Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Trao duyên của Nguyễn Du (3 Dàn ý chi tiết + 19 Bài văn mẫu chọn lọc)
Phân tích Trao duyên của Nguyễn Du cung cấp 19 bài văn mẫu xuất sắc, đạt điểm cao từ các học sinh giỏi. Thông qua những bài phân tích đa dạng, bạn sẽ có thêm nguồn tài liệu phong phú để rèn luyện và nâng cao kỹ năng viết văn phân tích.

TOP 19 bài phân tích Trao duyên lớp 11 với văn phong mạch lạc, dễ hiểu, bao gồm cả bài ngắn gọn và chi tiết. Qua đó, ta cảm nhận được Trao duyên là một trong những trích đoạn đặc sắc và xúc động nhất của Truyện Kiều, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo thêm bài Cảm nhận Độc Tiểu Thanh kí và phân tích 12 câu đầu Trao duyên.
Phân tích Trao duyên đặc sắc
- 1. Dàn ý phân tích bài Trao duyên (3 Mẫu)
- 2. Phân tích Trao duyên lớp 11
- 3. Phân tích Trao duyên (2 Mẫu)
- 4. Phân tích bài Trao duyên (2 Mẫu)
- 5. Phân tích đoạn trích Trao duyên (2 Mẫu)
- 6. Phân tích tác phẩm Trao duyên (12 Mẫu)
1. Dàn ý phân tích bài Trao duyên (3 Mẫu)
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, với Truyện Kiều được coi là kiệt tác của nền văn học, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí và nội dung chính.
II. Thân bài
1. Lời nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)
a. Hai câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
* Lời lẽ trao duyên
- Cậy: + Là một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói >< nhờ, mong (thanh bằng)
+ Cũng mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ nhưng cậy còn mang thêm sắc thái hàm ý về sự hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng
- Chịu: Nài ép, bắt buộc, không thể không nhận >< nhận: mang tính tự nguyện
* Cử chỉ trao duyên
- Lạy, thưa:
- Là thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
- Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra
→ Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều
→ Sự tài tình trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du
b. Mười câu tiếp: Lí lẽ trao duyên của Kiều.
* 4 câu thơ tiếp: Kể về mối tình với chàng Kim
- Thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”
- Hình ảnh: “Mối tơ thừa”
- Hành động: “Quạt ước, chén thề”
→ Bằng những thành ngữ, điển tích và ngôn ngữ giàu hình ảnh, Nguyễn Du đã khắc họa mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.
* 6 câu thơ sau: Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em.
- Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”
- Kiều buộc phải chọn một trong hai con đường là “hiếu” và “tình”, và nàng đành hi sinh tình.
→ Kiều gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.
- “Ngày xuân em hãy còn dài”
→ Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non”
→ Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
- Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện của Kiều.
→ Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích chân thành của mình khi Vân nhận lời.
⇒ Cách lập luận chặt chẽ, thấu tình đạt lý, cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo và trọng tình nghĩa.
- Nội dung: 12 câu thơ đầu thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Kiều khi nói lời trao duyên.
- Nghệ thuật: Sử dụng điển tích, điển cố, thành ngữ dân gian, ngôn ngữ tinh tế, chính xác, giàu sức thuyết phục và lập luận chặt chẽ.
2. Kiều trao kỉ vật và dặn dò Vân (14 câu thơ tiếp theo)
a. Sáu câu đầu: Kiều trao kỉ vật
- Kỉ vật: Chiếc vành, bức tờ mây
→ Kỉ vật đơn sơ nhưng thiêng liêng, gợi nhớ quá khứ hạnh phúc.
- Từ “giữ - của chung – của tin”
- “Của chung” là của Kim, Kiều, nay còn là của Vân.
- “Của tin” là những vật gắn bó, gợi nhớ tình yêu thiêng liêng giữa Kim và Kiều: mảnh hương, tiếng đàn.
→ Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Nàng chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
b. Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều
* Kiều dự cảm về cái chết
- Hàng loạt từ ngữ, hình ảnh gợi về cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
→ Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không siêu thoát được vì trong lòng vẫn nặng lời thề ước với Kim Trọng.
→ Ta thấy được sự đau đớn, tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung, một lòng hướng về Kim Trọng.
* Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
→ Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều. Lúc này, Kiều càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
Tóm lại: Nội dung: 14 câu thơ tiếp là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.
- Nghệ thuật: Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, độc thoại nội tâm.
3. Tám câu thơ cuối: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về hiện thực của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ >< hiện tại
→ Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
- Các hành động
- Nhận mình là "người phụ bạc"
- Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
- Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, thể hiện đức hy sinh cao quý.
♦ Tiểu kết
- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cực điểm của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu giữa nàng và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân: Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, mang lại nhiều xúc cảm cho người đọc.
..............
2. Phân tích đoạn trích Trao duyên trong chương trình Ngữ văn lớp 11
Bài làm mẫu 13
Nguyễn Du - một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều, phản ánh tình yêu sâu nặng và bi kịch số phận của Kiều trước những biến cố cuộc đời.
Đoạn trích kể về hoàn cảnh gia đình Kiều dẫn đến việc nàng phải “trao duyên”. Bọn sai nha gây ra vụ án oan sai, buộc Kiều phải bán mình chuộc cha. Việc bán mình đồng nghĩa với việc nàng đánh mất quyền lựa chọn cuộc đời, buộc phải hy sinh mối tình với Kim Trọng. Tuy nhiên, vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể phụ bạc chàng Kim, nàng quyết định trao duyên cho Thúy Vân, mong em thay mình trả nghĩa cho chàng. Bằng những lời lẽ thấu tình đạt lý, Kiều cố gắng thuyết phục em:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Từ “cậy” thể hiện sự trông cậy, mong mỏi tha thiết, kết hợp với từ “chịu” như đặt Thúy Vân vào tình thế phải đồng ý. Kiều còn mời em ngồi lên để mình quỳ lạy, thưa gửi, hành động này thể hiện sự kính trọng và biết ơn. Kiều hiểu rằng việc trao duyên cho em là khó khăn, nhưng vì hoàn cảnh, nàng buộc phải gửi gắm duyên tình, mặc cho em vướng vào gánh nặng ân tình.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều giãi bày lí do trao duyên là vì “sóng gió bất kì” ập xuống gia đình, buộc nàng phải hy sinh chữ tình để giữ trọn chữ hiếu. Lời nói của Kiều đầy đủ lí lẽ, lấy tình cảm chị em máu mủ để thuyết phục Thúy Vân. Nếu Vân đồng ý, dù có phải chết oan uổng, Kiều cũng mãn nguyện, coi đó là ơn sâu nghĩa nặng.
“Chiếc vành với bức tờ mây...
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Sau khi thuyết phục Vân, Kiều trao những kỉ vật tình yêu cho em. Tay trao kỉ vật nhưng lòng nặng trĩu đau xót, vì giờ đây kỉ vật đã là của chung ba người. Kiều dặn dò Vân mai này nên vợ nên chồng với Kim Trọng, hãy nhớ đến người mệnh bạc như nàng. Nàng nhắc đến cái chết qua những thành ngữ, tục ngữ, như dự cảm về số phận bi kịch của mình. Dù có chết, nàng vẫn không quên lời thề với Kim Trọng, chỉ mong chàng thấu hiểu và cảm thông.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Lời độc thoại của Kiều đầy những từ như “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi”, ám chỉ sự tan vỡ của mối duyên tình. Dù tình yêu sâu đậm, nàng vẫn phải phụ bạc vì hoàn cảnh. Tiếng gọi tha thiết dành cho Kim Trọng như lời xin lỗi từ đáy lòng:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng gọi yêu thương, vừa là lời than thân trách phận. Kiều cảm thấy có lỗi với Kim Trọng, xót xa khi chàng vẫn tin tưởng, chờ mong nơi xa. Cái lạy của nàng như lời tạ tội và vĩnh biệt chàng Kim. Tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng sâu đậm, nhưng nàng đã hy sinh vì gia đình, quên đi nỗi đau của mình để hướng đến nỗi đau của cha mẹ và hai em.
Qua việc phân tích bài “Trao duyên”, chúng ta thấy rõ bi kịch tình yêu và thân phận bất hạnh của Thúy Kiều. Đây cũng là một trong những trích đoạn tiêu biểu cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du.
3. Phân tích đoạn trích Trao duyên (2 Bài văn mẫu)
Phân tích Trao duyên - Mẫu 1
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu.
Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô "chị, em". Từ "cậy" đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân trở thành bề trên, "ngồi lên" để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu.
Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái "đứt gánh tương tư" ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng "mặc em" giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh "quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy.
Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết "Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây". Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng.
Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền - những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung", của cả hai chị em. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. "Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên", một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.
Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn.
Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!". Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định. Tiếng gọi xé lòng "Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là "lang", là chồng. Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đoạn trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Phân tích Trao duyên - Mẫu 2
Nhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” - kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc.
Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim. Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Từ “cậy” vừa thể hiện sự tin cậy lại vừa nhấn mạnh Vân là sự lựa chọn duy nhất, hợp lý nhất trong hoàn cảnh đó của Kiều, kết hợp với hành động “lạy”, “thưa” dường như Kiều đang trong trạng thái đau đớn, trong tình cảnh của kẻ mang ơn. Kiều tuy là chị nhưng lại quỳ lạy, thưa gửi với em của mình, có phần trái ngược với giáo lý phong kiến nhưng lại đúng với hoàn cảnh éo le, trước khi nhờ cậy Kiều đã kính cẩn, trạng trọng coi Vân như người ân nhân của mình. Điều đó cũng dự báo việc nàng nhờ cậy là việc rất quan trọng, khó khăn, chính vì vậy Kiều phải hết lòng giãi bày, tâm sự và thuyết phục Vân hiểu và chịu cho mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Trong đoạn thơ, Kiều nhắc đến “mối tơ thừa” chính là mối tơ tình duyên của nàng với chàng Kim, đối với Vân mối tình duyên đó chẳng có ý nghĩa, chỉ là thừa thãi bởi vốn Thúy Vân và Kim Trọng đâu có tình cảm gì. Phải mang vào mình mối thừa ấy là một thiệt thòi của Vân, biết vậy nhưng Kiều cũng chỉ “mặc em”, bởi nàng cũng không có cách nào, không có lựa chọn nào khác. Nàng còn kể về mối tình với chàng Kim để mong em hiểu cho nỗi lòng, nghĩa tình sâu nặng giữa mình và Kim Trọng, nếu không trả khó có thể trọn vẹn, chỉ bởi sóng gió ập đến gia đình mà nay đành phải đứt gánh giữa đường. Thúy Kiều rất thông minh khi những lí lẽ nàng thuyết phục Thúy Vân vẹn tròn cả lý lẫn tình, nàng nhắc đến tình máu mủ ruột già mong em hãy bằng lòng chấp nhận, chính điều đó đã khiến cho Thúy Vân không thể từ chối lời thỉnh cầu của chị. Bước sang phân cảnh Kiều trao lại kỉ vật tình yêu với Kim Trọng cho Thúy Vân, ta thấy được một tình yêu đẹp, chân thành mà sâu sắc giữa hai người:
“Chiếc vành với bức tờ mây…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Những kỉ vật như chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đây trở thành của chung ba người, tuy trao đi kỉ vật nhưng lòng Kiều vẫn giữ mãi ân tình, không quên được những kỉ niệm với người yêu, điều đó khiến nàng đau xót như mất đi những phần quan trọng của cuộc sống.
“Mai sau dù có bao giờ…
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.
“Bây giờ trâm gãy bình tan…
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số phận.
Thông qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Kiều.
4. Phân tích đoạn trích Trao duyên (2 Bài văn mẫu)
Phân tích Trao duyên - Mẫu 1
Duyên phận là món quà từ trời, không thể cưỡng cầu hay ép buộc. Tuy nhiên, Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao duyên" (Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã tự cho mình quyền "nhờ", "cậy" duyên. Tác giả đã khắc họa thành công nỗi đau và sự chua xót trong tâm trạng Thúy Kiều khi phải trao mối tình đầu với Kim Trọng cho em gái Thúy Vân. Đây là một nghịch cảnh đầy trớ trêu và bất hạnh.
Duyên đến tự nhiên, không thể tìm kiếm, duyên đến thì giữ, duyên đi thì buông. Đó là quy luật của duyên phận. Trong tình yêu, chữ "duyên" càng trở nên quan trọng. Nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao duyên" đã phải gửi gắm duyên phận của mình cho người khác.
Nguyễn Du đã tái hiện tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều một cách chân thực:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Chỉ với hai câu thơ, Nguyễn Du đã diễn tả được nỗi đau và sự dằn vặt của Thúy Kiều. Từ "cậy" được đặt ở đầu câu, thể hiện sự khó khăn và ngặt nghèo trong hoàn cảnh của nàng. Thúy Kiều, vốn là chị, không cần phải "thưa" hay "lạy" em gái, nhưng trong tình huống này, nàng buộc phải làm điều đó. Mối duyên với Kim Trọng là do trời định, nhưng số phận Thúy Kiều giờ đây bấp bênh, nàng không muốn phụ lòng chàng nên đã nhờ Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở. Câu thơ như một nhát dao cứa vào lòng người đọc.
Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng bằng những câu thơ đầy đau đớn:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây, người đọc hiểu rõ ý nghĩa của từ "cậy", không còn là nhờ vả mà mang tính ép buộc. Thúy Kiều hiểu rõ hoàn cảnh và nỗi đau của mình. Nàng đã hy sinh tình yêu vì chữ hiếu, quyết định phụ lòng Kim Trọng để không phụ lòng cha mẹ. Một người con gái yếu đuối nhưng vô cùng hiếu thảo. Mối duyên đã đứt gánh, nhưng Kiều không muốn Kim Trọng đau lòng, nàng chỉ mong Thúy Vân có thể tiếp nối mối duyên này. Dù trao duyên cho em, lòng nàng vẫn đau như cắt.
Thúy Kiều đã khéo léo dùng tình máu mủ để thuyết phục Thúy Vân:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang ở tuổi xuân, nhưng Kiều nhắn nhủ với em rằng "ngày xuân em còn dài", có thể tiếp nối mối duyên với Kim Trọng. Sự chua xót hiện rõ khi Kiều nhắc đến cái chết, như một dự báo về cuộc đời bất hạnh sắp tới. Dù có chết, Kiều vẫn mong Thúy Vân giúp đỡ để nàng có thể yên lòng. Qua đây, ta thấy được tấm lòng nhân hậu và sự hy sinh cao cả của Thúy Kiều.
Việc trao đi mối duyên mà nàng trân quý là nỗi đau lớn nhất mà Thúy Kiều phải chịu đựng. Nhưng đây là con đường duy nhất nàng có thể chọn, vì không còn lựa chọn nào khác. Kiều mong Thúy Vân có thể giữ lấy mối duyên này, để không phụ lòng Kim Trọng.
Cái chết dường như hiện rõ trong lời nói của Thúy Kiều:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đèn nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Trong một xã hội đầy bất công, những người đáng lẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn lại phải chọn con đường đầy nước mắt. Cái chết không phải là dấu chấm hết đối với Kiều, bởi nàng vẫn còn mang nặng món nợ với cuộc đời và Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực trước tình yêu của mình, mong rằng Kim Trọng có thể thấu hiểu. Nỗi đau và sự bế tắc trong lòng nàng như những lớp sóng dồn dập, không thể thoát ra. Nguyễn Du đã dùng ngôn từ sắc bén, khắc sâu vào lòng người đọc nỗi đau thấu tận tim gan. Thương thay cho cô gái yếu đuối, với trái tim chân thành nhưng lại rơi vào bước đường cùng đầy bi kịch.
Đoạn trích "Trao duyên" khiến người đọc không khỏi xúc động khi nghĩ về thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những kiếp người nhỏ bé vào ngõ cụt. Thúy Kiều và mối tình dang dở của nàng là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó.
Phân tích Trao duyên - Mẫu 2
Với lòng thương cảm sâu sắc và tinh thần nhân đạo cao cả, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công nhân vật Thúy Kiều - biểu tượng cho vẻ đẹp và số phận đau thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Trích đoạn “Trao duyên” từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm đã làm nổi bật điều này. Đây là những câu thơ mang tính “bản lề”, đánh dấu bước ngoặt định mệnh trong 15 năm lưu lạc của Thúy Kiều.
Đầu tiên, Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân bằng những lời lẽ, hành động tinh tế và lý do trao duyên hợp tình hợp lý. Là một người con gái thông minh, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời nói và hành động đặc biệt:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên”: “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, chúng ta thấy được Kiều là người khôn khéo. Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng: em - “ngồi lên”, chị - “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ này đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tác giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim - Kiều qua những hình ảnh ước lệ: “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng. Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc sảo.
Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: Chiếc Hoa, Bức Tờ Mây, Phím Đàn, Mảnh Hương Nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng - Thúy Vân - Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”.
Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.
Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Nàng quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ: “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Hai câu thơ cuối vang lên như tiếng nấc nghẹn ngào, Thúy Kiều không thể kìm nén nỗi lòng mà bật lên lời than ai oán. Những từ cảm thán “ôi”, “hỡi” được lặp lại hai lần, gọi tên Kim Trọng trong niềm xót xa, tủi hổ. Đặc biệt, từ “phụ” đã khắc họa rõ nét nhân cách cao đẹp của nàng. Dù là người chịu cảnh bạc mệnh, phải bán mình chuộc cha để trọn đạo hiếu, Kiều vẫn tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/3 và 2/2/2 như tiếng khóc nghẹn ngào, thể hiện nỗi đau tột cùng. Đoạn thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu chung thủy của Thúy Kiều.
Qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta thấy được tình yêu sâu nặng và bi kịch đau thương của Thúy Kiều. Đối với nàng, chữ tình và chữ hiếu luôn song hành, gắn bó khăng khít. Tất cả được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
5. Phân tích trích đoạn Trao duyên trong Truyện Kiều (2 Bài mẫu)
Phân tích Trao duyên - Mẫu 1
Đoạn trích "Trao duyên" trong Truyện Kiều gồm 34 câu (từ câu 723 đến 756), được đưa vào sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10. Đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cho chuỗi ngày lưu lạc đầy đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt do bị vu oan, Thúy Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và em.
Đêm cuối cùng trước khi rời đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả nghĩa với Kim Trọng.
Nhan đề "Trao duyên" mang một nghịch lý đau lòng, bởi đây không phải là cảnh trao duyên lãng mạn giữa đôi trai gái như trong ca dao xưa. Đọc kỹ mới thấu hiểu, "Trao duyên" ở đây là gửi gắm mối tình dang dở của mình cho người khác, nhờ họ chắp nối. Thúy Kiều, trước khi bước vào cuộc đời lưu lạc, đã nhờ Thúy Vân thay mình gắn bó với Kim Trọng. Đoạn thơ không chỉ là lời trao duyên mà còn chất chứa bao nỗi niềm tâm sự của nàng.
Dựa trên cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã tái hiện cảnh trao duyên một cách sống động. Khi Thúy Vân chợt tỉnh giấc, thấy chị mình đang khóc lặng lẽ giữa đêm khuya. Vân ân cần hỏi han, và Thúy Kiều, dù khó nói, đã quyết định nhờ cậy em:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"
Trong hàng loạt từ ngữ diễn tả sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn từ "cậy", một từ chính xác và đầy ý nghĩa. Từ "cậy" thể hiện niềm tin tuyệt đối, khiến người được nhờ không thể từ chối. Cử chỉ "lạy" càng làm tăng thêm sự thiêng liêng. Chị lạy em, một hành động chưa từng có, chỉ để trao duyên. Mối tình với Kim Trọng sâu nặng và thiêng liêng biết bao! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho em nghe:
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Thúy Kiều kể lại những sự kiện mà Thúy Vân đã chứng kiến: cuộc gặp gỡ với Kim Trọng trong buổi chiều thanh minh, lời thề nguyền hẹn ước, và sóng gió gia đình. Nhưng có một chi tiết mà Thúy Vân không thể biết được:
"Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai"
Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đã lên án một xã hội bắt con người phải lựa chọn giữa hai giá trị không thể đặt lên bàn cân: hiếu và tình. Một xã hội như vậy là tàn bạo. Thúy Kiều đã chọn chữ "hiếu", nhưng nỗi đau của nàng càng thấm thía hơn khi nhớ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả".
Vì thế, khi hy sinh chữ tình, Thúy Kiều coi như mình không còn tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời nàng thốt ra không phải là nước mắt mà là máu chảy trong tim.
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Hai chị em đều đang ở độ tuổi xuân xanh, nhưng Thúy Kiều lại nói "ngày xuân em hãy còn dài", một lời nói đầy đau đớn. Lời lẽ của nàng không chỉ vì tình yêu với Kim Trọng mà còn vì mong muốn hạnh phúc cho người khác. Trong đau khổ, nàng vẫn lo lắng cho hạnh phúc của người khác, một đức hi sinh lớn lao.
Biết em đã thuận lòng, Thúy Kiều trao cho em những kỷ vật giữa nàng và Kim Trọng.
"Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung"
Tình cảm dù trừu tượng, nhưng kỷ vật tình yêu lại hiện hữu rõ ràng. Khi Thúy Kiều trao "chiếc thoa với bức tờ mây" cho em, nàng đau đớn đến tột cùng. Mỗi lời nàng thốt ra nặng như chì, nàng không chỉ trao duyên mà còn trao cả những kỷ vật thiêng liêng. Xã hội bắt con người phải chia sẻ những thứ không thể chia sẻ, đáng ghét và đáng nguyền rủa biết bao! Đó chính là lời tố cáo đanh thép của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc con người.
Thúy Kiều trao duyên, coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và cầu xin em thương xót cho linh hồn đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc:
"Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tờ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai."
Thúy Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là bóng ma. Lời nàng huyền ảo, như tiếng vọng từ cõi âm. Hồn ma nàng sẽ hiện lên trong làn hương trầm và tiếng đàn. Dù "thịt nát xương mòn", hồn nàng vẫn quanh quẩn với "ngọn cỏ lá cây", với "hiu hiu gió...". Tình yêu của người bạc mệnh vẫn làm rung động cả vũ trụ.
Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng."
Mỗi lời nàng thốt ra như một lời than vận vào số phận. Trước nỗi đau xót xa, nàng chỉ trách mình là "phận bạc", là "hoa trôi", những hình ảnh khiến lòng người đau nhói. Đối với Kim Trọng, nàng mang nặng mặc cảm tội lỗi, cho rằng mình đã "phụ chàng". Chính tâm lý cao thượng ấy khiến nàng gục ngã trong tiếng kêu thương thấu trời:
"Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Đoạn "Trao duyên" trong "Truyện Kiều" là một khúc "đoạn trường" trong thiên "Đoạn trường tân thanh". Với con mắt tinh tường, Nguyễn Du đã phát hiện ra tình tiết cảm động trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và bằng nghệ thuật bậc thầy, ông đã tái hiện đoạn "Trao duyên" một cách sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã khéo léo đối lập hai tính cách của hai chị em: một người của đời thường và một người của phi thường. Trong biến cố "sóng gió bất kì", Thúy Vân hồn nhiên, vô tư (đừng vội chê trách nàng, vì nhân vật này còn ẩn chứa nhiều bí mật trong kiệt tác của Nguyễn Du), còn Thúy Kiều lại càng đau đớn hơn.
Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết để miêu tả tâm lý và diễn biến nội tâm nhân vật, đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật biện chứng tâm hồn. Chỉ qua đoạn "trao duyên", chúng ta đã thấy Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, đức hi sinh, và ý thức sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách cao đẹp như vậy, vừa chớm bước vào đời như bông hoa mới nở, đã bị sóng gió cuộc đời vùi dập tan tác. Như lời Mộng Liên Đường Chủ nhân, khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút Nguyễn Du, như có nước mắt thi nhân thấm qua từng trang giấy. Hơn hai trăm năm qua, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa khô.
Phân tích bài Trao duyên - Mẫu 2
Đoạn Trao duyên giữ một vị trí quan trọng trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Về mặt cốt truyện, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời Thúy Kiều, mở đầu cho chuỗi ngày lưu lạc đầy đau khổ. Về chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ. Về nghệ thuật, đoạn thơ khẳng định tài năng xuất chúng của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn Trao duyên được diễn tả qua ba giai đoạn, như ba bậc thang tâm lý. Mở đầu là lời cầu khẩn thiết tha của Kiều với Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Hai câu thơ thể hiện sự khẩn khoản, thiết tha và niềm tin mãnh liệt của Kiều vào Vân. Trong số các từ diễn tả sự nhờ vả như nhờ, mượn, phiền, Nguyễn Du chọn từ "cậy". Có lẽ chỉ từ này mới chứa đựng được sự tin tưởng và hy vọng. Tại sao lại là "chịu lời" mà không phải "nhận lời"? Tại sao phải "chịu lời" trước rồi mới "thưa" sau? Nếu Kiều trình bày trước, liệu Vân có chịu lời không? "Nhận lời" ngụ ý sự tự nguyện, nhưng Vân chưa biết gì về câu chuyện. Do đó, "chịu lời" là cách Kiều đặt Vân vào tình thế không thể từ chối. Qua đây, Kiều hiểu rõ hoàn cảnh khó xử của mình và của em gái. Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc thấu hiểu lòng người.
Thúy Kiều không dài dòng về hoàn cảnh của mình. Những sự kiện vừa xảy ra ai cũng rõ. Chỉ có Vân mới thấu hiểu nỗi bất hạnh của Kiều, vì Vân chứng kiến cả hai biến cố lớn trong đời Kiều: khi gặp chàng Kim và khi sóng gió ập đến. Mâu thuẫn trong lòng Kiều lúc này không phải giữa hiếu và tình. Kiều đã giải quyết xong mâu thuẫn đó, dù khó khăn nhưng dứt khoát và thanh thản: "Làm con trước phải đền ơn sinh thành". Nếu là chuyện hiếu đạo, Kiều đâu cần phải "cậy", "lạy", hay "thưa" với em gái. Việc nhờ Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Mâu thuẫn chính trong đoạn trích là giữa tình yêu đôi lứa và hạnh phúc tan vỡ. Sự dở dang này được thể hiện qua câu thơ mang sắc thái thành ngữ: "Giữa đường đứt gánh tương tư". Hình ảnh ẩn dụ "giữa đường đứt gánh" từng xuất hiện trong ca dao. Nỗi đau của Kiều không xa lạ với số phận người phụ nữ xưa, nhưng bi kịch tình yêu của nàng vẫn đau đớn hơn bất kỳ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.
Sau tám câu mở đầu, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Những lời tâm sự của Kiều được diễn tả qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối". Những lời này vừa thuyết phục vừa ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, đồng thời khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây từ đức hy sinh cao đẹp của em:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, Kiều đã đạt được mục đích nhờ Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Nhưng chính lúc này, bi kịch tình yêu của Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều biết Vân lấy Kim Trọng là do "xót tình máu mủ", chứ không phải vì "lời nước non". Kiều chỉ có thể trao duyên, nhưng tình yêu thì không dễ trao. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỷ vật và linh hồn bất tử.
Kiều trao lại cho Vân những kỷ vật thiêng liêng: "Chiếc thoa với bức tờ mây", "phím đàn với mảnh hương nguyền". Những kỷ vật này gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Chúng thiêng liêng vì chỉ thuộc về Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em gái. Nỗi xót xa được thể hiện qua từ "của chung": "Duyên này thì giữ, vật này của chung". Nỗi đau hiện rõ qua từ "ngày xưa": "Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa". Hiện thực đẹp đẽ giờ đã trở thành quá khứ. Kỷ vật còn đó, nhưng Kiều không còn hiện diện trong tình yêu.
Kiều tìm đến con đường thứ hai: trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: "Thấy hiu hiu gió thì hay chị về". Nàng hy vọng bằng cách này có thể trả nghĩa Kim Trọng và nhận được sự đồng cảm: "Rảy xin chén nước cho người thác oan". Tuy nhiên, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương giải oan cho Trương Chi, thì trong Đoạn trường tân thanh, giọt lệ của Kim Trọng không thể làm tan mối tình oan khuất của Kiều. Sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.
Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không giảm mà còn được đẩy lên cao hơn. Sự trở về bằng linh hồn bất lực trước hiện thực. Kiều ý thức rõ về hiện tại: "trâm gãy bình tan", "tơ duyên ngắn ngủi", "phận bạc như vôi", "nước chảy hoa trôi". Nàng nhận thức sâu sắc về hiện hữu và càng thương mình hơn. Ai nỡ trách nàng khi sau bao hy sinh, nàng mới dám nghĩ đến bản thân. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao.
Kiều ý thức về hiện tại và càng thương mình hơn. Ai nỡ trách nàng khi sau bao hy sinh, nàng mới dám nghĩ đến bản thân. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao.
Kiều không chỉ thương người mà còn thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là ích kỷ, mà vẫn là vì người khác. Chỉ khi mọi việc đã xong xuôi, nàng mới nhìn lại tấm lòng mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao.
Tâm trạng bi kịch của Kiều càng trở nên sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận, nàng vẫn không ngừng khát khao một tình yêu chân thành và vĩnh cửu: "Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân", "trăm nghìn gửi lạy tình quân". Sự hiện diện của tình yêu khiến Kiều quên đi sự tồn tại của người em gái. Từ cuộc đối thoại với Vân, Kiều chìm vào độc thoại nội tâm, rồi dường như hướng trọn vẹn tâm trí về Kim Trọng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, đi kèm với những thán từ thể hiện nỗi đau đớn và tuyệt vọng: "ôi", "hỡi". Câu thơ trên với nhịp 3/3 vang lên như tiếng nấc nghẹn, để rồi câu thơ dưới trải dài như một lời than thở não nề.
Lời trao duyên kết thúc bằng tiếng kêu đau đớn và tuyệt vọng. Tuy nhiên, dù tình yêu tan vỡ, khát vọng về tình yêu vẫn được khẳng định. Đó là vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn Kiều, cũng là giá trị nhân văn trường tồn của Truyện Kiều. Đoạn thơ mang đầy bi kịch và đau thương, nhưng không hề u ám hay tối tăm, mà vẫn tỏa sáng niềm tin vào tình yêu và con người.
Đoạn thơ cho thấy "sức cảm thông kỳ diệu" của đại thi hào dân tộc trước những nỗi đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua Trao duyên, ta còn thấy được tài năng miêu tả nội tâm tinh tế của tác giả Truyện Kiều.
6. Phân tích bài thơ Trao duyên - Tuyển tập 12 bài văn mẫu đặc sắc
Phân tích bài Trao duyên - Mẫu 1
Trong cơn gia biến, Thúy Kiều một mình gánh vác mọi việc. Nàng đau đáu giữa chữ hiếu và tình yêu, cả hai đều nặng trĩu. Cuối cùng, Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Khi cha và em được tha về, việc nhà tạm ổn, nàng mới nghĩ đến mối tình dang dở với Kim Trọng. Dù bản thân chấp nhận số phận, nàng không nỡ để người yêu đau khổ. Sau nhiều đắn đo, Kiều quyết định nhờ em gái Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.
Đoạn trích Trao duyên phản ánh bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời khẳng định tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích có thể chia thành hai phần chính:
Phần 1 (từ câu 1 đến câu 14): Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Phần 2 (từ câu 15 đến hết): Tâm trạng đau đớn của Kiều sau khi trao duyên.
Đoạn trích là một lời thoại dài của Thúy Kiều, với tính chất lời thoại thay đổi theo diễn biến cảm xúc. Ở phần đầu, Kiều xưng hô rõ ràng với Thúy Vân. Đến phần sau, khi đã trao duyên, Kiều cảm thấy hạnh phúc của mình chấm dứt, nàng tự xưng là người mệnh bạc, người thác oan, và dường như quên rằng đang nói với em, chuyển sang đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng.
Trước thực tế phũ phàng rằng ngày mai nàng sẽ thuộc về kẻ khác, Kiều cảm thấy mình là nguyên nhân gây ra nỗi đau cho Kim Trọng. Nàng thương mình một, nhưng thương người yêu mười, nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc. Trong đêm gia biến, một mình với ngọn đèn khuya, Kiều sống trong tâm trạng đầy sóng gió.
Nàng tự trách mình vì đã khiến tình yêu dang dở. Thực ra, cả hai đều tự nguyện yêu nhau và gắn bó. Kiều có mặc cảm này vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau khổ tột cùng. Sau nhiều đắn đo, nàng thấy chỉ có cách nhờ em gái thay mình nối duyên với Kim Trọng. Nghĩ là làm, Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vừa chợt tỉnh giấc.
Việc ngỏ lời nhờ cậy người khác, dù là em gái, cũng không hề dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải tình yêu thoáng qua mà là mối tình đã thề non hẹn biển, trở thành thiêng liêng và khó thay đổi. Kiều lo sợ Thúy Vân sẽ không nhận lời.
Kiều rơi vào tình thế khó xử: không nói không được, mà nói ra thì e ngại. Nàng đắn đo, băn khoăn mãi rồi mới thốt ra được câu khiến người nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Lời nhờ cậy ấy thật bất ngờ, ngay cả với Kiều, vì trước đó nàng chưa từng nghĩ đến. Suốt đêm thức trắng, nàng chỉ đau khổ, dày vò. Nhưng khi Thúy Vân thức giấc và an ủi chị, Kiều chợt nhận ra: "Cô em gái này có thể giúp mình trả món nợ tình". Đề nghị ấy cũng bất ngờ với Thúy Vân, vì nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người làm chồng không đơn giản như nhận một món quà. Kiều dám đưa ra ý kiến này vì nàng tin vào tình thương của em gái. Thúy Vân, dù chưa hiểu hết câu chuyện, cũng thấu hiểu nỗi đau của chị.
Nhiều người thắc mắc tại sao Kiều dùng từ "cậy" thay vì "nhờ", và "chịu" thay vì "nhận". Sự khác biệt này nằm ở sắc thái ý nghĩa. "Cậy" thể hiện sự tin tưởng và gửi gắm, phù hợp với tâm trạng tuyệt vọng của Kiều. "Chịu lời" mang ý nghĩa bị ép buộc, phù hợp với tình thế của Thúy Vân lúc đó.
Câu thơ sáu chữ giản dị nhưng chứa đựng chiều sâu của một tình thế phức tạp và tâm trạng đa đoan. Nó giống như một lời cầu nguyện đầy xót xa.
Thúy Kiều năn nỉ Thúy Vân: "Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa", vì nàng coi việc em nhận lời là một sự hi sinh lớn lao. Đối với hành động hi sinh ấy, Kiều thể hiện thái độ kính trọng và biết ơn sâu sắc.
Trong những giây phút đau đớn tột cùng, Thúy Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần được san sẻ để vơi bớt. Sau khoảnh khắc ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ nhưng dang dở của mình.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Là người con hiếu thảo, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, nhưng chữ tình vẫn đè nặng trong lòng như một món nợ khó trả:
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ và cao cả biết chừng nào. Nàng van nài em gái hãy "xót tình máu mủ, thay lời nước non" mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc đến chàng, Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận mình, nỗi đau như theo dòng nước mắt tuôn rơi:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tưởng tượng ra cái chết thê thảm là biểu hiện của sự thương thân đến tột cùng, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối vẫn còn thơm lây nhờ nghĩa cử của Thúy Vân. Những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ?
Ngôn ngữ của Kiều lúc đầu là ngôn ngữ của lí trí. Dù rất đa cảm, nhưng với chuyện trọng đại cả đời người, nàng không thể dùng tình cảm đơn thuần để thuyết phục em. Nàng phải bình tĩnh dùng lí lẽ phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu và bằng lòng giúp.
Trước lời nói có lí, có tình tha thiết của Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe, và điều đó đồng nghĩa với sự chấp nhận. Đến đây, Thúy Kiều mới nhẹ lòng. Nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa mình và Kim Trọng trao cho em gái.
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Nếu ở đoạn trên, Kiều kể mối tình của mình bằng giọng điệu cố giữ vẻ bình tĩnh, thì đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén tình cảm. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: "Chiếc vành với bức tờ mây" vẫn bằng giọng điệu bình thản, nhưng đến câu: "Duyên này thì giữ, vật này của chung" thì nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, còn phần nàng coi như đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rõ ràng, lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng tình cảm thì không thể.
Điều đặc biệt nằm ở mấy chữ "giữ" và "của chung". Chữ "giữ" không có nghĩa là trao hẳn, mà chỉ đưa cho em giữ hộ; còn chữ "của chung" thể hiện tâm lí bản năng rằng Kiều không đành lòng trao hết lại cho em. Những chữ đó cho thấy tình yêu của Kiều với Kim Trọng rất nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, chứng tỏ trong tình yêu, nàng đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết.
Mối tình đầu trong sáng, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên sao được? Xin gửi gắm lại chút tình trong kỉ vật này vậy! Giữa tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố an ủi. Sau đó, nàng để mặc cho tình cảm tuôn trào.
Phân tích bài Trao duyên - Mẫu 2
Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang nồng nàn, tươi đẹp thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Đúng lúc ấy, tai họa ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch, cha và em trai bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn. Bọn quan lại đòi hối lộ “ba trăm lạng” mới chịu tha. Trước biến cố đau lòng, Thúy Kiều, một người giàu tình cảm và đức hi sinh, không còn cách nào khác ngoài việc bán mình để cứu cha và em. Nhưng mối tình với Kim Trọng thì sao? Nàng đau khổ vô cùng và cuối cùng quyết định nhờ em gái Thúy Vân thay mình kết duyên với chàng Kim. Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một cảnh tượng đau lòng hiếm thấy trong văn học nhân loại.
Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã tái hiện chi tiết trao duyên một cách sống động. Khi Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, thấy chị mình đang khóc lặng lẽ giữa đêm khuya. Vân ân cần hỏi han, nhưng Thúy Kiều khó nói lời. Nàng nghĩ: “Để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình; thương người tình, nàng đành nhờ em:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Trong vô số từ diễn tả sự nhờ cậy, Nguyễn Du chọn từ “cậy”, một sự lựa chọn chính xác và tinh tế. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin tuyệt đối, khiến người được nhờ không thể từ chối. Thêm vào đó là cử chỉ thiêng liêng: “lạy”. Chị lạy em, một hành động chưa từng có, chỉ để trao duyên. Mối tình với Kim Trọng sâu nặng và thiêng liêng biết bao! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều kể lể sự tình cho em nghe:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Thúy Kiều kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến: cuộc gặp gỡ với Kim Trọng trong buổi chiều thanh minh, lời thề nguyền hẹn ước, và cơn sóng gió ập xuống gia đình. Nhưng có một chi tiết mà Thúy Vân không thể biết: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Qua lời Kiều, Nguyễn Du lên án một xã hội buộc con người phải lựa chọn giữa hai giá trị không thể đặt lên bàn cân. Một xã hội như thế là tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng chọn chữ “hiếu”, nhưng trong lòng nàng, tình yêu vẫn vĩ đại hơn cả. Nghe lời nàng, ta càng thấm thía nỗi đau của một người phải hi sinh tình yêu vì đạo hiếu.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nhưng Kiều nói “ngày xuân em hãy còn dài”, một lời nói đầy đau đớn! Nàng lo cho Kim Trọng, mong sao chàng có được hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người khác. Thật là một tấm lòng hi sinh cao cả. Biết em đã thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật thiêng liêng giữa mình và Kim Trọng:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
Tình cảm có thể trừu tượng, nhưng kỉ vật tình yêu thì hiển hiện rõ ràng. Khi trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em, Thúy Kiều đau đớn đến tột cùng. Mỗi lời nàng nói nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật, nhưng trong lòng uất hận cuộc đời. Một xã hội buộc con người phải chia sẻ những thứ không thể chia sẻ, liệu có đáng nguyền rủa không? Đây chính là lời tố cáo thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc con người. Thúy Kiều trao duyên, coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỉ vật và thương lấy linh hồn đau khổ của chị:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.
Thúy Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là bóng ma. Linh hồn nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng, dù “thịt nát xương mòn” vẫn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió”. Tình yêu của nàng vẫn làm chấn động cả vũ trụ. Trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng đang nói với Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Mỗi lời nàng nói là một lời ai oán. Trước nỗi đau xót, nàng chỉ trách mình “phận bạc”, “hoa trôi”, những hình ảnh khiến lòng người xót xa. Với Kim Trọng, nàng mang mặc cảm tội lỗi vì đã “phụ chàng”. Chính tâm lí cao thượng ấy khiến nàng ngất đi trong tiếng kêu thương thấu trời.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh tường, Nguyễn Du đã phát hiện ra một tình tiết cảm động trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã tái hiện đoạn “Trao duyên” một cách sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã khéo léo đối lập hai tính cách của hai chị em: một người của đời thường và một người của phi thường. Trong biến cố “sóng gió bất kì”, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (đừng vội chê trách Thúy Vân, nhân vật này còn là một bí ẩn trong kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn đến), còn Thúy Kiều thì đau đớn tột cùng.
Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết để miêu tả tâm lí và sự vận động nội tâm nhân vật. Có thể nói, ông đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Qua đoạn “Trao duyên”, ta thấy được sự tinh tế trong cách khắc họa nhân vật, từng chi tiết đều mang ý nghĩa sâu sắc.
Chỉ qua đoạn “Trao duyên”, chúng ta đã cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách cao đẹp như vậy, vừa chớm bước vào đời như bông hoa mới nở, đã bị sóng gió cuộc đời dập vùi tan tác. Như Mộng Liên Đường chủ nhân từng nhận xét: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua từng trang giấy. Hơn hai trăm năm đã qua, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa khô.
Phân tích bài Trao duyên - Mẫu 3
“Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác văn chương của nhân loại, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn qua các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích nổi bật, phản ánh hoàn cảnh éo le và tình duyên dang dở của Thúy Kiều, chính là “Trao duyên”. Tác giả đã thành công trong việc khắc họa chân thực tâm trạng nhân vật, để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu sắc.
Nhan đề “Trao duyên” gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi sự khác lạ và nghịch lý. Duyên phận vốn là thứ trời định, sao có thể đem ra trao đổi dễ dàng như vậy? Chính sự lạ lẫm này gợi lên dự cảm về nghịch cảnh và bi kịch trong đoạn trích. Hành động trao duyên của Thúy Kiều là một nghịch lý: nàng muốn nhờ em gái Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng, trả nghĩa ân tình cho chàng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa” được Nguyễn Du sử dụng một cách tinh tế, mang giá trị gợi tả và gợi cảm sâu sắc. Thúy Kiều không đơn thuần nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, coi em như ân nhân của mình. Nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với em, mong em chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Kiều khéo léo kể lại mối tình với Kim Trọng, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” cho Vân: sóng gió ập đến bất ngờ, buộc nàng từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân, vì tình máu mủ, sẽ thấu hiểu và chấp nhận thay mình nối duyên với Kim Trọng.
Lời nói của Kiều vừa đủ lý, vừa đủ tình, khiến Vân khó lòng từ chối. Dù biết điều này thiệt thòi cho em, Kiều vẫn mong em chấp nhận. Nếu được, nàng sẽ yên lòng dù có chết đi, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Cái chết trong tưởng tượng của Kiều thể hiện sự cảm kích trước sự hi sinh của em. Sau khi trao duyên, Kiều trao lại những kỉ vật thiêng liêng giữa nàng và Kim Trọng: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
Trao đi những kỉ vật tình yêu, Kiều như trao đi một phần cuộc đời mình. Duyên nàng có thể giữ, nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa khi phải trao đi cho thấy tình yêu giữa nàng và Kim Trọng sâu đậm và chung thủy biết bao. Mất đi tình yêu và kỉ vật, cuộc sống của Kiều chẳng còn gì đáng luyến tiếc. Dù vậy, nàng vẫn giữ trọn lời thề son sắt:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Kiều đã rơi vào tuyệt vọng, không còn hy vọng cho tình yêu và số phận của mình. Nàng không biết tương lai sẽ ra sao, chỉ mong sau khi chết, người đời sẽ hiểu và đồng cảm với nàng. Những kỉ niệm ngọt ngào với Kim Trọng giờ đây trở thành nỗi đau khôn nguôi:
“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Tất cả tình duyên đã tan vỡ, Kiều đau đớn khi phụ tấm lòng Kim Trọng. Nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân”, mong chàng hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng. Phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” thể hiện sự cam chịu của Kiều trước số phận bất hạnh.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng, nhưng giờ đây Kiều chỉ còn biết gọi tên Kim Trọng trong tuyệt vọng. Tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa. Chàng Kim nơi xa xôi chưa biết chuyện gì, còn nàng đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Nàng chỉ biết trách số phận “hồng nhan bạc phận”, mất đi tình yêu và tương lai hạnh phúc.
Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những đoạn trích xúc động nhất trong “Truyện Kiều”. Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ và từ ngữ giàu giá trị gợi cảm để khắc họa tâm trạng Thúy Kiều một cách chân thực. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban và thương cảm cho số phận bạc mệnh của nàng.
Phân tích bài thơ Trao duyên - Mẫu 4
“Truyện Kiều” không chỉ là kiệt tác của văn học Việt Nam mà còn là tác phẩm vĩ đại của thế giới. Đoạn trích “Trao duyên” thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về số phận con người, đặc biệt là số phận của khách hồng nhan như Thúy Kiều. Đây cũng là tâm sự, tiếng khóc đau thương từ hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.
“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt trong một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị vu oan, cha và em trai bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày theo Mã Giám Sinh, Kiều nhờ Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Ngôn ngữ được sử dụng tinh tế, đặc biệt là các động từ. Từ “cậy” với thanh trắc nặng nề gợi sự đau đớn, khó nói, khác hẳn với “nhờ”. “Cậy” hàm ý hi vọng tha thiết, tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng vào tình máu mủ. Từ “chịu” thể hiện sự nài ép, bắt buộc, không thể từ chối. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai thể hiện thái độ kính cẩn, trang trọng với người mình hàm ơn. Thúy Kiều, dù là chị, nhưng trong cuộc “trao duyên” này, nàng nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai, buộc nàng phải đền ơn sinh thành. Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở đã phải dang dở vì tai họa ập đến gia đình. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, ai oán. Bên tình bên hiếu, Kiều buộc phải lựa chọn. Không thể bỏ cha già, em thơ, nàng đành bán mình cứu cả nhà. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong vào tình máu mủ để trả nghĩa Kim Trọng. Niềm vui hẹn ước xưa giờ chỉ còn biết nhờ tình máu mủ thay thế. Đằng sau lời lẽ đầy lí trí là dự cảm không lành về tương lai:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, Kiều như từ bỏ cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết, nhận thức rõ bi kịch tình yêu đang hiện hữu. Càng đau đớn hơn khi kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn. Kiều trao kỉ vật và dặn dò em:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều có sự lưu luyến, không nỡ từ bỏ. Dù đã nhờ Vân thay mình nối duyên, kỉ vật vẫn là “của chung”. Nàng không thể từ bỏ chúng, cũng như không thể từ bỏ tình yêu sâu kín trong lòng. Sự giằng xé giữa cái riêng và cái chung, giữa hạnh phúc và bất hạnh, khiến Kiều nhận về mình mọi đau đớn của số phận bạc mệnh: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mạch tự sự tiếp tục thể hiện bi kịch tình yêu:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Kiều tưởng tượng về tương lai qua hình ảnh tang tóc. “Lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”… gợi lên cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào như tiếng khóc nén lại. Kiều đau đớn tột cùng vì trong lòng vẫn mang nặng tình cảm với Kim Trọng. Cuối cùng, sau khi gửi gắm tình duyên, Kiều đối diện với thực tại và nhắn gửi người yêu cũ:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trâm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều chuyển sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy là “trâm gãy gương tan”, là “muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”… Còn gì đau đớn hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn tình duyên khiến Kiều gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại lời tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều buông xuôi, mặc cho số phận xô đẩy, bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đau đớn, nghẹn ngào.
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Tiếng gọi Kim Lang được lặp lại vừa thiết tha, trân trọng, nhưng cũng đầy đau đớn và tuyệt vọng. Câu thơ ngắt nhịp 3/3 như một tiếng nấc nghẹn, để rồi câu sau nhịp thơ trải dài như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của bản thân để nghĩ đến người khác, thể hiện đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã dành tặng cho nàng.
Về nghệ thuật, đoạn trích đã khắc họa tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật Thúy Kiều. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu, trách nhiệm, sự hi sinh và số phận bạc mệnh của nàng. Vừa là người con hiếu thảo, vừa là người yêu thủy chung, Kiều đã khiến bao người rơi nước mắt, đồng cảm và xót xa. Đoạn trích còn thành công trong việc kết hợp ngôn ngữ tự sự và trữ tình, đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo thành ngữ dân gian và sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ngợi ca mãi mãi.
Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã vẽ nên bức tranh cảm động về số phận Thúy Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, ta càng thêm trân trọng tài năng của Nguyễn Du, thấy được giá trị của “Truyện Kiều”, và hiểu vì sao tác phẩm được ví như viên ngọc quý không thể thay đổi, thêm bớt, như tiếng đàn không một lần lỡ nhịp.
..........
Tải file tài liệu để xem thêm phân tích Trao duyên
- Soạn bài Ôn tập trang 54 Chân trời sáng tạo - Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 8 tập 1
- Văn mẫu lớp 6: Hóa thân thành người mẹ kể lại câu chuyện Thánh Gióng (8 bài mẫu)
- Phân tích nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm 'Người đàn ông cô độc giữa rừng' - Dàn ý và 11 bài văn mẫu lớp 7
- Diện tích lục giác đều: Khám phá công thức chuẩn và phương pháp tính toán chi tiết
- Luyện từ và câu: Nghệ thuật chọn lọc từ ngữ - Bài 25 Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 Kết nối tri thức