Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều - Dàn ý chi tiết cùng 3 bài văn mẫu xuất sắc nhất
Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều của Vũ Quốc Trân mang đến ba bài văn mẫu xuất sắc, đạt điểm cao của học sinh giỏi. Qua đó, các bạn sẽ có thêm nguồn tài liệu tham khảo phong phú để trau dồi kỹ năng viết và phân tích thơ ca một cách sâu sắc.

Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều dưới đây được trình bày với văn phong mạch lạc, dễ hiểu, bao gồm cả bài phân tích ngắn gọn và chi tiết. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận rõ nét nỗi tương tư da diết của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Tú Uyên với người con gái trong mộng. Đừng quên khám phá thêm nhiều bài văn mẫu hay khác tại chuyên mục Văn 11 Chân trời sáng tạo.
Dàn ý phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
a, Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm, nêu bối cảnh sáng tác và ý nghĩa của câu chuyện.
b, Thân bài
- Hoàn cảnh éo le của Tú Uyên và khoảnh khắc định mệnh khi chàng gặp người con gái trong mộng.
- Nỗi nhớ thương da diết, ngày đêm canh cánh trong lòng chàng. Khi bắt gặp bức tranh vẽ người thiếu nữ giống hệt người mình từng gặp, chàng đã mua về và coi như tri kỷ.
- Sự việc kỳ lạ xảy ra khi chàng đi học về, thấy cơm canh đã dọn sẵn, khiến chàng vừa ngạc nhiên vừa tò mò.
- Quyết định rình xem, chàng bất ngờ chứng kiến người thiếu nữ bước ra từ bức tranh, như một phép màu kỳ diệu.
- Cuộc đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, hé lộ mối nhân duyên tiền định từ kiếp trước.
- Cuộc sống hạnh phúc, viên mãn của đôi trai tài gái sắc, như một giấc mơ trở thành hiện thực.
c, Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung sâu sắc và nghệ thuật độc đáo của tác phẩm, để lại ấn tượng khó phai trong lòng độc giả.
Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư da diết của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Tú Uyên với người con gái trong mộng, phản ánh tình yêu đôi lứa trong xã hội phong kiến đầy ràng buộc.
Mỗi thời đại mang trong mình những quan niệm khác biệt về tình yêu, tạo nên những chuẩn mực riêng về cái đẹp trong tình cảm. Sự khác biệt ấy không nhằm phủ nhận giá trị của tình yêu xưa hay nay, mà chỉ làm nổi bật sự đa dạng trong cách con người thể hiện và trân trọng tình yêu.
Khác với thời xưa, tình yêu hiện đại mang tính tự do và thoải mái hơn, không còn bị gò bó bởi sự sắp đặt của gia đình hay những quy tắc xã hội khắt khe. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc hôn nhân thường bị xem nhẹ, thay vào đó là sự kết hợp dựa trên lợi ích gia đình và địa vị xã hội.
Sự tự do trong tình yêu gần như không tồn tại trong xã hội phong kiến. Người ta tin rằng hôn nhân phải tuân theo truyền thống và quy tắc xã hội, chứ không xuất phát từ tình yêu thực sự. Điều này khiến nhiều người phải sống trong những cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
Phụ nữ là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội phong kiến. Họ bị coi như tài sản của gia đình, không có quyền tự do lựa chọn người bạn đời và phải chịu đựng những áp lực từ gia đình chồng. Thành tựu cá nhân của họ cũng thường bị lãng quên, chỉ xoay quanh vai trò phụ trợ cho chồng và gia đình.
Trái lại, tình yêu hiện đại được xây dựng trên nền tảng tự do và sự chủ động từ cả hai phía. Khi một chàng trai hay cô gái có tình cảm với ai đó, họ sẽ tìm cách thể hiện và theo đuổi tình yêu của mình. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ, tình yêu đôi khi trở nên hời hợt, được đo lường qua những lượt like hay tin nhắn vội vã trên mạng xã hội.
Dù quan niệm và cách thể hiện tình yêu có thay đổi qua thời gian, bản chất của tình yêu vẫn luôn vẹn nguyên. Việc so sánh tình yêu xưa và nay chỉ làm gia tăng khoảng cách giữa các thế hệ. Điều quan trọng là người trẻ hiện đại cần học cách sống chậm, yêu chân thành và không để vật chất chi phối tình cảm.
Phân tích bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Nhắc đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều người cho rằng tác phẩm vẫn giữ nguyên sức hấp dẫn qua bao thế hệ bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Từ địa danh đến tên nhân vật đều mang đậm chất Việt Nam. Trên nền bối cảnh kinh thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp giữa Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ bất ngờ với người con gái trong mộng.
“Bích Câu kì ngộ” có nghĩa là “Cuộc gặp gỡ kì lạ tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa danh văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa và văn nhân sĩ tử lui tới. Chàng thư sinh nghèo Tú Uyên cũng đến Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng, nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ, thấy bức họa giống hệt người con gái đã gặp nên mua về treo trong nhà. Càng ngày, Tú Uyên càng nhớ thương Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ tại “song hồ” - nơi chàng học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên không ngừng nhớ thương. Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ chăm chú ngắm nhìn bức họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết đến mức Tú Uyên cảm tưởng như người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể hiện qua hành động cụ thể. Cặp số từ “một” - “hai” cùng các từ “chung”, “thêm” cho thấy sự trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều. Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh, tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt, rồi làm thơ, mời rượu.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình
Cặp từ đối lập “gần” - “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện nỗi nhớ thương trào dâng, bứt rứt trong lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh để khuây khỏa, nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiến chàng trai tưởng như người thiếu nữ đang kề cạnh, nhưng thực chất khoảng cách vẫn quá xa xôi. Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng giăng giăng khắp lối, tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian, thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người. Trong văn học, buổi chiều thường gắn liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng diễn đạt nỗi nhớ nhung một cách ý nhị, ngọt ngào:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:
Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ
Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu nỗi nhớ thương, trông mong, nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Chàng trải lòng về hoàn cảnh của mình và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” - “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực, không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí. “đã chồn” tức là quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ như một lời than van, trách móc đầy tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ.
Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng sẵn sàng đổi nghìn vàng để đổi lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” thể hiện nỗi nhớ sâu đậm, không gì có thể so sánh được. Câu thơ mang hình thức câu hỏi tu từ, nhấn mạnh tình cảm mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để chiêm ngưỡng dung nhan của nàng, vượt qua mọi giới hạn của không gian và thời gian.
Bằng cách sử dụng điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã khắc họa nỗi nhớ da diết và tình yêu mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.
Tiếp theo là những câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Tú Uyên và Giáng Kiều:
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy mang “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm ngọt ngào như hoa. Tú Uyên thấy lạ, trong lòng nảy sinh nghi ngờ. Sáng hôm sau, chàng vờ đi ra ngoài rồi bất ngờ trở về, bắt gặp người con gái xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên vô cùng hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối bời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.
Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam, hiền thục và có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Nàng tự nhận mình là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều, có thể thấy mối tình Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.
Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và ý thức cao độ về danh dự của mình:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!
Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế, khi công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy, để thể hiện tấm lòng mà Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình, khác xa với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) - “lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”
Giáng Kiều đã nhắc đến “tiền nhân” - duyên nợ từ kiếp trước để giải thích lí do nàng xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay không dễ bị phai nhạt bởi khoảng cách, nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.
Sau cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Chỉ trong chốc lát, căn lều cỏ đơn sơ đã biến thành lâu đài nguy nga. Ánh dương quang rực rỡ bao phủ, chiếu sáng cả một góc trời. Kẻ ra người vào tấp nập, ai nấy đều thanh tao, lịch lãm. Các từ láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã khắc họa tâm trạng vui tươi, say sưa trong men rượu của quan khách và gia chủ.
Như vậy, đoạn trích không chỉ khắc họa nỗi nhớ da diết của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều mà còn là cuộc gặp gỡ định mệnh của đôi uyên ương, biểu tượng cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Thể thơ lục bát truyền thống, hệ thống từ láy giàu sức biểu cảm, cùng những điển tích, điển cố và hình ảnh thiên nhiên ước lệ đã góp phần tạo nên thành công rực rỡ cho tác phẩm.
Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là một truyện Nôm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Câu chuyện kể về chàng thư sinh Trần Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu và cùng nhau se duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” miêu tả hoàn cảnh đưa đẩy chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên vợ chồng.
Câu thơ đầu tiên đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Trần Tú Uyên.
Mưa hoa khép cánh song hồ
Cuộc đời thật nghiệt ngã với chàng khi cha mẹ mất sớm, chàng sống một mình lủi thủi trong căn nhà giữa hồ Bích Câu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần, chàng dõi theo nhưng nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó, chàng ôm nỗi tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
...
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh khóc thương chồng, nay trở thành nơi chất chứa nỗi tương tư của nhân vật. Một ngày, Tú Uyên mua được bức tranh vẽ người thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya” ôm mộng. Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người trong tranh là người thật. Chàng nhớ nhung đến “chồn” cả người, chồn ở đây có nghĩa là ốm yếu, không còn cử động được, chàng nhớ nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng còn ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà chàng ngày đêm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình cảm của chàng thật sâu nặng, giống như Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Vấn vương”:
Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là mắt ấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.
Một thời gian sau, một hôm Tú Uyên bận việc ở trường, trở về nhà khi trời đã muộn thì thấy cơm nước được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm cho chàng là ai:
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”. Bát trân là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc hẳn chỉ có “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
...
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Thỏa nỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
...
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!
“Ba sinh” ở đây chính là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Từ đó, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương duyên này. Nàng hóa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy với đầy đủ kẻ hầu người hạ. Thiên thời địa lợi nhân hòa cùng chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, “Nghê thường” hay chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc rõ nét, với bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, mang nét mộng tưởng hoang đường về tình yêu. Ẩn chứa trong đó là tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong xã hội. Đó là cái nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người muốn thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng con người giải tỏa, cải cách tâm hồn, thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.
- Văn mẫu lớp 10: Phân tích chi tiết Diêm Vương xử kiện trong 'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' - Dàn ý chi tiết & 4 bài văn mẫu đặc sắc
- Soạn bài Ôn tập trang 120 - Chân trời sáng tạo 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 từ sách Chân trời sáng tạo tập 1
- Soạn bài Chúng ta có thể đọc nhanh hơn? - Ngữ văn lớp 7 trang 98 sách Chân trời sáng tạo tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo
- Văn mẫu lớp 9: Phân tích và nghị luận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Kèm dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu)
- Soạn bài Những cái nhìn hạn hẹp - Chân trời sáng tạo 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 trang 33 tập 1