Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà trong 'Người lái đò sông Đà' - Nguyễn Tuân (2 Dàn ý + 16 Bài văn mẫu)
Khám phá vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình của sông Đà trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' của Nguyễn Tuân, bao gồm 2 dàn ý chi tiết và 16 bài văn mẫu đặc sắc.

Mời bạn đọc cùng theo dõi nội dung chi tiết và sâu sắc của tài liệu được trình bày ngay sau đây.
Dàn ý phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
I. Mở bài
- 'Người lái đò sông Đà' là một tác phẩm tùy bút đặc sắc của Nguyễn Tuân, trích từ tập 'Sông Đà'.
- Hình ảnh sông Đà được khắc họa với hai nét tính cách nổi bật: hung bạo và trữ tình. Trong đó, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông hiện lên một cách đậm nét.
II. Thân bài
* Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà
- Thác ghềnh giờ chỉ còn trong nỗi nhớ. Câu văn 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà' mở đầu đoạn với toàn thanh bằng, gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; sự lặp lại trùng điệp tạo nên chất thơ đặc biệt.
- Thiên nhiên hài hòa, trong trẻo và nguyên sơ: Cỏ gianh đồi núi đang ra búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ đẫm sương.
- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn và hư thực của dòng sông.
- Sự tương giao giữa người và cảnh: Tiếng còi, con hươu ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh vật khiến vị tình nhân non nước xúc động giữa thực và mơ.
* Nghệ thuật tài hoa, tinh tế của ngòi bút lãng mạn
- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
- Cái tĩnh ẩn chứa sự bất ngờ qua những biến hóa liên tiếp: thuyền trôi, con hươu vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh vật mang hơi thở vận động của cuộc sống đa chiều.
* Nhà văn hòa mình vào dòng sông, lắng nghe nhịp sống và gửi gắm tình cảm với quê hương đất nước
- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dâng trào cảm xúc về lịch sử và tình cảm với cố nhân: nhắc đến đời Lí, đời Trần.
- Trước vẻ đẹp hoang sơ của dòng sông, nhà văn suy tư về tiếng còi tàu và nhịp sống hiện đại, tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên và con người.
- Nhà văn hòa mình vào dòng sông, đắm chìm trong tình yêu non sông đất nước: nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói của dòng sông, và trôi theo những con đò mình nở.
III. Kết bài
Qua đoạn trích, ta thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa cảnh vật và con người, đồng thời cảm nhận được nét đặc sắc trong văn phong của Nguyễn Tuân. Đọc 'Sông Đà', độc giả càng thêm trân quý tài năng và tấm lòng của một con người luôn đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của mỗi chúng ta.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà một cách ngắn gọn và sâu sắc
Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa và uyên bác, đã để lại ấn tượng sâu đậm qua tác phẩm 'Người lái đò sông Đà'. Tác phẩm không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ, hào hùng mà còn trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc, với hình tượng con sông Đà nổi bật.
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà qua câu văn: 'Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân'. Sử dụng biện pháp so sánh và điệp ngữ 'tuôn dài', tác giả khắc họa hình ảnh dòng sông dài vô tận, hòa quyện giữa màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Cách dùng từ 'áng tóc trữ tình' gợi lên hình ảnh dòng sông như một thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha, điểm xuyết bằng những bông hoa gạo đỏ rực.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được thể hiện qua màu sắc nước sông: 'Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa'. Nguyễn Tuân tinh tế miêu tả sự thay đổi màu sắc của dòng sông theo mùa, từ màu xanh ngọc bích lung linh mùa xuân đến màu đỏ ửng mùa thu, gợi lên cảm giác phù sa màu mỡ và tình yêu quê hương.
Nguyễn Tuân ví sông Đà như 'một cố nhân', người bạn cũ lâu ngày gặp lại, mang đến niềm vui khôn xiết. Khi ánh nắng chiếu xuống, nhà văn cảm nhận vẻ đẹp cổ điển của Đường thi: 'Yên ba tam nguyệt há dương châu'. Những câu văn diễn tả niềm vui khi gặp lại sông Đà: 'Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng'.
Nguyễn Tuân so sánh 'bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa'. Hình ảnh 'bờ tiền sử' và 'nỗi niềm cổ tích' gợi lên vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thủy của dòng sông. Thiên nhiên hai bên bờ tràn đầy sức sống: 'một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp', cùng với 'đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm'.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ là một dòng sông hung bạo, dữ dội mà còn mang vẻ đẹp thơ mộng, nhẹ nhàng, đầy chất trữ tình.
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Tuân, nhà văn duy mỹ – người 'suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp' (Nguyễn Đăng Mạnh), đã khắc họa thiên nhiên và con người qua những trang viết sống động. 'Người lái đò sông Đà' là tác phẩm tiêu biểu, nơi sông Đà hiện lên vừa hung bạo như 'loài thủy quái nham hiểm', vừa dịu dàng, say đắm như mỹ nhân Tây Bắc. Đoạn văn sau đây là minh chứng cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang.
Đoạn trích 'Người lái đò sông Đà' từ tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả từ chuyến đi 8 tháng của Nguyễn Tuân đến Tây Bắc. Thiên nhiên hùng vĩ và đầy chất thơ nơi đây, đặc biệt là con sông Đà, đã để lại ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt nhờ ngôn từ phong phú, đa dạng, tái hiện sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, cùng hình tượng người lái đò mang cốt cách nghệ sĩ.
Phần đầu đoạn trích tập trung miêu tả sự hung bạo, hiểm nguy của sông Đà với cảnh đá dựng bờ sông, ghềnh Hát Loóng 'nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió', những hút nước rùng rợn, thác đá gào thét. Phần cuối, tác giả chuyển sang vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ trên cao, ví dòng sông như người đàn bà kiều diễm với 'áng tóc trữ tình' đằm thắm: 'con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.' Điệp ngữ 'tuôn dài' mở ra độ dài vô tận của dòng sông, phép so sánh 'áng tóc trữ tình' gợi lên vẻ đẹp diễm tuyệt, vừa thực vừa mộng.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn thể hiện qua sắc nước. Nguyễn Tuân say sưa miêu tả: 'Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà.' Mùa xuân, nước sông 'xanh ngọc bích', mùa thu 'lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.' Sự thay đổi sắc nước theo mùa làm nổi bật vẻ đẹp đa dạng và dữ dội của dòng sông.
Quan sát ở điểm nhìn gần, Nguyễn Tuân ví sông Đà như 'cố nhân', gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Ánh nắng chiếu xuống dòng sông gợi lên vẻ đẹp cổ thi: 'Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.' Sông Đà trong cảm nhận của tác giả 'vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.' Bờ sông hiện lên như thế giới cổ tích, 'hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.'
Bờ sông còn nổi bật với thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ, nhà văn miêu tả: 'một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.' Đàn hươu 'cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm' tạo nên bức tranh thủy mặc lộng lẫy, đầy chất thơ và họa.
Đoạn trích khép lại với hình ảnh 'tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến' và liên tưởng đến thơ Tản Đà: 'bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết.' Sông Đà hiện lên quyến rũ, giàu sức hút và linh hồn.
Đoạn văn sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, nhân cách hóa, liên tưởng độc đáo. Từ ngữ chọn lọc, hình ảnh lãng mạn, kết hợp kiến thức hội họa và thơ ca, giúp Nguyễn Tuân tái hiện sức sống mãnh liệt của sông Đà – mỹ nhân thơ mộng và trữ tình.
Sông Đà không chỉ là dòng sông hiểm nguy với 'trăm bảy thác, trăm ba ghềnh', mà còn là dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Ông miêu tả sông Đà như công trình nghệ thuật, tác phẩm hội họa mà tạo hóa ban tặng. Trang sách khép lại, nhưng tâm hồn độc giả vẫn trôi mênh mang trên dòng sông 'hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.'
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Tuân, một cây bút tài hoa và uyên bác trong nền văn học Việt Nam, đã khắc họa hình tượng sông Đà với hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình. Trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà', vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, làm nổi bật thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút tinh tế của ông.
Vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ dịu dàng, như một người đàn bà kiều diễm: 'Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.' Hình ảnh này không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp hung bạo của dòng sông mà còn khắc họa nét thơ mộng, trữ tình đầy quyến rũ.
Nguyễn Tuân còn tinh tế phát hiện sắc màu đa dạng của nước sông Đà: 'Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa.' Sự thay đổi màu sắc theo mùa, từ làn mây mùa xuân đến ánh nắng mùa thu, tái hiện dòng sông hiền hòa, trong sáng và đầy tình tứ. Cảnh đẹp hai bên bờ sông cũng được miêu tả với vẻ 'hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa,' tạo nên không gian thơ mộng, trữ tình.
Qua cách nhìn độc đáo của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một 'cố nhân' - người bạn thân thiết từ xưa. Dòng sông mang chất 'đằm đằm ấm ấm' thân quen, thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên: 'trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.'
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Tuân mà còn làm nổi bật phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tác của ông - một nghệ sĩ luôn say mê tìm kiếm cái đẹp toàn bích. Qua đó, hình tượng người lái đò - người lao động bình dị với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ - cũng được khắc họa rõ nét.
Bằng cảm nhận tinh tế, ngôn từ độc đáo và lối văn tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà. Dòng sông trở thành biểu tượng của tình yêu quê hương, đất nước, đồng thời thể hiện khát khao đi tìm và sáng tạo cái đẹp của tác giả.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét: 'Nguyễn Tuân là định nghĩa về người nghệ sĩ.' Tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' là minh chứng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông, với hình tượng sông Đà nổi bật, mang vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình.
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà qua câu văn: 'Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.' Hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp điệp ngữ 'tuôn dài' mở ra trước mắt người đọc dòng sông dài vô tận, hòa quyện giữa màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Cách dùng từ 'áng tóc trữ tình' gợi lên hình ảnh sông Đà như một thiếu nữ với mái tóc dài thướt tha, điểm xuyết bằng hoa ban trắng và hoa gạo đỏ rực.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn thể hiện qua màu sắc nước sông: 'Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa.' Nguyễn Tuân như một họa sĩ, kiên nhẫn quan sát sự thay đổi của dòng nước. Mùa xuân, nước sông mang màu xanh ngọc bích lung linh; mùa thu, nước đỏ ửng như da mặt người say rượu, gợi lên cảm giác phù sa màu mỡ và tình yêu quê hương.
Từ không gian bao quát, Nguyễn Tuân đưa người đọc đến gần hơn với sông Đà, ví dòng sông như 'một cố nhân' - người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Khi ánh nắng chiếu xuống, nhà văn cảm nhận vẻ đẹp cổ điển của Đường thi: 'Yên ba tam nguyệt há Dương Châu.' Niềm vui khi gặp lại sông Đà được diễn tả qua câu văn: 'Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.'
Đoạn văn tiếp tục khắc họa vẻ đẹp trữ tình của sông Đà: 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà' - câu văn toàn thanh bằng, gợi sự thanh bình, tĩnh lặng. Nguyễn Tuân so sánh 'bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa,' gợi lên vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thủy của dòng sông.
Nguyễn Tuân còn vẽ nên bức tranh thiên nhiên hai bên bờ sông Đà: 'một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.' Đàn hươu 'cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm' tạo nên bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp, đầy sức sống và chất thơ.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ là dòng sông hung bạo, dữ dội mà còn mang vẻ đẹp thơ mộng, nhẹ nhàng. Hình ảnh sông Đà là một trong những sáng tạo thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.
Bài văn mẫu số 4
Nguyễn Tuân, nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, đã thể hiện sự thay đổi phong cách qua từng giai đoạn sáng tác, đặc biệt trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà'. Tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của sông Đà mà còn làm nổi bật vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều góc độ. Từ trên cao, dòng sông hiện lên như 'một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo.' Phép so sánh giàu chất thơ và họa đã làm nổi bật vẻ dịu dàng, kiêu sa của sông Đà. Mùa xuân, nước sông mang màu xanh ngọc bích; mùa thu, nước 'lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.'
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một 'cố nhân' với cảnh quan hai bên bờ gợi cảm: lá non nhú trên nương ngô, đàn hươu 'ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương.' Dòng sông gợi lên nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: 'Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.' Sự tương giao giữa người và cảnh được thể hiện qua tiếng còi, con hươu ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà, tạo nên cảm xúc chân thực và mơ màng.
Nguyễn Tuân say mê miêu tả sông Đà với tình yêu thiết tha, lòng ngưỡng mộ và trân trọng. Ông hóa thân vào dòng sông, lắng nghe nhịp sống cuộc đời, để nhớ, để thương cho quê hương đất nước. Ngòi bút lãng mạn, tài hoa của ông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
Tác phẩm là áng văn tiêu biểu của Nguyễn Tuân. Qua ngòi bút tài tình, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, dịu dàng và xinh đẹp. Tác phẩm góp phần làm giàu đẹp kho tàng văn học Việt Nam, để lại nhiều giá trị và bài học cho thế hệ mai sau.
Bài văn mẫu số 5
Sau khi vượt qua thác ghềnh, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp gợi cảm, trữ tình và đầy chất thơ. Dòng sông trở thành nguồn cảm hứng cho cuộc sống con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp yên ả, thi vị của dòng sông này. Qua bao thác ghềnh, sông Đà trở nên hiền hòa, mềm mại và uyển chuyển hơn bao giờ hết.
Từ trên cao nhìn xuống, Tây Bắc hiện lên như một thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều, với sông Đà là mái tóc mềm mượt của cô gái đang khao khát thanh xuân. Nguyễn Tuân miêu tả dòng chảy uốn lượn của sông Đà tựa như áng tóc buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Câu văn dài, ít ngắt quãng, gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc thiếu nữ. Từ ngữ mượt mà cũng làm nổi bật dòng chảy êm đềm của con sông mang linh hồn Tây Bắc: 'Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.' Hai từ 'tuôn dài' được lặp lại không phải là lỗi, mà là cách để dòng sông 'tuôn dài' giữa núi rừng và lòng người. Nguyễn Tuân khéo léo gợi lên thần sắc mây trời Tây Bắc, màu hoa ban trắng xóa và hoa gạo đỏ tươi, đặc trưng của miền núi rừng hùng vĩ.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm khác nhau, phát hiện màu nước thay đổi theo mùa, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Ông đặc biệt chú trọng sắc nước sông Đà vào mùa xuân và mùa thu. Mùa xuân, nước sông 'xanh ngọc bích,' trong vắt và long lanh như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp đất trời. Mùa thu, nước sông 'lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa,' mang sắc thái giận dữ, bực bội. Cách so sánh độc đáo này khiến dòng sông có linh hồn, xúc cảm, như một con người thực thụ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một 'cố nhân.' Ông kể lại nỗi nhớ thèm khoảng không gian thoáng đãng trên sông Đà khi lạc vào rừng sâu Tây Bắc. Khi gặp lại sông Đà, ông cảm thấy 'vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.' Sông Đà trở thành người bạn tri kỷ, gắn bó sâu sắc với tâm hồn nhà văn.
Nguyễn Tuân thay đổi điểm nhìn, đặt mình vào vị trí người khách đi thuyền trên sông Đà, từ đó khám phá vẻ đẹp độc đáo của cảnh vật hai bên bờ. 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà' - câu văn toàn thanh bằng, gợi sự êm ái, thanh bình. Cảnh vật ven sông 'lặng tờ,' như thể thời gian ngừng trôi từ đời Lí, Trần, Lê. Hai bên bờ, cảnh vật yên ả, tràn đầy sức sống: nương ngô non, cỏ gianh xanh mơn mởn, đàn hươu thơ ngộ 'cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.' Khung cảnh hiện lên như bức tranh thần tiên, hoang sơ và cổ kính.
Đoạn văn miêu tả cảnh hai bên bờ sông Đà là một trong những đoạn văn mượt mà, ngọt ngào và thơ mộng nhất trong tác phẩm. Câu văn êm trôi, không khí mơ màng khiến người đọc đắm say, ngây ngất. Bờ sông hiện lên như một thế giới cổ tích, hoang sơ và hồn nhiên, khiến ta như lạc vào câu chuyện thần tiên năm nào.
Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Tuân, người 'suốt đời đi tìm cái đẹp,' đã khắc họa thiên nhiên và con người qua những trang viết sống động. 'Người lái đò sông Đà' là tác phẩm tiêu biểu, nơi sông Đà hiện lên vừa hung bạo như 'loài thủy quái nham hiểm,' vừa dịu dàng, say đắm như mỹ nhân Tây Bắc.
Tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' được sáng tác trong chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân lên vùng núi Tây Bắc, vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chuyến đi năm 1958 đã giúp ông hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc, trở thành nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác.
Phần đầu đoạn trích tập trung miêu tả sự hung bạo, hiểm nguy của sông Đà với cảnh đá dựng bờ sông, ghềnh Hát Loóng 'nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,' những hút nước rùng rợn, và thác đá gào thét. Phần cuối, tác giả chuyển sang vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ trên cao, ví dòng sông như người đàn bà kiều diễm với 'áng tóc trữ tình' đằm thắm: 'Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.' Hình ảnh so sánh và điệp ngữ 'tuôn dài' làm nổi bật vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn thể hiện qua sắc nước. Nguyễn Tuân say sưa miêu tả: 'Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà.' Mùa xuân, nước sông 'xanh ngọc bích,' mùa thu, nước 'lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.' Sự thay đổi sắc nước theo mùa làm nổi bật vẻ đẹp đa dạng và dữ dội của dòng sông.
Nguyễn Tuân ví sông Đà như 'một cố nhân,' người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Khi ánh nắng chiếu xuống, nhà văn cảm nhận vẻ đẹp cổ điển của Đường thi: 'Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.' Niềm vui khi gặp lại sông Đà được diễn tả qua câu văn: 'Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.'
Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết: 'một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.' Đàn hươu 'cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm' tạo nên bức tranh thủy mặc lộng lẫy, đầy sức sống và chất thơ.
Đoạn trích khép lại với hình ảnh 'tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến' và liên tưởng đến thơ Tản Đà: 'bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết.' Sông Đà hiện lên quyến rũ, giàu sức hút và linh hồn.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo hóa ban tặng. Trang sách khép lại, nhưng tâm hồn độc giả vẫn trôi mênh mang trên dòng sông 'hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.'
Bài văn mẫu số 2
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất đã đồng hành cùng con người, hóa thân vào văn chương thành vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Từ sông Mã gầm khan trầm uất đến sông Đuống cuộn trôi mang bao hình ảnh xứ sở, Nguyễn Tuân trong 'Người lái đò sông Đà' đã đưa người đọc vượt thác ghềnh rồi thả hồn trôi xuôi trên dòng sông Đà trữ tình: 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà… trên dòng trên.'
Nếu ví 'Người lái đò sông Đà' như bản trường ca với những cung bậc mãnh liệt, réo rắt, thì đoạn văn này là khúc ca êm ái nhất. Đoạn văn như một bài thơ, với ý tưởng, vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở đây, con thuyền không chỉ là phương tiện mà còn là thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ, mang tứ thơ êm đềm, dịu dàng.
Nguyễn Tuân so sánh để mở rộng trí tưởng tượng: 'Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.' Từ hình ảnh cụ thể 'bờ sông,' ông gợi lên những điều vô hình như 'bờ tiền sử,' 'nỗi niềm cổ tích tuổi xưa,' tạo nên sự hoang vắng, xa xăm và xôn xao cảm xúc.
Tác giả nhắc đến tuổi thơ, ý văn tiếp nối khi miêu tả sông Đà 'loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy.' Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên, và dòng sông là chứng nhân của lịch sử, của những biến đổi thăng trầm. Nguyễn Tuân nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, hướng về truyền thống khi nói về sự 'lặng tờ' của dòng sông.
Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh 'bờ sông – bờ tiền sử.' Khi nhà văn 'thèm được giật mình vì tiếng còi xe lửa,' tương lai đã náo nức reo vui. Văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này sang thế giới khác một cách uyển chuyển, khéo léo, từ cái hữu hình thức dậy những cái vô hình bao la.
Nguyễn Tuân so sánh vật thể với tình cảm, cảm xúc: 'Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương… Con sông như đang lắng nghe…' Ông nhập thân vào dòng sông, lắng nghe và xúc động, lòng dâng đầy chất thơ. Thế giới vật chất và tinh thần hòa quyện qua những liên tưởng của nhà văn.
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện qua cách viết văn như thơ. Câu mở đầu 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà' với toàn thanh bằng, như câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng 'tôi trôi' và điệp âm 't' gợi hình ảnh con thuyền nổi bềnh trên mặt sông. Những thanh bằng tạo khoảng lặng cho cảm xúc, như thuyền trôi mà không trôi, tình cảm cứ đọng mãi.
Cụm từ 'thuyền tôi trôi' như điệp khúc bằng lặng xuyên suốt đoạn văn. Câu văn khi dài, khi ngắn, linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh, lúc chậm của sông Đà. 'Thuyền tôi trôi qua một nương ngô…', 'thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…' khiến hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư.
Câu 'Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa' xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ, như khép lại cảm xúc đang dâng trào. Những thanh bằng trong câu văn tạo khoảng lặng, ghi nhận ánh nhìn của chú nai tơ. Từ láy 'chăm chăm,' 'lừ lừ,' 'lững lờ,' 'xa xôi,' 'êm êm' gợi cảm, tạo nhạc, thấm đẫm chất thơ.
Chất thơ mơ mộng bao trùm cảnh sông với hình ảnh nai tơ, lá ngô non, nõn búp, búp cỏ gianh, đàn cá dầm xanh. Cảnh sắc như từ thế giới cổ tích hiện về, vừa chân thực vừa hư ảo, bảng lảng lớp sương huyền hồ của 'cỏ gianh đẫm sương đêm,' 'áng cỏ sương,' và 'tiếng còi sương.'
Những câu văn tươi xanh như đánh thức phần non tơ nhất của hồn người, gợi nhớ ý thơ của Xuân Diệu: 'Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non.' Đây là buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và lòng người. Mỗi câu văn 'đẫm sương' là một nét vẽ, hòa quyện nhưng tách bạch rõ ràng.
Nguyễn Tuân đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của đồng cỏ mênh mông nhuộm đen cả đoạn văn – bài thơ của ông. Nếu Nguyễn Du tả ngọn cỏ như minh chứng cho sự đồng điệu của thiên nhiên với con người, thì Nguyễn Tuân đã nâng ngọn cỏ lên tầm nghệ thuật.
Đoạn văn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến mức tác giả cảm nhận được tiếng cá quẫy: 'Tiếng cá đập nước sông đùa mất đàn hươu vụt biến.' Đó là khoảng lặng trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hứng lấy âm thanh nên thơ của sự sống.
Đàn hươu hiện ra rồi chạy mất, như thể trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nên hiền lành, thơ ngây. Từ màu xanh mênh mang của ngô non, áng cỏ, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá, vận dụng nghệ thuật hội họa cổ điển để khám phá vẻ đẹp thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền, tác giả bỗng 'thèm được giật mình vì một tiếng còi sương.' Đặt trong bối cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, câu văn như tiếng reo náo nức trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã viết nên những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương, dù là âm thanh trong tâm tưởng, lại thể hiện ước vọng rất thực của nhà văn. 'Thèm được nghe một tiếng còi xe lửa' đã quý, như Chế Lan Viên từng viết.
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
(Tiếng hát con tàu).
Nhưng 'thèm giật mình' càng quý hơn, bởi Nguyễn Tuân khao khát cảm giác khi nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta từng trân trọng cái 'giật mình' vì phẩm giá của Kiều, cảm thông nỗi nhớ của Tú Xương khi 'vẳng nghe tiếng ếch,' nay lại nâng niu thêm cái 'giật mình' ước vọng tương lai của tác giả sông Đà. Đoạn văn của Nguyễn Tuân đã trở thành văn chương mới của thời đại mới.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân 'xê dịch' để tìm cảm giác mới lạ, trốn tránh trách nhiệm. Sau ngày đổi đời, ông đi tìm hình ảnh quê hương và nhận lấy trách nhiệm. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới. Văn Nguyễn Tuân đã 'hợp lưu' với lòng người đọc nhờ những suy nghĩ như thế. Tiếng còi sương của ông, mái nhà sơn của Tố Hữu, 'Ngói mới' của Xuân Diệu… góp thành sắc màu mới của thơ văn phản ánh quê hương đất nước.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông làm tăng chất thơ: 'Dải sông Đà bọt nước lênh đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.' Nguyễn Tuân chọn câu thơ trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với dòng sông. Câu thơ hòa quyện với văn Nguyễn Tuân, 'đề thơ' vào sóng nước Đà giang, khẳng định sự tồn tại của một sinh thể có hồn, coi sông Đà như bạn đồng hành.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương làm thiên nhiên đẹp lên bội phần. Sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng con người, như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân là hành trang của dân tộc trên con đường đi tới tương lai.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Tuân, một người tự do và phóng khoáng, quan niệm rằng cuộc đời là một cuộc chơi lớn, và viết lách cũng là một phần của cuộc chơi đó. Đối với ông, đi và khám phá đã trở thành một triết lý sống từ thời trẻ trước Cách mạng. Trong tác phẩm "Vang bóng một thời", Nguyễn Tuân nhìn thấy vẻ đẹp của quá khứ qua những sinh hoạt bình dị, gần gũi mà con người thường bỏ qua. Đó là những thú vui tao nhã, những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam như uống trà ("Những chiếc ấm đất", "Chén trà trong sương sớm"), uống rượu ("Hương cuội"), chơi đẹp ("Thả thơ", "Đánh thơ", "Một cảnh thu muộn"), tài nghệ đẹp ("Chém treo ngành", "Ném bút chì") và nhân cách đẹp ("Chữ người tử tù"). Những vẻ đẹp này đã bị lãng quên và có thể sẽ không còn được biết đến trong tương lai.
Vẻ đẹp luôn tồn tại mãi mãi trong tâm trí chúng ta, và vẻ đẹp của "Vang bóng một thời" như Vũ Ngọc Phan từng nói: "Tiếng vang của thời đã qua, bóng của thời đã qua, mà ngày nay tưởng như văng vẳng". Dù đi đến đâu, dù gặp người lạ hay cảnh lạ, nhà văn vẫn có thể biến chúng thành quen thuộc nhờ tài quan sát và ghi chép tỉ mỉ. Nguyễn Tuân luôn muốn đi mãi trên con đường vô định: "Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi trên đường, với cái luân lý của người khách bộ hành" (Chiếc vali mới). Tâm hồn cô đơn và bất lực của ông trước Cách mạng được thể hiện rõ trong "Thiếu quê hương", khi nhân vật Bạch luôn khao khát được đổi chỗ, rong ruổi trên những con đường dài vô tận.
Hành trình của Nguyễn Tuân cho thấy sự thay đổi lớn trong phong cách viết của ông, đặc biệt là trong "Tùy bút sông Đà" sáng tác năm 1960. Từ hình ảnh một Tây Bắc đầy bí ẩn và lãng mạn, ông đã vẽ nên một bức tranh sống động về con người và cảnh vật nơi đây. Tiêu biểu trong đó là tùy bút "Người lái đò sông Đà" với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và thơ mộng.
Nhà văn Pautopxki từng nói: "Nhà văn là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp." Nguyễn Tuân là một nhà văn chân chính khi dẫn người đọc đến với vẻ đẹp của dòng sông Đà, không chỉ hung bạo mà còn rất trữ tình và thơ mộng.
Hình tượng con sông Đà được miêu tả qua ba góc nhìn: từ trên cao nhìn xuống khi đi tàu bay, từ góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, và từ góc nhìn của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu. Nguyễn Tuân đã khắc họa con sông như một tác phẩm nghệ thuật, một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Mỗi câu văn của ông đều thể hiện sự am hiểu sâu sắc về văn hóa, lịch sử, và nghệ thuật.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc hiện lên như một thiếu nữ duyên dáng, với sông Đà là mái tóc mềm mượt của cô gái ấy. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng chảy uốn lượn của sông Đà như một áng tóc trữ tình buông dài qua núi rừng hùng vĩ. Câu văn dài, ít ngắt quãng, gợi tả độ dài của sông Đà và vẻ đẹp thướt tha của mái tóc thiếu nữ. Phép so sánh độc đáo đã làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, kiêu sa của dòng sông.
Vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà còn được thể hiện qua màu sắc đặc biệt của dòng nước. Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sự thay đổi của màu nước theo từng mùa, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông xanh ngọc bích, mùa thu lại đỏ lừ như da mặt người say rượu. Những câu văn miêu tả màu nước sông Đà đã làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình và thơ mộng của dòng sông.
"Con sông Đà gợi cảm" - câu văn như một lời khẳng định chắc chắn. Qua góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu và góc nhìn của cố nhân, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ và quyến rũ. Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà như một người bạn cũ, một cố nhân thủy chung, luôn đợi chờ người lữ khách.
Leonit Leonop từng nói: "Một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức, một khám phá về nội dung." Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn đưa người đọc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử. Câu văn "thuyền tôi trôi trên sông Đà" toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình. Tác giả đã hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước, làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà.
Theo dòng trôi của con thuyền, người đọc được đưa vào thế giới hoang sơ, tĩnh mịch, với màu xanh bát ngát của đồi gianh và đàn hươu xuất hiện như một nét vẽ tài hoa. Nguyễn Tuân đã so sánh bờ sông Đà như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích xưa, tạo nên những liên tưởng đầy chất thơ và kỳ thú.
Quãng hạ nguồn với khúc sông êm đềm, trở thành dòng sông thi ca với cái nắng tháng ba Đường thi, với cái nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, và với cả cái nắng rực rỡ đã chiếu rọi "xuyên tim" những người đọc tùy bút của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã mở đường cho người đọc khám phá vẻ đẹp trù phú của sông Đà, dù vẻ đẹp ấy còn hoang sơ của đất trời Tây Bắc.
Áng văn sông Đà thơ mộng trữ tình tựa như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hình ảnh con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà "Dải Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" càng làm cho dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, và giàu sức hút.
Bài văn mẫu số 4
Sông Đà không chỉ nổi tiếng với sự hung bạo mà còn mang trong mình vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, từ Thác Bờ trở về xuôi, dòng sông hiền hòa như bất kỳ con sông nào ở vùng đồng bằng. Bên cạnh việc khắc họa sự dữ dội, Nguyễn Tuân còn dành nhiều tâm huyết để miêu tả vẻ dịu dàng, lãng mạn của dòng sông này. Vốn từ vựng phong phú cùng trí tưởng tượng bay bổng đã giúp nhà văn tạo nên những đoạn văn mượt mà, đầy chất thơ.
Để làm nổi bật vẻ trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã mở đầu bằng một câu văn giàu hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đây có thể xem là bức tranh tổng thể về sông Đà, từ dòng chảy ngoằn ngoèo giữa núi đá đến sự êm ả khi về gần miền trung du.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm và không gian khác nhau. Với tình cảm trìu mến, nhà văn đã khám phá sự thay đổi tinh tế của màu nước sông theo từng mùa. Mùa xuân, sông Đà mang màu xanh ngọc bích, vừa trong trẻo vừa óng ánh, khác hẳn với màu xanh canh hến. Khi thu đến, dòng sông lại khoác lên mình một vẻ đẹp riêng biệt.
Nhà văn đã dành những đoạn văn xuất sắc nhất để miêu tả cảnh vật ven sông Đà, làm nổi bật vẻ trữ tình của dòng sông. Những hình ảnh trong sáng, đầy chất thơ được sử dụng một cách tinh tế. Nhịp điệu câu văn khi nhanh, khi chậm, lúc hối hả: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm hân hoan trong lòng tác giả, lúc lại chậm rãi, như trải dài để khắc họa sự tĩnh lặng đầy thi vị: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh này gợi lên vẻ đẹp nguyên sơ, vĩnh hằng của thiên nhiên, như một dòng chảy bền bỉ qua thời gian, mang trong mình dấu ấn văn hóa ngàn đời của dân tộc.
Qua những phân tích trên, có thể thấy Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh sông Đà với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, hoàn toàn khác biệt so với sự hung bạo nơi thượng nguồn.
Bài văn mẫu số 5
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông đều là một bản tình ca về cái đẹp và cuộc sống. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một minh chứng rõ nét cho điều đó. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình. Với sự am hiểu sâu sắc, tình yêu thiên nhiên và niềm đam mê cháy bỏng, Nguyễn Tuân đã biến dòng sông tự nhiên thành một tác phẩm nghệ thuật sống động, mang trong mình tâm hồn và tính cách riêng. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà được tái hiện qua ngòi bút tài hoa của ông, làm say đắm biết bao độc giả.
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà từ nhiều góc nhìn khác nhau. Khi thì từ trên cao, lúc đi máy bay, ông nhìn thấy dòng sông “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, một hình ảnh so sánh độc đáo gợi lên dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển của sông Đà. Khi lại nhìn gần hơn, từ rừng ra hoặc khi đi thuyền trực tiếp trên sông, ông miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại nhấn mạnh chiều dài vô tận của dòng sông, trong khi phép so sánh với “áng tóc trữ tình” lại khắc họa vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng. Hình ảnh mây trời Tây Bắc “cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân” càng làm tăng thêm vẻ huyền ảo, e ấp của dòng sông.
Với tình yêu mãnh liệt dành cho sông Đà, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng sông qua nhiều sắc thái khác nhau. Mùa xuân, nước sông “xanh ngọc bích”, một màu xanh vừa trong trẻo vừa lung linh, như một khối ngọc khổng lồ. Mùa thu, nước sông lại mang màu đỏ như “da mặt người bầm đi vì rượu bữa”, gợi lên sự trù phú của phù sa. Khi đi từ rừng ra, nhà văn lại thấy nước sông “chói lóa như trẻ con nghịch miếng gương chiếu vào mặt trời”, ánh sáng ấy cho thấy sự trong trẻo và ấm áp của dòng sông. Trên bờ bãi, những chú chuồn chuồn, bươm bướm điểm tô thêm vẻ lộng lẫy cho cảnh sắc.
Khi đi thuyền trên sông Đà, Nguyễn Tuân đặc biệt ấn tượng với sự tĩnh lặng của mặt nước, gợi lên không khí cổ kính, huyền bí. Hai bên bờ sông hiện lên với vẻ hồn nhiên, như một câu chuyện cổ tích với hình ảnh “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hay “tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất”. Mặt sông lấp lánh với những con cá nhảy lên “như bạc rơi thoi”, vừa đẹp đẽ vừa trù phú.
Với đôi mắt chan chứa tình yêu và niềm tự hào, Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà như một sinh thể có tâm hồn. Ông ví dòng sông lúc như một cố nhân, lúc lại như một tình nhân trong thơ Tản Đà. Khi gặp lại, ông cảm thấy vui sướng như “nối lại chiêm bao đứt quãng”, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm”. Tình yêu và tài năng của Nguyễn Tuân đã truyền cảm hứng đến người đọc, khiến sông Đà mãi mãi sống trong lòng họ.
Thành công lớn nhất của tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính là bức tranh thiên nhiên sống động, hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của tác giả. Những biện pháp tu từ đặc sắc cùng kho ngôn ngữ phong phú đã biến dòng sông Đà của thiên nhiên thành một kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
.............Xem chi tiết tại file tải dưới đây...........
- Viết đoạn văn kể lại diễn biến một tiết học hoặc buổi tham quan của lớp em - Bài văn mẫu lớp 4
- Văn mẫu lớp 6: Đoạn văn cảm nhận sâu sắc về văn bản Điều không tính trước (2 mẫu) - Tuyển tập bài văn mẫu lớp 6 hay nhất
- Văn mẫu lớp 7: Bình luận sâu sắc câu tục ngữ Trăm hay không bằng tay quen - Kèm dàn ý & 4 bài văn mẫu
- Văn mẫu lớp 7: Đoạn văn liệt kê kết hợp mô hình liên kết 'từ đến' - Tuyển tập bài văn mẫu đặc sắc dành cho học sinh lớp 7
- Tóm tắt tác phẩm Bố của Xi-mông: 11 bài mẫu chọn lọc - Tác giả Mô-pa-xăng