa cùng đám người đói kia đấu tranh để giải phóng cho chính mình. Cuộc sống của anh và gia đình cùng những người nông dân Việt Nam sẽ sang một trang mới, ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.
Thứ hai, kết thúc truyện của Kim Lân mang tính "tự nhiên", bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống. Vào thời điểm năm 1945, giai đoạn chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa đang ở giai đoạn quyết định. Nhiều nơi, Việt Minh đã đứng lên phá kho thóc Nhật để chia cho người nghèo. Nhân dân, dưới sự giác ngộ của Đảng, đã nhận ra bộ mặt thật của kẻ thù xâm lược. Họ ý thức được sứ mệnh của mình và tìm đến Cách mạng như một con đường tất yếu. Điều tinh tế của Kim Lân là không ép buộc Tràng tham gia Cách mạng ngay lập tức, mà chỉ dừng lại ở nhận thức ban đầu của Tràng về Việt Minh. Quá trình nhận thức này diễn ra một cách tự nhiên, phù hợp với logic của câu chuyện.
Thứ ba, kết thúc truyện của Kim Lân còn là một kết thúc "sáng", đậm tính nhân văn. Trong văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm đã để lại những kết thúc đầy ám ảnh và bi thương. Chí Phèo phải chết trong đau đớn sau khi thức tỉnh lương tri. Chị Dậu phải chạy trốn trong đêm tối "như cái tiền đồ của chị" dù đã có lúc đứng lên đấu tranh. Số phận của họ đều rơi vào bế tắc, không lối thoát. Không phải vì Nam Cao hay Ngô Tất Tố không thương xót nhân vật của mình, mà vì các nhà văn thời đó chưa nhìn thấy ánh sáng của Cách mạng, chưa thấy được khả năng đổi đời của người nông dân. Còn Kim Lân, viết tác phẩm này sau khi hòa bình lập lại, đã nhận thức rõ vai trò của Cách mạng và khả năng cách mạng của người nông dân. Ông hướng họ đến ánh sáng của Đảng, mở ra một tương lai tươi sáng hơn, dù chỉ là "ánh sáng le lói cuối đường hầm".
Phân tích ý nghĩa đoạn kết tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 2
Kim Lân là nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, con người, đồng ruộng. Theo nhận xét của Nguyên Hồng, ông "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn". Trong những trang văn của ông, hình ảnh làng quê bình dị và những con người lam lũ, vất vả nhưng giàu nghị lực sống hiện lên vô cùng sống động. "Vợ nhặt" là truyện ngắn nổi tiếng của Kim Lân, viết về những người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tác phẩm không chỉ phản ánh cái đói, cái nghèo mà còn thắp lên ngọn lửa hy vọng, niềm tin vào tương lai tươi sáng. Điều này được thể hiện rõ nét qua kết thúc của truyện.
Trong bữa cơm ngày đói, khi không khí trùng xuống vì miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ", tiếng trống thúc thuế vang lên từng hồi. Người vợ nhặt đã chủ động trò chuyện để xua tan đi những ám ảnh đói khát. Thị kể về câu chuyện người dân miền ngược phá kho thóc Nhật để chia cho dân đói: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang... người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Thông tin này đã làm không khí gia đình trở nên nhẹ nhàng hơn, mọi người bị thu hút vào câu chuyện, đặc biệt là anh Tràng. Trong đầu anh hiện lên cảnh "những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp" và hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Câu chuyện khép lại trong những hình ảnh đầy gợi mở ấy, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc.
Hình ảnh đám người đói xuất hiện trong tâm trí Tràng không gợi ra sự ám ảnh đói khát, mà ngược lại, nó đánh thức một điều gì đó mới mẻ bên trong anh. Tràng bắt đầu có những nhận thức về hành động của bản thân và tiến gần hơn đến con đường cách mạng. Chỉ có đứng lên đấu tranh chống lại áp bức, bạo tàn, anh mới có thể bảo vệ được hạnh phúc và sự bình yên của những người thân yêu. Kết thúc mở của truyện gợi nhiều suy ngẫm, liên tưởng cho người đọc. Dù tương lai của gia đình Tràng chưa rõ ràng, nhưng chúng ta có quyền tin tưởng vào một tương lai tươi sáng, không còn đói khát và chết chóc.
Cách kết thúc truyện cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Kim Lân. Ông tin tưởng và trân trọng sức sống mãnh liệt bên trong con người. Dù trong cảnh khốn cùng nhất, khi đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, con người vẫn không tuyệt vọng mà luôn hướng về những điều tốt đẹp trong tương lai. Kim Lân cũng thể hiện niềm tin vào cách mạng, tin rằng đây là con đường sáng giúp con người thoát khỏi đói nghèo, bất công. Đây là một nét tiến bộ của ông so với các nhà văn trước đó. Nếu Chí Phèo chỉ còn cách tự kết liễu sinh mạng trong tuyệt vọng, thì Tràng có thể đi theo cách mạng để thay đổi cuộc sống của mình.
Cách kết thúc truyện ngắn "Vợ nhặt" thật độc đáo và gợi nhiều liên tưởng. Chỉ qua hai hình ảnh thoáng hiện trong tâm trí Tràng, Kim Lân đã làm cho bức tranh ngày đói trở nên tươi sáng, lạc quan. Số phận của nhân vật vẫn là một dấu hỏi lớn, nhưng lại gieo vào lòng người đọc niềm hy vọng vào tương lai tốt đẹp. Đây chính là tài năng và thành công lớn nhất mà Kim Lân thể hiện trong tác phẩm của mình.
Suy nghĩ về kết thúc của truyện Vợ nhặt - Mẫu 3
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, với vốn hiểu biết sâu sắc và sự gắn bó mật thiết với cuộc sống nông thôn, ông đã tái hiện chân thực cuộc sống và số phận của người nông dân qua những sự kiện nổi bật trong tác phẩm của mình. "Vợ nhặt" là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân, viết về nạn đói năm 1945. Kết thúc của truyện mang tính đặc biệt, gợi nhiều liên tưởng và khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Trong bữa cơm ngày đói, để xóa đi bầu không khí trầm lặng vì ám ảnh đói khát, người vợ nhặt đã kể về chuyện đoàn người đói phá kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Lắng nghe câu chuyện của vợ, trong tâm trí Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới. Hình ảnh này không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mang đến nhiều liên tưởng sâu sắc, củng cố vững chắc cho nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ xuất hiện thoáng chốc trong tâm trí Tràng không chỉ phản ánh cảnh ngộ đói khát thê thảm của người dân nghèo mà còn mang đến tín hiệu rõ nét về cuộc cách mạng. Chỉ có đứng lên đấu tranh, chống lại áp bức, người dân mới có thể bảo vệ được sự sống của bản thân và những người thân yêu. Kim Lân đã khéo léo tái hiện thực trạng xã hội lúc bấy giờ qua kết thúc truyện mang tính gợi mở.
Kết thúc truyện cũng thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân khi ông trân trọng sức sống mãnh liệt của con người ngay cả khi họ đứng trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Nhà văn còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng khi cách mạng thành công, khi con người được giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân phong kiến.
Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ gợi liên tưởng về một tương lai đầy hy vọng, khi con người đứng lên bảo vệ cuộc sống của mình. Cách kết thúc này không chỉ mang âm hưởng lạc quan mà còn khơi gợi niềm tin vào sự đổi thay tích cực trong tương lai.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" kết thúc mở, gợi nhiều liên tưởng và suy ngẫm, thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được khắc họa trong câu chuyện. Đây là một trong những thành công lớn của Kim Lân trong việc truyền tải thông điệp nhân văn và lạc quan đến người đọc.
Suy nghĩ về kết thúc của truyện Vợ nhặt - Mẫu 4
Mỗi câu chuyện khép lại đều mang theo một thông điệp nhân văn sâu sắc và bài học quý giá mà người đọc có thể tự rút ra cho mình. Những tác phẩm để lại dấu ấn và trụ vững với thời gian chắc chắn là những tác phẩm xuất sắc. "Vợ nhặt" của Kim Lân là một trong những tác phẩm như thế. Với ngòi bút tài hoa, Kim Lân đã khắc họa rõ nét bối cảnh cuộc sống và tâm trạng của người dân trong nạn đói năm 1945. Đặc biệt, kết thúc truyện đã mở ra một góc nhìn mới, đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.
Kim Lân vốn là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, với những câu chuyện xoay quanh cuộc sống của người nông dân nghèo khổ. Với ngòi bút hồn hậu, thông minh và hóm hỉnh, ông đã tạo nên "Vợ nhặt", một tác phẩm đầy tính nhân văn và thành công xuất sắc. Câu chuyện không chỉ phản ánh hiện thực khắc nghiệt mà còn khơi gợi niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Nếu kết thúc truyện "Chí Phèo" của Nam Cao để lại ám ảnh về sự lặp lại vòng luẩn quẩn của số phận người nông dân dưới ách áp bức phong kiến, thì Kim Lân lại mang đến một góc nhìn khác. Kết thúc của "Vợ nhặt" mở ra một tia hy vọng, một lối thoát cho người nông dân thông qua cách mạng. Đây chính là điểm khác biệt và tiến bộ của Kim Lân so với các nhà văn cùng thời.
Trong khi Nam Cao chưa được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng, Kim Lân đã tiếp cận và thấm nhuần tư tưởng này. Ông nhìn thấy lối thoát cho người nông dân qua cuộc đấu tranh giải phóng. Điều này làm nên sự khác biệt và mới mẻ trong cách kết thúc truyện của ông so với các nhà văn trước đó.
Nhân vật Tràng, một chàng trai khờ khạo, sống nhờ ở xóm ngụ cư, bỗng nhiên "nhặt" được vợ giữa những ngày đói khổ. Câu chuyện xoay quanh hành trình của Tràng và những người xung quanh, như bà cụ Tứ và người vợ mới, đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình người trong hoàn cảnh khó khăn. Dù cuộc sống bộn bề, họ vẫn dành cho nhau sự quan tâm, sẻ chia và niềm tin vào hạnh phúc gia đình.
Cuối truyện, Kim Lân đã khéo léo lồng ghép thông điệp về cách mạng qua lời kể của người vợ nhặt. Thị kể về việc người dân miền ngược phá kho thóc Nhật để chia cho dân đói. Thông tin này đã khiến Tràng liên tưởng đến hình ảnh "những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp" và lá cờ đỏ bay phấp phới. Kết thúc mở này không chỉ khẳng định ý nghĩa của cuộc sống mà còn gieo vào lòng người đọc niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Hình ảnh kết thúc truyện, với "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới", không chỉ mang ý nghĩa nội dung sâu sắc mà còn khẳng định giá trị nghệ thuật độc đáo. Nó mở ra một xu hướng vận động tích cực, để người đọc suy ngẫm và phán đoán về tương lai của nhân vật. Âm hưởng lạc quan và niềm hy vọng được thắp lên, làm nên sức sống bền bỉ của tác phẩm.
Ý nghĩa của chi tiết kết thúc truyện thật độc đáo và ấn tượng. Nó không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một chân trời mới, đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai. Qua cách kết thúc này, Kim Lân đã khẳng định mình là một nhà văn nhân đạo, luôn tha thiết với con người và cuộc sống.
Suy nghĩ về kết thúc của truyện Vợ nhặt - Mẫu 5
Văn chương luôn mang trong mình sự sáng tạo, mỗi nhà văn có quyền lựa chọn con đường riêng, và mỗi tác phẩm cũng chứa đựng nhiều tầng nghĩa phong phú. Quá trình tiếp nhận văn học là một hành trình sáng tạo, phụ thuộc vào vốn sống, năng lực và hoàn cảnh của mỗi cá nhân. Chính vì thế, kết thúc của truyện ngắn “Vợ nhặt” là một cái kết mở, tự nhiên và đầy ánh sáng.
Kim Lân được mệnh danh là “con đẻ của đồng ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Những trang viết của ông chân thực về đời sống làng quê, với những thú vui tao nhã mà ông gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân chất phác, hóm hỉnh nhưng đầy tài hoa.
Tác phẩm “Vợ nhặt” có tiền thân từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng Tháng Tám nhưng còn dang dở và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết nên “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản năm 1962).
“Vợ nhặt” phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Dù trong hoàn cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn đùm bọc, yêu thương nhau, khao khát mái ấm gia đình và luôn giữ vững niềm tin vào tương lai.
Truyện kể về cuộc sống của những người dân xóm ngụ cư trong nạn đói, tiêu biểu là gia đình Tràng. Vì cái đói, cái nghèo, Tràng không thể có một đám cưới đàng hoàng, và bữa cơm đón nàng dâu mới cũng thật thảm hại: “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn, họ nghe tiếng trống thúc thuế, và qua lời kể của người vợ, Tràng nhớ lại lần mình gặp Việt Minh: “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Kết thúc này có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Bối cảnh truyện là nạn đói năm 1945, một thời điểm lịch sử đầy bi thương, khi nhân dân ta chuẩn bị cho cuộc cách mạng. Phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo đã trở thành hiện thực. Trong hoàn cảnh đói khát cùng cực, người nông dân nhận ra kẻ thù gây ra đau khổ cho mình là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Họ ý thức được rằng phải đứng lên đấu tranh để tìm con đường sống.
Sự hợp lý của kết thúc nằm ở việc nhân vật chỉ mới bắt đầu nhận thức về cách mạng, như ánh sáng le lói cuối đường hầm. Kim Lân không kết thúc truyện bằng việc Tràng tham gia cách mạng và kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh, vì điều đó có thể gượng ép và thiếu thực tế. Thay vào đó, qua lời kể của người vợ, Tràng nhớ lại hình ảnh đoàn người phá kho thóc và lá cờ đỏ. Quá trình nhận thức diễn ra từ từ, tạo nên một kết thúc phù hợp và tự nhiên.
Kết thúc mở của truyện mang lại nhiều suy ngẫm. Truyện không nói rõ tương lai của Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt sẽ ra sao, mà để người đọc tự hình dung. Kim Lân khéo léo tạo ra một kết thúc “lửng”, khơi gợi sự tìm tòi và suy ngẫm của độc giả. Ánh sáng le lói cuối đường hầm gợi mở nhiều cách hiểu, và người đọc có quyền tin rằng Tràng sẽ theo cách mạng, cùng quần chúng khởi nghĩa, và cuộc sống của anh cùng gia đình sẽ trở nên ấm no, hạnh phúc hơn.
Kết thúc của “Vợ nhặt” khác biệt so với văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Nếu như Nam Cao để Chí Phèo rơi vào bi kịch bế tắc, hay Ngô Tất Tố để chị Dậu đối mặt với tương lai tăm tối, thì Kim Lân lại hướng nhân vật của mình đến ánh sáng của tương lai. Dù trong cảnh đói nghèo, họ vẫn khao khát sự sống và tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Tháng Tám 1945 đã thành công, mang lại niềm tin và động lực cho người nông dân. Kết thúc của “Vợ nhặt” không chỉ phản ánh hiện thực mà còn mở ra một tương lai tươi sáng, ấm no cho con người.
**Lời khuyên dành cho học sinh:** Để hiểu sâu sắc tác phẩm “Vợ nhặt”, các em nên đọc kỹ văn bản, phân tích từng chi tiết nhỏ và liên hệ với bối cảnh lịch sử. Hãy chú ý đến cách Kim Lân xây dựng nhân vật và kết thúc mở của truyện. Việc đặt mình vào hoàn cảnh nhân vật sẽ giúp các em cảm nhận rõ hơn thông điệp nhân văn mà tác giả muốn truyền tải.
- Tài liệu ôn thi Rung chuông vàng lớp 6: Bộ câu hỏi đầy đủ và chi tiết giúp học sinh tự tin chinh phục cuộc thi
- Đoạn văn giới thiệu bộ sưu tập hình ảnh quê hương - 12 bài mẫu dành cho học sinh lớp 6
- Đọc hiểu: Nếu chúng mình có phép lạ - Bài 6, Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều tập 1
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 62 - Cánh diều 7: Chi tiết Ngữ văn lớp 7 tập 2
- Bài đọc: Kì quan đê biển - Sách Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 1, Bài 6