Văn mẫu lớp 12: Khám phá vẻ đẹp hung bạo của dòng sông Đà qua 3 dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu đặc sắc
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của dòng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân, bao gồm 3 dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu đặc sắc.

Hãy khám phá nội dung chi tiết dưới đây để tìm cảm hứng và ý tưởng cho bài viết của bạn.
Dàn ý phân tích vẻ đẹp hung bạo của dòng sông Đà
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.
- Dẫn dắt vấn đề: Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà như một nhân vật có cá tính mạnh mẽ.
2. Thân bài
- Dòng chảy của sông Đà thể hiện sự độc đáo và cá tính: “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu”.
- Bờ sông dựng đứng như vách thành: lòng sông hẹp, “vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, “đúng ngọ mới thấy mặt trời”.
- Ghềnh Hát Loóng: Sóng nước cuộn xoáy, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, tạo cảm giác hỗn loạn và nguy hiểm.
- Tà Mường Vát: Những hút nước khổng lồ “như cái giếng bê tông”, tiếng nước “thở và kêu như cửa cống bị sặc”, thuyền đi qua “như ô tô lao vào vực sâu”.
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Xa: Âm thanh thác đá “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu mộng giữa rừng cháy bùng bùng”.
- Gần: Đá hiểm trở, “nhăn nhúm”, “méo mó”, “hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, như một kẻ thù đầy mưu mẹo: “mai phục”, “chặn ngang”, “đánh tan”, “tiêu diệt”. Sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
- Sự biến hóa của trùng vi thạch trận: 3 vòng vây, mỗi vòng có cửa sinh và cửa tử, thể hiện sự nham hiểm và khôn lường của sông Đà.
- Nhận xét: Sông Đà hiện lên như một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, kẻ thù đáng gờm của con người.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp hung bạo và dữ dội của sông Đà, một hình tượng thiên nhiên đầy sức sống và cá tính.
Sơ đồ tư duy khắc họa hình tượng sông Đà
Mẫu 1

Mẫu 2

Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ đam mê xê dịch, đã khắc họa hình tượng sông Đà đầy cá tính trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Qua ngòi bút tài hoa của ông, con sông hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Trước hết, sông Đà được miêu tả như một dòng sông có cá tính mạnh mẽ, khác biệt: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Trong khi mọi con sông đều chảy về hướng đông, sông Đà lại chọn hướng bắc, thể hiện sự độc đáo và kiêu hãnh của mình. Điều này gợi lên hình ảnh một dòng sông không chịu khuất phục, luôn đi theo con đường riêng.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua những vách đá dựng đứng. Nguyễn Tuân miêu tả: “đá bờ sông dựng vách thành”, lòng sông hẹp đến mức “chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Những hình ảnh này gợi lên sự hiểm trở, khắc nghiệt của thiên nhiên, nơi mà “con hổ con nai có thể vọt qua sông” và chỉ cần một cú ném nhẹ cũng có thể đưa hòn đá từ bờ này sang bờ kia.
Thác nước sông Đà cũng là một biểu tượng của sự hung bạo. Nguyễn Tuân viết: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”. Những hút nước ở Tà Mường Vát được miêu tả như “cửa cống cái bị sặc”, “giếng nước sâu ặc ặc”, lôi tuột bè gỗ và thuyền bè xuống đáy. Sông Đà hiện lên như một con thủy quái, với tiếng gầm rú đáng sợ, luôn đe dọa và thách thức con người.
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng tài ba, điều khiển bản giao hưởng của thiên nhiên. Âm thanh thác nước được miêu tả đa dạng, từ tiếng “oán trách”, “van xin” đến “khiêu khích”, “chế nhạo”. Rồi đột ngột, âm thanh vang lên dữ dội: “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Sự so sánh độc đáo này khiến người đọc như đang chứng kiến một trận chiến khốc liệt giữa thiên nhiên và con người.
Tóm lại, qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hung bạo của sông Đà hiện lên chân thực và sống động. Con sông không chỉ là một thực thể thiên nhiên mà còn là một nhân vật có cá tính, đầy sức mạnh và bí ẩn.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo và dữ dội của dòng sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân
Bài văn mẫu số 1
Đối với Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ là dòng chảy tự nhiên mà còn là “chất vàng” của núi sông Tây Bắc, linh hồn của vùng đất hùng vĩ và bí ẩn. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân đã biến sông Đà thành một sinh thể có tâm hồn, có cá tính, như một nhân vật chính trong câu chuyện về Tây Bắc. Sông Đà hiện lên qua hai nét đặc trưng: hung bạo và trữ tình, từ thượng nguồn đá dựng vách thành đến hạ lưu êm đềm, từ dữ dội đến thơ mộng.
Trước hết, sông Đà hiện lên với vẻ hung bạo, dữ dội, gây không ít khó khăn cho con người. Nguyễn Tuân đã khắc họa phong cảnh Tây Bắc và dòng sông Đà với sự uy nghiêm, hùng vĩ, mang đậm hồn thiêng sông núi.
Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã dẫn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” để khắc họa sự ngang ngược của dòng sông. Trong khi mọi con sông khác đều chảy về hướng đông, sông Đà lại chảy ngược về hướng bắc, thể hiện cá tính mạnh mẽ và độc đáo. Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, và Phú Thọ. Sự ngang ngược của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho Nguyễn Tuân, phù hợp với phong cách viết về “cái đẹp tuyệt mĩ và dữ dội đến mức khủng khiếp” của ông.
Cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chẹt lòng sông như “một cái yết hầu” là hình ảnh tiếp theo về sự hiểm trở của sông Đà. Ở đoạn này, dòng chảy chưa thực sự dữ dội, nhưng bóng tối và cái lạnh lẽo của nó khiến người qua đây cảm thấy rùng mình. Vách đá cao chẹt lòng sông khiến ánh sáng chỉ có thể chiếu vào lúc giữa trưa, còn lại là bóng tối bao trùm. Nguyễn Tuân so sánh cảm giác lạnh lẽo này với việc đứng ở ngõ hẻm phố thị, tạo nên sự tương phản thú vị giữa thiên nhiên hoang sơ và không khí đô thị.
Xuôi về ghềnh Hát Loóng, sự hung bạo của sông Đà được thể hiện qua hình ảnh “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ, luôn sẵn sàng “đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào qua đây. Ông cảnh báo rằng nếu không cẩn thận, con người sẽ dễ dàng bị dòng nước cuốn đi.
Những cái “hút nước” trên sông Đà là hiểm họa đáng sợ. Nguyễn Tuân miêu tả chúng từ hình dáng đến âm thanh và hậu quả kinh hoàng mà chúng gây ra. Ông so sánh những cái hút nước với “giếng bê tông” và miêu tả âm thanh của chúng như “cửa cống bị sặc”. Sự kết hợp giữa so sánh và nhân hóa khiến hình ảnh trở nên sống động, gợi lên sự đáng sợ của dòng sông. Những cái hút nước này sẵn sàng nhấn chìm bất cứ thuyền bè nào đi qua, và Nguyễn Tuân đã so sánh việc vượt qua chúng như việc lái ô tô qua đoạn đường nguy hiểm.
Hậu quả của việc đi qua những cái hút nước được Nguyễn Tuân dự báo trước: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sức mạnh của thiên nhiên luôn là thách thức lớn đối với con người, và chỉ những người lái đò tài ba mới có thể vượt qua được.
Nguyễn Tuân miêu tả âm thanh của thác nước sông Đà như tiếng gầm rú của thiên nhiên: “Tiếng thác nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Âm thanh này càng trở nên dữ dội hơn khi được so sánh với “tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa đổ lửa”. Đó là âm thanh của sự hùng vĩ nhưng cũng đầy đe dọa.
Khi thuyền tiến gần đến thác, Nguyễn Tuân miêu tả: “Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Sóng bọt trắng xóa che khuất màu xám của đá, tạo nên khung cảnh hùng vĩ nhưng đầy nguy hiểm. Đá ngầm dưới lòng sông được miêu tả như một “thạch trận”, với những cửa sinh và cửa tử, thách thức người lái đò. Nguyễn Tuân nhân hóa những hòn đá, khiến chúng trở nên sống động và đáng sợ: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Cuối cùng, ông khẳng định rằng đây chính là “thạch trận trên sông”, nơi mà người lái đò phải đối mặt với thử thách lớn nhất.
Qua những đoạn văn miêu tả, Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa sự hung bạo của sông Đà mà còn nhấn mạnh vẻ hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Sông Đà không chỉ là thách thức mà còn là nguồn sống, trục giao thông quan trọng góp phần phát triển kinh tế và xã hội vùng núi cao Tây Bắc.
Bài văn mẫu số 2
Ôi những dòng sông bắt nước từ đây
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Những dòng sông của quê hương Việt Nam từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại có một dòng sông riêng để yêu thương và nhớ nhung. Nguyễn Hoàng Cầm say đắm với sông Đuống, Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối với sông Hương, còn Nguyễn Tuân lại dành trọn tình yêu cho sông Đà với vẻ đẹp hung bạo và trữ tình. Bằng niềm đam mê và tài năng, Nguyễn Tuân đã tạo nên kiệt tác “Người lái đò sông Đà”.
Là một trong những cây đại thụ của văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những gì phi thường, tuyệt đỉnh. Ông thích khám phá sự vật đến tận cùng, và trang văn của ông luôn chứa đựng kiến thức uyên bác về lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn chương, thể thao, và quân sự.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã khắc sâu vào tâm trí người đọc ấn tượng về sự ngang ngạnh và khác biệt của sông Đà:
Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc
Ngay sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã liệt kê tên của 73 con thác dữ trên sông Đà. Nhưng sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ nằm ở thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Vách đá sừng sững, lòng sông hẹp và tối om hiện lên rõ nét qua những hình ảnh và so sánh độc đáo của Nguyễn Tuân. Ông miêu tả cảm giác lạnh lẽo và tối tăm khi đi qua quãng sông này, như đứng giữa ngõ hẻm phố thị, tạo nên sự tương phản thú vị giữa thiên nhiên hoang sơ và không khí đô thị.
Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua ghềnh Hát Loóng, nơi “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm”. Nguyễn Tuân nhân hóa dòng sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ, luôn sẵn sàng lấy mạng những người lái đò qua đây. Diện mạo của sông Đà hiện lên như một tên lưu manh, côn đồ, đầy nguy hiểm.
Những cái hút nước trên sông Đà còn đáng sợ hơn, được Nguyễn Tuân miêu tả như những cái giếng sâu hun hút, nước xoáy tít đáy. Ông so sánh chúng với giếng bê tông và miêu tả âm thanh của chúng như tiếng cống bị sặc. Những cái hút nước này sẵn sàng nhấn chìm bất cứ thuyền bè nào đi qua, và Nguyễn Tuân đã so sánh việc vượt qua chúng như lái ô tô qua đoạn đường nguy hiểm.
Nói đến sự hung bạo của sông Đà, không thể không nhắc đến thác nước. Quang Dũng từng miêu tả trong “Tây Tiến”:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Nhưng vẻ hung dữ của thác nước trong thơ Quang Dũng vẫn chưa thấm tháp gì so với miêu tả của Nguyễn Tuân. Ông đã chỉ ra những giọng điệu đáng sợ của thác nước, từ tiếng oán trách, van xin đến khiêu khích, chế nhạo. Âm thanh của thác nước được so sánh với tiếng gầm rú của một ngàn con trâu mộng giữa rừng lửa, tạo nên hình ảnh dữ dội và đáng sợ.
Sông Đà không chỉ uy hiếp người lái đò bằng thác dữ mà còn bày binh bố trận với những hòn đá ngầm. Nguyễn Tuân miêu tả chúng như một đội quân thiện chiến, với những cửa tử và cửa sinh được bố trí khéo léo. Sông Đà hiện lên như một con quái vật khổng lồ, nham hiểm và đầy mưu mô, thách thức mọi người lái đò.
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa tính cách dữ dội của dòng sông mà còn thể hiện khát vọng lớn lao của mình - khát vọng về một công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Ông liên tưởng đến những tua-bin thủy điện trên sông Đà, biến dòng sông thành nguồn năng lượng dồi dào, mang ánh sáng đến khắp đất nước.
Cái đẹp vốn tiềm ẩn trong tự nhiên, nhưng để phát hiện và truyền tải được cái đẹp ấy đến người đọc lại là điều không dễ dàng. Nguyễn Tuân, bằng niềm say mê và tài năng ngôn ngữ, đã giúp chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo mà hùng vĩ của sông Đà, qua đó bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước trong lòng mỗi người.
Bài văn mẫu số 3
Trong tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa những bức tranh thiên nhiên sống động và hấp dẫn của vùng Tây Bắc, nơi núi rừng hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng đầy thơ mộng. Dưới ngòi bút tài hoa của ông, miền đất này hiện lên với những dãy núi trùng điệp, thung lũng vàng óng lúa chín, và muôn hoa khoe sắc. Nhưng nổi bật nhất, được Nguyễn Tuân dành nhiều công sức miêu tả, chính là hình ảnh con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.
Sông Đà được Nguyễn Tuân xây dựng như một “nhân vật” xuyên suốt tác phẩm, tạo nên giá trị độc đáo. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác, sông Đà không còn là một dòng chảy vô tri mà trở thành một sinh thể có cá tính, tâm trạng và hành động phức tạp. Tác giả khái quát: đây là con sông Tây Bắc vừa hung bạo, vừa trữ tình, và hai đặc điểm này được triển khai xuyên suốt tác phẩm.
Sự hung bạo của sông Đà không chỉ thể hiện qua những con thác mà còn qua cảnh sắc hùng vĩ, huyền bí của dòng sông chảy giữa núi rừng Tây Bắc. Như một nhà quay phim tài ba, Nguyễn Tuân vừa cho người đọc thấy bao quát khung cảnh, vừa dừng lại ở những “cận cảnh” tiêu biểu về sự dữ dội của dòng sông.
Đó là những cảnh tượng hiếm thấy, như cảnh đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi mặt trời lên đỉnh đầu, ánh nắng mới lọt xuống lòng sông. Cách so sánh của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng mạnh về vách đá cao vút và lòng sông hẹp. Có chỗ vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu, khiến dòng chảy bị thu hẹp đến mức có thể ném đá từ bờ này sang bờ kia, hay cảnh nai, hổ nhảy qua sông. Ấn tượng về độ cao và sự hiểm trở càng được tô đậm qua chi tiết: ngồi trong khoang đò qua quãng này, dù là mùa hè vẫn cảm thấy lạnh, như đứng ở ngõ hẻm phố thị, ngóng lên khung cửa sổ tầng cao vừa tắt đèn.
Tính hung bạo còn thể hiện qua ghềnh sông, nơi gió, sóng và đá phối hợp uy hiếp con người. Ở ghềnh Hát Loóng, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm”, như luôn sẵn sàng đòi nợ những người lái đò. Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gấp gáp, phản ánh sự chuyển động dữ dội của thiên nhiên.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp, được so sánh như giếng bê tông thả xuống sông. Nước bị hút mạnh tạo ra âm thanh ghê rợn, như tiếng cống bị sặc. Nguyễn Tuân kết hợp tả và kể để tô đậm sự nguy hiểm: nhiều bè gỗ vô tình đi qua đây bị lôi tuột xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi biến mất dưới lòng sông.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước, nơi bày sẵn thế trận chờ đánh chìm thuyền bè. Thác nước được miêu tả như bầy thủy quái hung hăng, khiêu khích, gầm thét như tiếng ngàn con trâu mộng giữa rừng lửa. Đá ngầm dưới lòng sông như quái vật mai phục, sẵn sàng vồ lấy thuyền bè đi qua.
Nguyễn Tuân thổi sự sống vào những hòn đá vô tri, khiến chúng trở nên hung dữ như lũ giặc điên cuồng. Dưới ngòi bút tài hoa, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp man dại và sức mạnh huyền bí. Đó cũng là tiềm năng to lớn của dòng sông khi được con người chinh phục, trở thành “vàng trắng” quý giá của đất nước. Nguyễn Tuân còn nghĩ đến hình ảnh những tua-bin thủy điện, khẳng định vai trò của sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa.
Tóm lại, với tình yêu thiên nhiên đất nước và tài năng nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã đưa sông Đà vào văn học với vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng. Thiên nhiên trong tác phẩm của ông không chỉ là cảnh sắc mà còn là một tác phẩm nghệ thuật vô giá, khiến con người say mê, ngưỡng mộ.
Bài văn mẫu số 4
Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng, nhưng Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi phong cách của ông thay đổi rõ rệt trước và sau năm 1945. Nếu trước đây, ông nổi tiếng với “Chữ người tử tù” và những hoài niệm về cái đẹp xưa, thì sau năm 1945, Nguyễn Tuân lại gây ấn tượng với “Người lái đò sông Đà”, thể hiện tình yêu tha thiết với thiên nhiên và cuộc sống. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà hung bạo ở thượng nguồn.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” in trong tập “Sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến Tây Bắc. Ông khám phá vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây, tìm kiếm “chất vàng mười” trong cuộc sống thường nhật. Qua tác phẩm, Nguyễn Tuân khắc họa sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng nhưng cũng đầy khắc nghiệt, đồng thời ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của người lái đò.
Mở đầu tác phẩm là hai lời đề từ đặc sắc: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông” ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của người lao động. Câu thứ hai, “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu”, nhấn mạnh sự khác biệt của sông Đà khi chảy ngược về phương Bắc, gợi lên cá tính độc đáo của dòng sông. Hai lời đề từ ngắn gọn nhưng đã mở ra một thế giới thiên nhiên kỳ vĩ và đầy bí ẩn.
Nguyễn Tuân miêu tả sự hung bạo của sông Đà qua cảnh vách đá dựng đứng hai bên bờ, chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Ông sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh để khắc họa những khối đá như thành trì kiên cố, đầy nguy hiểm. Tác giả còn kết hợp nhiều giác quan để miêu tả sự hẹp và hiểm trở của dòng sông, khiến người đọc cảm nhận được sự đe dọa tiềm ẩn.
Quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng không kém phần nguy hiểm: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Nguyễn Tuân sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc để tạo nhịp điệu gấp gáp, phản ánh sự dữ dội của sóng gió. Không chỉ đá dựng thành vách, mặt nước cũng trở nên hung tợn, đe dọa bất cứ con thuyền nào qua đây.
Quãng Tà Mường Vát cũng không kém phần hung dữ với những cái hút nước khủng khiếp: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông”. Nguyễn Tuân sử dụng nghệ thuật nhân hóa và so sánh để miêu tả âm thanh ghê rợn của nước, khiến người đọc hình dung ra sự nguy hiểm của những cái hút nước này. Khúc sông này trở thành nỗi ám ảnh với bất kỳ người lái đò nào.
Sự hung tợn của sông Đà còn thể hiện qua dòng chảy dữ dội: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”. Nguyễn Tuân liên tưởng đến cảnh quay phim đầy mạo hiểm, khi người quay phim ngồi trong thuyền thúng và bị cuốn vào xoáy nước. Sự liên tưởng độc đáo này không chỉ làm nổi bật sự hung dữ của dòng sông mà còn mang lại góc nhìn đa chiều, sinh động.
Dù nhiều năm đã qua, phong cách sáng tác “ngông” của Nguyễn Tuân cùng hình tượng sông Đà vẫn in đậm trong lòng độc giả. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” không chỉ là một kiệt tác văn học mà còn là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên và con người của nhà văn, góp phần làm giàu thêm kho tàng văn học Việt Nam.
Bài văn mẫu số 5
Nguyễn Tuân, một bậc thầy văn chương với phong cách độc đáo, thường tập trung vào những khía cạnh mãnh liệt và dữ dội của thiên nhiên và con người. Tác phẩm của ông luôn phản ánh sự hùng vĩ của thiên nhiên, điển hình là “Người lái đò sông Đà”, một đoạn trích từ Tùy bút sông Đà năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc, nơi Nguyễn Tuân khám phá “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người lao động nơi đây.
Trong chuyến công tác Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã gặp sông Đà, một con sông kỳ vĩ và đầy cá tính. Ngay từ lần đầu gặp gỡ, sông Đà đã hiện lên như một người bạn tri kỷ. Tác giả mở đầu đoạn trích bằng hai câu thơ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, thể hiện sự độc đáo của dòng sông.
Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả sông Đà ở thượng nguồn, nơi con sông mang vẻ đẹp hung bạo và đầy thử thách. Tác giả sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ, tiết tấu nhanh để khắc họa sự dữ dội của dòng sông, từ thác đá đến những vách đá dựng đứng hiểm trở.
Để làm nổi bật vẻ hùng vĩ của sông Đà, Nguyễn Tuân miêu tả tỉ mỉ lòng sông, nơi bị chèn ép bởi những vách đá dựng đứng. Ông so sánh lòng sông như một cái yết hầu, chỉ có ánh mặt trời chiếu vào lúc đúng ngọ. Những hình ảnh này khiến người đọc cảm nhận được sự chật hẹp và hiểm trở của dòng sông.
Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn khắc họa cảm nhận của những người đi đò. Họ cảm thấy lạnh lẽo giữa mùa hè, như đứng trước một khung cửa sổ tối tăm. Những vách đá dựng đứng khiến lòng sông trở nên nhỏ bé, chỉ còn một khoảng trời nhỏ xíu. Sự so sánh của tác giả chính xác đến từng chi tiết, khiến người đọc như đang trải nghiệm cùng nhân vật.
Sự hoang sơ và hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua tiếng gió thổi. Nguyễn Tuân miêu tả tiếng gió như tiếng gầm rú của thiên nhiên, mang đến cảm giác rùng rợn. Ông sử dụng cấu trúc trùng điệp để khắc họa hình ảnh con sông đang cuồng nộ, dữ dội, như muốn nuốt chửng mọi thứ.
Những hút nước trên sông Đà cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách sinh động. Chúng giống như những cái giếng bê tông khổng lồ, với tiếng nước thở và kêu như cửa cống bị sặc. Những cánh quạ đàn xoáy tít trên mặt nước càng làm tăng thêm vẻ man rợ của dòng sông.
Hình ảnh những hút nước trở thành nỗi ám ảnh với người lái đò. Họ phải chèo nhanh để lướt qua, nếu không sẽ bị hút xuống và tan xác dưới lòng sông. Nguyễn Tuân đã khắc họa sự nguy hiểm của dòng sông một cách chân thực và đầy kịch tính.
Âm thanh của thác nước cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách độc đáo. Tiếng thác vang lên như tiếng gầm của con sông, ám ảnh tâm trí người đi thuyền. Tác giả sử dụng thủ pháp so sánh để làm nổi bật sự dữ dội của dòng sông.
Tiếng thác nước không chỉ là tiếng gầm rú mà còn mang cảm xúc như con người. Nguyễn Tuân nhân cách hóa dòng sông, khiến nó trở nên sống động với những tiếng oán trách, van xin, và khiêu khích.
Sự hung bạo của sông Đà được thể hiện rõ nét qua tiếng thác nước. Nguyễn Tuân so sánh tiếng thác như tiếng gầm của ngàn con trâu mộng, đang phá rừng lửa. Sự liên tưởng độc đáo của tác giả khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội đến ghê người của dòng sông.
Những bãi đá trên sông Đà cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách sinh động. Ông sử dụng thủ pháp nhân hóa để biến những hòn đá vô tri thành những sinh vật có cá tính. Mỗi hòn đá đều có nhiệm vụ riêng, như đang mai phục để vồ lấy thuyền.
Cá tính của những hòn đá được khắc họa rõ nét qua ngòi bút của Nguyễn Tuân. Mỗi hòn đá đều mang vẻ ngỗ ngược, nhăn nhúm, như đang thách thức con người. Tác giả sử dụng những tính từ miêu tả tính cách con người để làm nổi bật vẻ hung dữ của những hòn đá.
Qua cái nhìn tinh tế của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá trên sông Đà đều mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại. Chúng như những chiến binh được bày binh bố trận, sẵn sàng tuyên chiến với con người. Sự miêu tả này khiến người đọc cảm nhận được sự nguy hiểm và kịch tính của dòng sông.
Hưởng ứng trùng vi thạch trận đá, “mặt nước hò la vang dậy quanh mình”, chỉ cần tay lái yếu là sẽ bị trận địa đá ấy nuốt chửng. Sự hung tợn của trận địa đá ở sông Đà khiến ngay cả ông lái đò dạn dày kinh nghiệm cũng phải gồng mình mới vượt qua được. Dòng sông ấy không chỉ có một vòng vây, mà “nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Nguyễn Tuân miêu tả việc vượt thác sông Đà như cưỡi hổ, đòi hỏi người lái đò phải “nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Chỉ có kinh nghiệm dày dặn mới giúp ông lái đò nắm được quy luật của trận địa mà sông Đà đã bày ra.
Dường như sông Đà đoạn thượng nguồn muốn “nuốt chửng” bất kỳ con đò nào đi ngang qua. Ngay cả khi gần đến cửa sinh, “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nguyễn Tuân khắc họa rõ nét khuôn mặt của những bãi đá sông Đà, “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà khắc sâu vào tâm trí người đọc. Dù đôi lúc nó cuồng nộ, giận dữ như một con quái vật sông, mang đến cảm giác ghê rợn, nhưng đó là một vẻ đẹp hào hùng và kiêu hãnh. Chỉ có ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân mới lột tả được hết vẻ đẹp kiêu sa và hùng vĩ ấy.
Với cái nhìn chân thực và ngôn từ tinh tế, Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc sự cuốn hút đặc biệt của sông Đà. Đọc những dòng tùy bút của ông, ta như được đứng trước dòng sông, cảm nhận sự hung bạo đến đáng sợ của nó. Chính sự dữ dội và gầm gừ của dòng sông đã để lại ấn tượng sâu sắc. Có lẽ Nguyễn Tuân đã thực sự tìm thấy thứ “vàng mười” mà ông luôn khao khát.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo và dữ dội của dòng sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Bài văn mẫu số 1
Kho tàng văn học Việt Nam tự hào với nhiều tên tuổi lẫy lừng, trong đó Nguyễn Tuân nổi bật như một cây bút tài hoa, đặc biệt trong thể loại tùy bút. Tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của ông là một kiệt tác, khắc họa hình ảnh con sông Đà với vẻ đẹp hung bạo và dữ dội, để lại ấn tượng khó phai trong lòng độc giả.
Sự dữ dội của sông Đà không chỉ đến từ thác đá mà còn từ những vách đá dựng đứng, chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ, chỉ cần nhẹ tay ném hòn đá là có thể sang bên kia. Có đoạn, con nai, con hổ còn có thể vọt qua. Mặt sông nơi đây chỉ đón ánh mặt trời vào đúng ngọ. Nguyễn Tuân đã sử dụng đa giác quan để miêu tả sự hiểm trở của dòng sông, nơi mà thiên nhiên luôn ẩn chứa những hiểm nguy chết người.
“Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ bất kỳ người lái đò nào dám khinh suất.” Sự nguy hiểm của sông Đà kéo dài hàng cây số, với những con sóng cuồn cuộn có thể nuốt chửng cả thuyền và người. Nguyễn Tuân sử dụng điệp từ và cấu trúc câu ngắn gọn, tạo nhịp điệu gấp gáp, gợi lên sự hung bạo không ngừng của dòng sông.
Trên đoạn sông Mường Vát, những cái hút nước xuất hiện như những cái giếng bê tông khổng lồ, thở và kêu ặc ặc như cửa cống bị sặc. Những cái hút nước ấy có thể lôi tụt cả thuyền bè xuống đáy sâu. Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa độc đáo để khắc họa sự nguy hiểm chết người của dòng sông, khiến người đọc không khỏi rùng mình.
Vẻ hung bạo và dữ tợn của sông Đà không chỉ khiến người ta e sợ mà còn trở thành nét đặc trưng khó quên. Dù thời gian trôi qua, hình ảnh dòng sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vẫn sống mãi trong lòng độc giả, như một biểu tượng độc đáo của thiên nhiên Tây Bắc.
Bài văn mẫu số 2
Trong tập tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa thơ mộng. Dưới ngòi bút tài hoa của ông, vùng đất này hiện lên sống động với những dãy núi trùng điệp, thung lũng vàng óng lúa chín, và muôn hoa khoe sắc. Nổi bật nhất là hình ảnh con sông Đà, vừa hung bạo vừa trữ tình, được tác giả tập trung miêu tả công phu trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
Sông Đà được Nguyễn Tuân xây dựng như một “nhân vật” xuyên suốt tác phẩm, mang cá tính độc đáo. Không còn là một con sông vô tri, sông Đà hiện lên với tâm trạng và hành động phức tạp. Tác giả khẳng định: đây là con sông Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình. Hai đặc điểm này được triển khai một cách tinh tế trong suốt bài tùy bút.
Sự hung bạo của sông Đà không chỉ đến từ những con thác mà còn từ khung cảnh hùng vĩ, huyền bí của dòng sông chảy giữa núi rừng Tây Bắc. Như một nhà quay phim tài ba, Nguyễn Tuân đưa người đọc từ cái nhìn bao quát đến những “cận cảnh” đầy ấn tượng về sự dữ dội của con sông.
Đó là cảnh tượng hiếm thấy: đá bờ sông dựng vách thành, chỉ khi mặt trời lên đỉnh đầu, ánh nắng mới lọt xuống. Vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu, khiến dòng chảy bị thu hẹp đến mức chỉ cần nhẹ tay ném đá là có thể sang bờ bên kia. Nguyễn Tuân sử dụng đa giác quan và những so sánh táo bạo để khắc họa sự hiểm trở và dữ dội của dòng sông.
Sự hung bạo còn thể hiện qua những ghềnh sông, nơi gió, sóng và đá phối hợp với nhau để uy hiếp con người. Những câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập như tiếng sóng vỗ, gợi lên sự chuyển động gấp gáp và nguy hiểm của dòng sông.
Những cái hút nước khủng khiếp càng làm tăng thêm vẻ hung bạo của sông Đà. Chúng như những cái giếng bê tông khổng lồ, phát ra âm thanh ghê rợn như tiếng nước thở và kêu ọc ọc. Nguyễn Tuân kết hợp giữa tả và kể để tô đậm sự nguy hiểm của những cái hút nước này.
Thác nước sông Đà cũng là một biểu tượng của sự hung bạo. Chúng như một đội quân thủy quái, sẵn sàng tiêu diệt bất kỳ ai dám thách thức. Tiếng thác gầm rú như tiếng ngàn con trâu mộng đang phá rừng, tạo nên một khung cảnh dữ dội và đáng sợ.
Những hòn đá trên sông Đà được Nguyễn Tuân thổi hồn thành những sinh vật hung dữ, sẵn sàng vồ lấy thuyền bè. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên như một thế lực thiên nhiên đầy quyền năng, vừa đáng sợ vừa hấp dẫn.
Tóm lại, với tình yêu thiên nhiên và tài năng nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã đưa sông Đà vào văn học với vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng đầy thơ mộng. Thiên nhiên trong tác phẩm của ông không chỉ là cảnh vật mà còn là một tác phẩm nghệ thuật vô giá, khiến con người say mê.
Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa với lối viết độc đáo và uyên bác, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là một kiệt tác, lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế của ông đến miền Tây Bắc, nơi sông Đà chuẩn bị trở thành "dòng sông ánh sáng". Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên không chỉ trữ tình mà còn mang tính cách hung bạo, dữ dội đầy ấn tượng.
Sông Đà, dòng sông nằm ở phía Tây Bắc, khác biệt với mọi con sông khác khi chảy ngược lên hướng Bắc:
"Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu"
Chảy xuyên qua những cánh rừng rộng lớn và dãy núi cao vút, sông Đà mang trong mình sự hung bạo với những thác ghềnh và xoáy nước kinh hoàng. Nó như một sinh thể sống động, mang tính cách và tâm trạng riêng biệt.
Tính cách hung bạo của sông Đà được thể hiện rõ nét qua những vách đá dựng đứng hai bên bờ sông. Nơi đây, dòng chảy của sông Đà tách đôi dãy núi, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ nhưng cũng đầy hiểm trở. Nguyễn Tuân so sánh vách đá chẹt lòng sông như một "yết hầu", khiến người đọc cảm nhận được sự chật hẹp và dữ dội của khúc sông này. Mặt sông hẹp đến mức chỉ vào giữa trưa, khi mặt trời đứng bóng, ánh nắng mới lọt xuống được.
Nguyễn Tuân còn sử dụng hình ảnh "Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách" để khắc họa sự nguy hiểm của dòng sông. Tuy nhiên, chính sự hiểm trở này lại tạo nên vẻ đẹp kỳ vĩ cho sông Đà. Ông liên tưởng việc ngồi trong khoang đò qua khúc sông này giống như đứng trong một ngõ hẻm, ngóng lên khung cửa sổ vừa tắt đèn điện. Sông Đà lúc này vừa tối tăm, vừa sâu thẳm, khiến con người cảm thấy rợn ngợp, "mùa hè mà cũng thấy lạnh".
Sự hung bạo của sông Đà không chỉ dừng lại ở đó, mà còn được thể hiện qua mặt ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi mặt sông đột ngột nâng cao, khiến nước cạn hơn so với những đoạn khác. Nguyễn Tuân miêu tả: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt". Câu văn giàu hình ảnh và nhịp điệu, khắc họa sự hung bạo của sông Đà với ba thế lực đá, sóng và gió đang gầm thét, đe dọa con người.
Tiếp tục hành trình trên sông Đà, người ta sẽ gặp những cái hút xoáy khủng khiếp ở quãng Tà Mường. Những cái hút này giống như "cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu", với tiếng nước thở và kêu ọc ọc như cửa cống bị sặc. Nguyễn Tuân nhân hóa cái hút xoáy như một con thủy quái khổng lồ, sẵn sàng nuốt chửng bất kỳ thứ gì lọt vào tầm ngắm. Những bè gỗ rừng "nghênh ngang" đi qua cũng bị lôi tuột xuống, tan tác dưới lòng sông.
Nhưng nơi thể hiện rõ nhất sự hung bạo của sông Đà chính là thác đá. Với 73 con thác lớn nhỏ, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả một dòng thác tiêu biểu. Từ xa, tiếng thác đã vang lên như tiếng gầm rú của thiên nhiên, khiến người ta rợn người. Khi đến gần, âm thanh đó biến thành tiếng "rống" của hàng ngàn con trâu mộng đang tuyệt vọng giữa rừng lửa. Sự dữ dội của thác đá sông Đà được khắc họa một cách sống động và đầy ấn tượng.
Thác đá sông Đà hiện lên như một trận địa với những viên đá được nhân hóa thành những chiến binh hung dữ. Mỗi viên đá mang một khuôn mặt "ngỗ ngược", "bệ vệ oai phong", sẵn sàng đánh úp bất kỳ con thuyền nào dám thách thức. Nguyễn Tuân sử dụng nghệ thuật nhân hóa và những thuật ngữ võ thuật để miêu tả cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên, tạo nên một bức tranh đầy kịch tính và hấp dẫn.
Sông Đà, với vẻ đẹp hung bạo và dữ dội, đã trở thành biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, dòng sông này không chỉ là một cảnh quan thiên nhiên mà còn là một nhân vật sống động, mang trong mình cả sự kỳ vĩ lẫn sự đe dọa.
Con sông Đà, "khởi nguồn của ánh sáng", mang trong mình hai mặt đối lập: vừa dịu dàng, êm ả, vừa hung bạo, dữ dội. Nguyễn Tuân đã tái hiện một cách xuất sắc vẻ đẹp kỳ vĩ và tính cách phức tạp của dòng sông này, khiến nó trở thành một trong những hình tượng thiên nhiên đáng nhớ nhất trong văn học Việt Nam.
Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 6
Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh. Với ông, cái đẹp phải đạt đến độ tuyệt mỹ, cái dữ dội phải đến mức khác thường. Sông Đà, với hai tính cách trái ngược nhưng thống nhất, đã đáp ứng được xúc cảm của Nguyễn Tuân. Ở thượng nguồn, con sông hiện lên với vẻ hung bạo, dữ dội đến tột cùng.
Qua từng dòng văn của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ là một dòng sông mà còn là một sinh thể sống động, mang trong mình cả sự kỳ vĩ lẫn sự đe dọa. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã, một vẻ đẹp khiến con người vừa say mê vừa khiếp sợ.
Nguyễn Tuân đã khắc họa một cách tài tình sự hung bạo của dòng sông Đà trong tác phẩm tùy bút này. Con sông với vẻ dữ dội, thác ghềnh hiểm trở:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo của sông Đà không chỉ thể hiện qua dòng chảy ngược ngạo: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy độc đáo, không tuân theo quy luật tự nhiên. Bắt nguồn từ Trung Quốc, con sông này đã vượt qua nhiều dãy núi đá hiểm trở trước khi đổ vào Việt Nam. Ở thượng nguồn, sông Đà mang trong mình vẻ hung dữ với những thác ghềnh, luồng chết, và vực xoáy nguy hiểm. Tuy nhiên, khi xuôi về hạ lưu, dòng sông lại trở nên hiền hòa, êm đềm, với cảnh sắc thơ mộng, lãng mạn. Nguyễn Tuân không chỉ nhìn thấy sự hung bạo của sông Đà qua thác ghềnh mà còn qua những khúc sông hoang vu, huyền bí giữa núi rừng Tây Bắc.
Vẻ hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông dựng thành vách, mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có ánh nắng. Có chỗ vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ, nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã từng vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, dù là mùa hè nhưng vẫn cảm thấy lạnh, như đứng ở hè một ngõ nhỏ ngước nhìn lên khung cửa sổ trên tầng cao vừa tắt đèn.”
Cảnh đá bờ sông được miêu tả như một thành quách sừng sững, với những so sánh độc đáo khiến người đọc như đang đứng trước một con sông đầy hiểm nguy. Nghệ thuật so sánh của Nguyễn Tuân đã làm nổi bật sự nguy hiểm của dòng sông, nơi mà dòng nước chảy xiết, đe dọa bất kỳ con thuyền nào lọt vào khe đá hẹp. Thử tưởng tượng một con thuyền mắc kẹt ở đây, tiến thoái lưỡng nan, chỉ chờ đợi sóng nước và đá đập tan xác.
Nguyễn Tuân đưa người đọc vào trải nghiệm trực tiếp, như chính mình đang lái đò qua khúc sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cảm giác lạnh lẽo được so sánh như đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi sự chật hẹp, tối tăm và sâu thẳm. Câu văn tràn đầy liên tưởng, thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân.
Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, tạo nên một khung cảnh cuồn cuộn, nguy hiểm. Kết cấu trùng điệp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” làm nổi bật sự hung dữ của dòng sông, sẵn sàng lấy đi mạng sống của bất kỳ ai khinh suất. Con sông như một kẻ thù không khoan nhượng, đòi nợ không cần lý do.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La càng khiến người ta rùng mình. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, những cánh quạ đàn quay lừ lừ. Không thuyền nào dám lại gần, tất cả đều phải chèo nhanh để vượt qua, như ô tô sang số ấn ga để vút qua đoạn đường nguy hiểm. Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có thuyền đã bị hút xuống, trồng cây chuối ngược rồi biến mất, bị dìm xuống lòng sông hàng chục phút sau mới thấy xác tan ở khúc sông phía dưới.”
Nguyễn Tuân sử dụng trường liên tưởng trùng điệp để đưa người đọc vào cảm giác chân thực. Như một nhà quay phim táo bạo, ông miêu tả cảnh thả mình vào cái hút nước sông Đà, nhìn từ đáy lên vách thành cao chót vót. Nước sông trong cái hút ấy có màu xanh ngọc bích, như một khối pha lê sắp vỡ tan, khiến ai cũng phải khiếp sợ.
Tiếng thác réo càng làm tăng thêm sự ghê rợn: “Như oán trách, như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tan rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” Nguyễn Tuân đã kết hợp lửa và nước, hai nguyên tố tương khắc, để tạo nên một cảnh tượng hùng vĩ và đáng sợ.
Sóng nước và tiếng thác ầm ầm hòa quyện với nhau: “Sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông. Mỗi hòn đá đều mang vẻ ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó hơn cả mặt nước.” Sông Đà đã sắp xếp những hòn đá thành ba trùng vi nguy hiểm, như một trận chiến được bày sẵn.
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, với bốn cửa tử và một cửa sinh. Hàng tiền vệ gồm hai hòn đá canh cửa, dụ con thuyền vào tuyến giữa. Sóng nước tấn công dữ dội, như những chiến binh liều mạng, đe dọa nghiền nát con thuyền. Nhưng người lái đò, với sự mưu trí và dũng cảm, đã vượt qua dễ dàng.
Trùng vi thứ hai: Sông Đà tăng thêm cửa tử, đánh lừa con thuyền vào cửa sinh lệch qua bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tấn công, như một trận chiến sinh tử. Dù đã vượt qua, sóng nước vẫn không ngừng khiêu khích.
Trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, nhưng bên phải và bên trái đều là luồng chết. Luồng sống nằm giữa những hòn đá hậu vệ. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vượt qua thác dữ. Cuối cùng, người lái đò tài ba đã chiến thắng, với “tay lái ra hoa”.
Con Sông Đà hiện lên như một sinh vật hung dữ, bạo tàn, biết bày binh bố trận thủy thạch để tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước. Đó là một phần của thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa của kẻ thù không đội trời chung”. Con sông này “hằng năm và đời đời kiếp kiếp luôn gây hấn với con người Tây Bắc, phản ứng giận dữ vô cớ với những người lái đò Sông Đà”. Chính vì thế, sông Đà được gắn liền với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”
Khi viết về Đà giang, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngòi bút phóng khoáng, tự do, bởi “Người Lái Đò Sông Đà” được viết dưới thể loại tùy bút. Ông giống như một nhà quay phim tài ba, khi thì tiếp cận con sông từ góc nhìn rộng, lúc lại tập trung vào những khung hình cận cảnh, miêu tả từng đoạn sông hẹp với hình ảnh “đá bờ sông dựng thành vách, mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có ánh nắng.” Thậm chí, có những đoạn “vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ, nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã từng vọt từ bờ này sang bờ kia.”
Khi miêu tả sự hung bạo của con sông Đà, tác giả sử dụng những câu văn ngắn gọn, kết hợp kiến thức về võ thuật và quân sự để khắc họa sự chuyển động của dòng nước. Ông còn cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan, kích thích trí tưởng tượng của người đọc một cách tinh tế.
Trong tác phẩm, ta bắt gặp những câu văn ngắn, giàu thanh trắc, với hơn 300 động từ mạnh và kết cấu điệp ngữ, miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, đá, sóng và gió. Điển hình là đoạn miêu tả mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ bất kỳ người lái đò Sông Đà nào đi qua.” Nguyễn Tuân còn tập trung miêu tả sự hung dữ của Đà giang qua những hút nước với những liên tưởng táo bạo, như đoạn Tà Mường Vát: “Có những con thuyền đã bị hút xuống, trồng cây chuối ngược rồi biến mất, bị dìm xuống lòng sông hàng chục phút sau mới thấy xác tan ở khúc sông phía dưới.” Ngoài ra, ông còn nhìn thấy sự hung bạo của sông Đà trong mùa lụt, với ngấn nước ở cổng châu Quỳnh Nhai và xác hươu, nai bằng gỗ trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Lúc này, sông Đà được ví như “kẻ thù số một” của người dân Tây Bắc, nguy hiểm và độc ác đến tột cùng.
Sự hung bạo của con sông Đà không chỉ do thiên nhiên tạo nên với thác dữ, luồng chết, vực xoáy, mà còn bởi bàn tay con người. Đó là những thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông, khiến nó trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc. Thêm vào đó, thực dân Pháp đóng đồn bốt hai bên bờ sông càng làm tăng thêm sự hung dữ của Đà giang. Rõ ràng, con sông Đà mang trong mình cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy mỗi con sông đều mang nét đẹp văn hóa của vùng miền nơi nó chảy qua.
Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế, thì con sông Đà lại là biểu tượng văn hóa của người dân Tây Bắc. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, Đà giang hiện lên với sự dữ dội khác thường, thể hiện rõ phong cách độc đáo của tác giả – một phong cách “ngông” đầy cá tính.
....................Xem chi tiết tại file tải dưới đây........................
- Soạn bài Và tôi nhớ khói - Ngữ văn lớp 6 trang 69 sách Chân trời sáng tạo tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Tự đọc sách báo về ước mơ - Bài 6 Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều tập 1: Khám phá thế giới ước mơ qua từng trang sách
- Vẻ đẹp tâm hồn cùng sức sống mãnh liệt và bền bỉ của “người đồng mình” - Soạn bài Nói với con (KNTT)
- Luyện từ và câu: Khám phá trạng ngữ chỉ nguyên nhân, mục đích - Bài 15 Tiếng Việt 4 Tập 2 Kết nối tri thức
- Luyện Từ và Câu: Động từ - Bài 6, Sách Tiếng Việt Lớp 4 Tập 1 Bộ Cánh Diều