Văn mẫu lớp 11: Khám phá tâm trạng Thúy Kiều qua đoạn trích Trao Duyên - 3 dàn ý & 18 bài văn mẫu xuất sắc
Khám phá tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên của Nguyễn Du qua 18 bài văn mẫu đặc sắc, kèm theo 3 hướng dẫn viết chi tiết. Những bài văn này không chỉ bám sát chương trình học mà còn giúp học sinh nâng cao kỹ năng cảm thụ văn học, từ đó viết nên những tác phẩm giàu cảm xúc và sáng tạo.

TOP 18 bài phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên là nguồn tài liệu quý giá, hỗ trợ học sinh trong việc tự học và mở rộng khả năng cảm nhận văn học. Những bài viết này không chỉ giúp các em làm văn sáng tạo mà còn cung cấp góc nhìn đa chiều về tác phẩm. Đừng bỏ lỡ các bài viết liên quan như phân tích 8 câu cuối Trao Duyên và phân tích toàn bộ đoạn trích Trao Duyên.
Dàn ý tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, đoạn trích
- Nguyễn Du là một ngôi sao sáng trên nền trời thơ ca Việt Nam, ông còn là bậc thầy trong cả việc miêu tả nội tâm nhân vật.
- Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
- Khái quát tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích: Đoạn trích là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều khi phải chia lìa hạnh phúc của mình.
b) Thân bài
* Luận điểm 1: Tâm trạng Kiều khi mở lời trao duyên
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
....
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
- Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa).
-> Lời xưng hô của Kiều vừa như trông cậy, vừa như nài ép, phù hợp để nói về vấn đề tế nhị “tình chị duyên em”.
- Nhắc nhở mối tình của mình với chàng Kim:
- “Giữa đường đứt gánh tương tư”
- “Mối tơ thừa”
- “Quạt ước, chén thề”
-> Mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.
- Kiều giãi bày lí do đi đến quyết định trao duyên cho Vân
+ Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”. Kiều buộc phải chọn một trong hai con đường là “hiếu” và “tình” -> Kiều đành chọn hi sinh tình để giữ trọn hiếu.
=> Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.
+ “Ngày xuân em hãy còn dài”
-> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”
-> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
+ “Thịt nát xương mòn”, “ Ngậm cười chín suối” : Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.
=> Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
* Luận điểm 2: Tâm trạng Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em
- "Chiếc vành, bức tờ mây"
-> Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
- Từ “giữ - của chung - của tin”
- “Của chung” : của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa.
- “Của tin” : những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều (mảnh hương, tiếng đàn)
-> Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
- Kiều dự cảm về cái chết:
+ hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
-> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng.
=> Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng, tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim Trọng của Kiều.
- Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
-> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
=> Thúy Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.
* Luận điểm 3: Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về Kim Trọng
- Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
-> Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình, số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.
- Hành động:
- Nhận mình là "người phụ bạc"
- Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
- Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
-> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý.
=> Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.
c) Kết bài
- Khái quát tâm trạng của Kiều trong đoạn trích.
- Cảm nhận của em.
Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 1
Một trong những thành công tiêu biểu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ trong đoạn trích Trao duyên. Chỉ bằng tầng ngôn từ biểu đạt, Nguyễn Du đã khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thúy Kiều trong nỗi đau xót dở dang duyên phận của mình. Những chuyển biến tâm lý của Kiều trong từng lời nói, hành động được Nguyễn Du thể hiện đầy tinh tế, gợi những đồng cảm với nhân vật trong lòng người đọc.
Mở đầu đoạn trích, là tâm trạng buồn tủi, xót xa của Kiều khi mở lời cậy nhờ em gái chắp mối duyên cho mình:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Lời Kiều cất lên vừa chân tình lại vừa tha thiết. Hai tiếng "cậy em" chất chứa cả sự khẩn cầu và tin cậy. Ngoài Vân ra Kiều chẳng thể nhờ ai được, bởi chỉ có Vân là hiểu Kiều, chỉ có Vân là người phù hợp nhất để thay Kiều chắp vá duyên mình. Hành động "lạy", "thưa" ngỡ là vô lý bởi lẽ thường là bậc làm chị sao có thể nào "lạy em", nhưng đặt trong tình huống lại rất hợp lý. Bởi với Kiều lúc này, Vân là một ân nhân, một người có thể giúp Kiều. Những hành động thể hiện trong từng lời nói ấy như báo trước cho Vân một sự hệ trọng mà Kiều sắp nói ra đồng thời cũng cho thấy những tâm tư sầu kín của nàng. Kiểu hiểu rằng với em, nhờ vả chuyện này nào dễ dàng gì, nàng hẳn cũng đã rất day dứt, nghĩ suy rất nhiều mới ngỏ lời nhờ em như vậy:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Bằng lời lẽ chân tình, Kiều giãi bày với em về sự tình lúc này. Giờ đây, tình yêu của Kiều và Kim bị "đứt gánh" giữa đường, đành cậy nhờ em "chắp mối tơ thừa" cho chị. Là người sâu sắc và hiểu truyện, Kiều hiểu được sự thiệt thòi và khó xử của Vân, nhưng không còn cách nào khác đành phó mặc em chắp mối duyên tình dang dở cùng Kim Trọng. Vừa nhờ em, nàng vừa tâm sự cùng em những kỉ niệm đẹp đẽ bên chàng Kim. Đó là những tháng ngày Kiều được hưởng hạnh phúc, vui vầy trọn vẹn. Điệp từ "khi" cùng những hình ảnh "quạt ước", "chén thề" như tái hiện lại khoảng thời gian hạnh phúc trong tâm trí Kiều, đồng thời diễn tả nỗi nhớ nhung tha thiết và tiếc nuối của Kiều ngay lúc ấy. Cuộc sống, ai cũng khát khao hạnh phúc, Kiều không nằm ngoài lẽ ấy. Để có được hạnh phúc không phải là điều dễ dàng, hạnh phúc có được mà đành ngậm ngùi rời bỏ càng tiếc nuối trăm bề. "Sóng gió bất kỳ" xảy đến, gặp cơn gia biến, Kiều có lựa chọn nào khác đâu ngoài bán thân mình chuộc cha cho vẹn đạo làm con, cho tròn chữ " Hiếu". Nhưng trọn chữ "Hiếu" rồi kiều cũng không thể phụ chữ "Tình" với chàng Kim, nên việc cậy nhờ Vân của Kiều là điều hợp lẽ. Tuy vậy, dù lý trí dẫn đường mà lòng nàng không đặng, trong mỗi tiếng thơ là đều thấy được những tiếc nuối của Kiều về mối tình dang dở. Dặn lòng mình để thuyết phục em, Kiều đưa ra những lời lẽ thật thấu tình đạt lý, mà hẳn khi Vân nghe cũng không thể nào chối từ nguyện vọng của chị:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Với Kiều, tuổi xuân giờ đây dường như không còn nữa, bán mình, nàng đành chấp nhận mất đi thanh xuân ngắn ngủi. Còn với Vân thì khác, Vân vẫn còn tuổi xuân, sắc xuân, vẫn còn thời gian để tìm hiểu và yêu thương Kim Trọng, Kiều mong em hãy vì tình máu mủ mà thay phần chị chăm sóc, san sẻ cùng Kim. Nếu được vậy thì dẫu cho có chết đi kiều vẫn vui, được an lòng nơi chín suối "ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây".
Lời Kiều thốt ra như đẫm giọt lệ thương tâm, vừa xót xa, bi ai lại vừa day dứt, tiếc nuối. Phải yêu Kim Trọng đến nhường nào, chung thủy với Kim Trọng đến ra sao thì Kiều mới đau đớn đến như vậy. Đành rằng là cậy nhờ em, nhưng là lời cậy nhờ trong tiếc nuối, trong nỗi đớn đau khôn cùng khi phải buông bỏ mối tình không trọn vẹn, trao cho người khác cái hạnh phúc mà mình vốn chắt chiu, gìn giữ bấy lâu. Vừa dứt lời cậy nhờ, Kiều trao lại những kỉ vật tình yêu của mình cho em trong nỗi luyến tiếc khôn nguôi:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai"
Tay muốn trao mà lòng chẳng đặng, bởi bao nhiêu kỉ vật là bấy nhiêu kỉ niệm, bấy nhiêu ân tình của Kiều và Kim trọng dành cho nhau. Trao cho em chiếc vành với bức tờ mây trong tiếc nuối, duyên thì mong em giữ, chắp nối nhưng vật là "của chung". Bởi dù có thế nào đi chăng nữa thì trong Kiều vẫn chung thủy một mối tình sắt son cùng chàng Kim mà thôi, không gì có thể thay đổi được điều đó. Trong nỗi đau đớn tột cùng, Kiều ngậm ngùi nghĩ đến cái chết. Nhưng dẫu có ở chốn suối vàng lạnh lẽo, lòng Kiều vẫn sẽ không quên lời thề son sắt, thủy chung. Nỗi đau lên đến tận cùng, nàng nói với em mà như nói với chính lòng mình, với người thương nơi xa xôi. Lời Kiều thiết tha, mang nỗi xót xa, tuyệt vọng, mang nỗi phẫn uất, đớn đau, mang cả những luyến tiếc, nhớ thương và cả trăm ngàn những ngổn ngang:
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây."
Yêu Kim Trọng bao nhiêu thì Kiều lại càng trách cứ bản thân mình phụ bạc chàng Kim bấy nhiêu. Một người trân trọng và thủy chung như Kiều luôn mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Hành động "trăm nghìn gửi lạy" như lời tạ lỗi mà Kiều gửi đến Kim vì đã phụ chàng, vì đã khiến cho mối tơ duyên trở nên " ngắn ngủi", lỡ làng, không trọn vẹn. Trong nỗi xót xa, Kiều trách móc phận mình bạc bẽo, trái ngang. Tiếng gọi Kim Lang trong nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây."
Trong tiếng gọi "Kim Lang" là cả nỗi nhớ thương chất chứa, nỗi đau giằng xé tâm can và những yêu thương tha thiết. Dẫu cho thế nào đi nữa, Kiều vẫn trân trọng chàng Kim, gọi Kim Trọng bằng hai tiếng "Kim Lang" thật chân thành.
"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Cho đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình thương. Đến cuối cùng, Kiều vẫn tự nhận lỗi về mình, trách chính mình đã phụ bạc.
Đoạn trích Trao duyên tuy chỉ là một phần nhỏ trong tác phẩm dài 3254 câu thơ lục bát của Truyện Kiều nhưng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên thành công cho tác phẩm. Nỗi đau giằng xé của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch tình yêu được lột tả thật chân thực. Ở đó, ta thấy được sự mạnh mẽ, dứt khoát của một người con gái hết mực lý trí và cũng thấy được sự yếu đuối nhưng rất mực chân thành của một người phụ nữ thủy chung, giàu tình cảm.
Tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên - Mẫu 2
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”
Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Thúy Kiều là chị, tuy nhiên khi nhờ vả, muốn nói chuyện với em mình, nàng dùng sự kính trọng, nhã nhặn đối với em.
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?"
Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lại là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có ‘thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn trở.
Đoạn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.”
Những câu thơ tiếp theo là lời dặn dò của Kiều với Vân sau khi trao em mối duyên của mình:
"Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!"
Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng. Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ mãi.
Tuy rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim. Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát. Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình. Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.
“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức. Từng kỉ niệm ấy Kiều sẽ mãi lưu giữ bên mình. Đó cũng là sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người. Đến đây, người đọc không khỏi tiếc nuối: tiếc nuối cho số phận của Kiều, tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỉ niệm mà họ đã từng có với nhau.
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Những việc Kiều làm khiến người khác phải thương xót. Tuy nhiên, với nàng, đó lại là những lỗi lầm nàng gây ra cho người nàng thương yêu. Nàng gửi đến chàng Kim trăm nghìn cái lạy để mong chàng tha thứ vì mình đã không giữ đúng lời hứa cùng chàng nên duyên vợ chồng. Tơ duyên của hai người có lẽ chỉ đến được đây thôi, từ nay Vân sẽ thay Kiều yêu thương, chăm sóc cho chàng. “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” câu nói Kiều thốt ra như một lời xin lỗi, tiễn biệt mà nàng gửi đến Kim Trọng. Từ nay, Kiều phải đi về nơi khác, phải phụ tình cảm mà Kim dành cho mình từ đây. Có thể Kim Trọng sẽ thất vọng, sẽ đau khổ khi nàng ra đi nhưng nàng không thể làm khác được.
Từng câu thơ là sự đau khổ, bất hạnh của nàng Kiều, nhưng chính những điều này khiến ta nể phục, yêu thương cô Kiều vì cô không chỉ là người sống tình nghĩa mà còn là người có suy nghĩ sâu sắc, luôn quan tâm, lo lắng cho người khác trước khi lo cho bản thân mình.
Điểm nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy Vân.
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 3
Khi tai họa ập xuống, Thúy Kiều đã chọn con đường mà những người con hiếu thảo thường đi: "Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành." Sau khi giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, nàng lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và xót xa hơn. Đoạn trích Trao Duyên không chỉ khắc họa sâu sắc bi kịch của Thúy Kiều mà còn giúp chúng ta thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quý của nàng.
Trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với nỗi đau khổ tột cùng. Ngọn đèn leo lét in bóng nàng, chiếc khăn thấm đẫm nước mắt: "Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn." Điều gì đã khiến nàng "ngồi nhẫn tàn canh" trong tâm trạng bàng hoàng đến thế? Chỉ khi Thúy Vân "ghé đến ân cần hỏi han," Kiều mới bộc bạch nỗi lòng sâu kín. Người con gái tài sắc ấy không chỉ hiếu thảo với cha mẹ mà còn là một tâm hồn thiết tha, sâu nặng trong tình yêu, sẵn sàng hy sinh bản thân vì người mình yêu. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách đáng quý của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai sẽ ra sao nơi đất khách quê người? Nhưng trong giờ phút này, trái tim nàng chỉ hướng về người yêu, thể hiện qua lời khẩn cầu tha thiết với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Tài năng của Nguyễn Du thể hiện qua cách ông lựa chọn từ ngữ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong các từ biểu đạt sự nhờ vả như nhờ, mượn, phiền,... ông chọn từ "cậy," vì nó hàm chứa cả sự nhờ vả lẫn niềm tin. "Chịu lời" chứ không phải nhận lời, bởi nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Việc Kiều nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, ép buộc, đẩy cả hai chị em vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả "nghĩa" cho Kim Trọng: "xót tình máu mủ thay lời nước non." Trong quan niệm trung đại, tình luôn gắn liền với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi việc trả nghĩa này là hợp lý. Dù đó là trách nhiệm của Vân: "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em," Thúy Kiều vẫn đưa ra những lý lẽ để thuyết phục em gái. Những lý lẽ ấy càng làm nổi bật tình yêu sâu nặng của nàng dành cho Kim Trọng, đồng thời khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Kiều. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những ký ức tình yêu với Kim Trọng: "Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề"; trao cho Vân những kỷ vật tình yêu: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,... với hy vọng thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu và nỗi niềm với Kim Trọng.
Nhưng càng yêu Kim Trọng bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch đau khổ bấy nhiêu. Đó là bi kịch của một tình yêu đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang này được thể hiện qua câu thơ mang sắc thái thành ngữ: "Giữa đường đứt gánh tương tư." Hình ảnh ẩn dụ này đã xuất hiện trong ca dao, cho thấy nỗi đau của Kiều không xa lạ với số phận người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng vẫn đau đớn hơn bất kỳ thiên tình sử nào trước đó. Một phần vì Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu. Nàng trao lại những kỷ vật thiêng liêng, nhưng trong mối quan hệ với Kim Trọng, Nguyễn Du luôn dành cho Kiều chữ "tình" và Vân chữ "duyên."
Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa
Kiều hy vọng thông qua những kỷ vật, nàng có thể hiện diện trong tình yêu và tâm thức của Kim Trọng: "Mất người còn chút của tin." Nhưng điều đó có ý nghĩa gì khi "chút của tin" còn mà người đã mất? Con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: "Thấy hiu hiu gió thì hay chị về." Nhưng nàng ý thức được rằng đó là cái chết oan nghiệt: "Rảy xin chén nước cho người thác oan." Trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương giải oan cho Trương Chi, còn trong Truyện Kiều, giọt lệ của Kim Trọng không thể giải tỏa mối tình oan khuất của Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn là sự trở về không có gặp gỡ, luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương: "Dạ đài cách mặt khuất lời." Sau này, trong màn "Tái hồi Kim Trọng," cuộc gặp gỡ của hai người không còn là sự gặp lại của tình yêu, vì "sự đời đã tắt lửa lòng," "đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì."
Qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Thúy Kiều, cũng như bi kịch của nàng trong đoạn trích "Trao Duyên," người đọc nhận ra "sức cảm thông lạ lùng" của Nguyễn Du dành cho những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 4
Tình yêu đầu đời luôn là thứ tình cảm thuần khiết và đẹp đẽ nhất. Nhưng với Thúy Kiều, tình yêu ấy lại chất chứa biết bao đau thương và xót xa. Mối tình đẹp như mộng của nàng với Kim Trọng buộc phải chia lìa vì biến cố gia đình. Để trọn chữ hiếu và chữ tình, nàng quyết định trao lại mối duyên này cho Thúy Vân – người em gái, để Vân thay nàng đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Tất cả được thể hiện qua đoạn trích Trao Duyên đầy xúc động. Đoạn trích đã khắc họa rõ nỗi đau đớn, dằn vặt khôn nguôi của Kiều khi phải từ bỏ mối tình sâu nặng của mình.
Đoạn trích Trao Duyên thuộc từ câu 723 đến câu 756 trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Sau đêm thề nguyền với Kim Trọng, gia đình Kiều gặp biến cố lớn, gia sản bị tịch thu, cha và em trai bị bắt. Trước tình cảnh đó, Kiều buộc phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy bốn trăm lạng vàng cứu gia đình. Lúc này, Kim Trọng đang ở Liễu Dương chịu tang chú, không hay biết chuyện đau lòng xảy đến với Kiều. Đêm trước ngày ra đi, nàng đã nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nỗi đau và sự giằng xé trong lòng Kiều được đẩy lên đỉnh điểm trong đoạn trích này.
Đêm trước ngày rời xa, Kiều một mình trong bóng tối lặng lẽ. Nàng đau đớn cho số phận mình và mối tình dang dở với Kim Trọng. Nàng tự trách mình là nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho chàng:
“Công trình kể biết mấy mươi
Vì ta khăng khít cho người dở dang!
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”
Kiều mang trong lòng nỗi mặc cảm tội lỗi dù mối tình này là sự tự nguyện của cả hai. Dưới ánh đèn mờ ảo, nàng khóc thương cho duyên phận mình. Tâm trạng Kiều là sự đan xen giữa dằn vặt và rối bời. Nàng nghĩ rằng chỉ còn cách trao lại mối duyên này cho Thúy Vân, để Vân thay nàng kết duyên với Kim Trọng.
Khi Thúy Vân thấy vẻ mặt buồn bã của Kiều, Vân đã hỏi han và Kiều trả lời:
“Lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”
Kiều mở lời trong sự e ngại, bởi đây là chuyện tình riêng tư của nàng. Nàng thận trọng chọn từng lời nói, ngập ngừng nhờ cậy em gái:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Câu nói của Kiều khiến người đọc cảm nhận được sự e dè và tầm quan trọng của câu chuyện. Nàng dùng từ ngữ chính xác, thể hiện sự đắn đo khi nhờ cậy em. Từ “cậy” mang âm điệu nặng nề, thể hiện sự nhờ vả đầy dằn vặt. Hành động “lạy” của Kiều càng làm nổi bật sự tôn kính và nỗi đau trong lòng nàng.
Kiều khéo léo đặt vấn đề với Vân, khiến Vân cảm nhận được tầm quan trọng và nỗi đau của nàng.
Sau lời mở đầu, Kiều bộc bạch nỗi lòng về mối tình với Kim Trọng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Từng lời từng lời là từng kỉ niệm về mối tình đầu trong sáng, vẹn nguyên của nàng. Những lời hẹn ước, thề nguyền dưới trăng vẫn còn đầy, thế mà nàng đành lòng phải “đứt gánh”. Câu thơ nghe như lời tự tình thổn thức, lời tâm sự của Kiều về nỗi lòng khó chọn lựa giữa hiếu và tình:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Trong tình thế khó xử đó, nàng đã quyết định chọn chữ hiếu, bán mình lấy bốn trăm lạng vàng cứu cha và em. Nhưng trong lòng nàng vẫn canh cánh nỗi niềm tình yêu với chàng Kim – món nợ tình khó lòng trả hết. Từng câu từng chữ đều là nỗi đau khổ khôn cùng của Kiều. Vì vậy, nàng van lơn em gái, hãy vì tình cảm máu mủ mà thay mình kết duyên, trả nợ nghĩa cho chàng Kim thay nàng. Nếu được như thế, nàng có chết đi bằng cách thê thảm nhất cũng sẽ vui lòng.
Những câu chữ trong lý lẽ trao duyên của Kiều hết sức chặt chẽ và thông minh. Nhưng ẩn chứa trong đó là sự dằn vặt và xót xa cho mối tình đầu của mình.
Sau khi giải thích lý lẽ trao duyên cho Thuý Vân, nàng lặng lẽ trao cho em những kỉ vật tình yêu của mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Nếu ở trên, Kiều bình tĩnh phân tích cho Vân nghe mọi chuyện, thì ở đoạn này, nàng không thể kìm nén được nữa. Những câu thơ nghe như tiếng nấc nghẹn của nàng khi đưa cho em gái từng kỉ vật. Nàng trao hết đi, trao “duyên này” đi, tác thành cho mối duyên giữa Vân và Kim Trọng, nhưng những kỉ vật này, hãy coi nó là “của chung”, của cả ba người. Những dòng thơ tuôn trào là nỗi lòng Kiều trong giằng xé, vừa muốn trao đi mối duyên của mình lại vừa tiếc nuối nó. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Nàng dự cảm được tương lai mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan"
Trong khi Vân và chàng Kim được nên duyên vợ chồng, Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là một mảnh hồn vất vưởng nơi trần thế, “hiu hiu” trong gió. Dù “nát thân bồ liễu” thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề sắt son cùng Kim Trọng, vĩnh viễn không bao giờ quên. Thật là mâu thuẫn, thật là đan xen. Bởi Kiều đã nói nếu Vân chịu nhận lời giúp nàng thì nàng “thịt nát xương mòn” cũng sẽ “ngậm cười chín suối”. Ấy vậy mà giờ đây, khi trả được món nợ tình duyên, nàng cũng không hề thanh thản mà còn xót xa, nặng nề hơn trước nữa. Phải chăng đó là bởi trước đó, nàng lo cho người mà quên đi mình, giờ đây khi lo chu toàn chuyện của người, nàng mới nhận ra sự bạc bẽo của phận mình. Tương lai mờ mịt, oan trái, còn tinh thần nàng thì như nửa tỉnh nửa mê. Những câu nói của nàng như lời của một linh hồn phảng phất từ thế giới bên kia vọng lại.
Có thể thấy, trong lời nói của Kiều là sự giằng xé, sự tiếc nuối khôn nguôi khi phải trao đi mối duyên tình đậm sâu của mình. Và chứa chán trong đó, còn là nỗi đau xót, xót xa cho số phận bạc bẽo của mình, cho tương lai mù mịt, không lối thoát.
Trong sự cao trào của nỗi đau xót, Kiều thốt lên những lời gan ruột đau đớn cho mối duyên tình dở dang của mình, cho số phận của mình:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Giờ đây, trong thực tại nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ thấy những đổ vỡ, những tang thương “trâm gãy, bình tàn”. Thế nhưng, còn có thể làm được gì, “phận” đã “bạc như vôi” thì đành phải chấp nhận, đành để mối tình ấy, trái tim ấy “lỡ lãng”. Kiều biết nàng đã phụ chàng, nàng đã làm chàng phải thất vọng. Vậy nhưng giờ đây, nàng chỉ còn biết tạ tội với tình lang của mình trong chua xót và bất lực. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi, nàng đã thốt lên trong sự nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:
“Ôi Kim lang! Hời Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tiếng nấc nghẹn ấy của Kiều là sự bộc lộ toàn bộ tâm trạng đau đớn lúc đó của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt cứ nhân lên nhân lên gấp bội, lên tới tột đỉnh.
Đoạn kết khép lại trong nỗi đau thương quằn quại của Kiều. Nhưng nỗi đau ấy không phải vì bản thân nàng mà vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng ngập tràn sự vị tha và nhân hậu vô bờ, nàng muốn dành hạnh phúc cho người khác còn bản thân thì sẵn sàng chấp nhận sự hi sinh.
Đoạn trích Trao Duyên đã khắc họa chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi buộc lòng phải từ bỏ mối duyên sâu nặng với Kim Trọng. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ sắc sảo để diễn tả từng rung động trong tâm hồn Kiều, giúp người đọc cảm nhận được sự đau đớn, giằng xé và nghẹn ngào trong con người nàng một cách chân thực nhất.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 5
Đoạn trích “Trao duyên” giữ một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về kết cấu, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời Thúy Kiều: mở đầu hành trình lưu lạc đầy đau khổ. Về chủ đề, đoạn thơ thể hiện sâu sắc bi kịch tình yêu tan vỡ. Về nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài năng miêu tả nội tâm nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du.
Tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên được diễn tả qua ba giai đoạn như ba nấc thang tâm lý. Mở đầu là lời khẩn cầu thiết tha của Kiều với Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ thể hiện sự khẩn khoản, thiết tha và niềm tin Kiều đặt vào Vân. Trong vô số từ ngữ diễn tả sự nhờ vả, Nguyễn Du chọn từ “cậy”. Phải chăng chỉ từ này mới hàm chứa sự nhờ vả và niềm tin? Tại sao lại là “chịu lời” chứ không phải “nhận lời”, và tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày trước, liệu Vân có chịu lời? “Nhận lời” hàm ý sự tự nguyện, nhưng Vân chưa biết chuyện gì để tự nguyện. Do đó, “chịu lời” là sự nài ép, đẩy Vân vào tình thế không thể từ chối. Kiều hiểu rõ hoàn cảnh khó xử của mình và của em gái. Qua đây, Nguyễn Du thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời.
Kiều không dài dòng về hoàn cảnh của mình. Những biến cố vừa xảy ra ai cũng rõ. Nhưng nỗi bất hạnh của Kiều chỉ có Vân mới thấu hiểu. Vân là người chứng kiến cả hai biến cố trong đời Kiều: khi gặp Kim Trọng và khi sóng gió ập đến. Mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Kiều lúc này không phải giữa hiếu và tình. Kiều đã giải quyết xong mâu thuẫn đó, dù khó khăn nhưng dứt khoát và thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nếu là chuyện chữ hiếu, Kiều đâu cần “cậy”, “lạy”, hay “thưa” với em gái. Việc gá duyên với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Mâu thuẫn chính trong đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu và hạnh phúc tan vỡ”. Sự dở dang này được thể hiện qua câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” từng xuất hiện trong ca dao. Những đau khổ của Kiều không xa lạ với số phận người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu của Kiều vẫn đau đớn hơn bất kỳ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.
Sau tám câu mở đầu, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Kiều dùng những lời tâm sự mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời này có sức thuyết phục mạnh mẽ. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, đồng thời khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều biết Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non”. Kiều chỉ có thể trao duyên, còn tình yêu, nàng không thể trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: kỉ vật và linh hồn bất tử.
Kiều trao lại Vân những kỉ vật. Nàng hy vọng, qua kỉ vật, mình sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp vì gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng vì là riêng – chỉ dành cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em gái. Nỗi xót xa trong từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Nỗi đau trong từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.
Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa qua đã trở thành quá khứ. Thời gian khách quan bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian tâm trạng. Kỉ vật còn đó, nhưng Kiều không còn hiện diện trong tình yêu. “Chút của tin” còn, nhưng người đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật không giúp được Kiều.
Kiều tìm đến con đường thứ hai: trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều hy vọng, bằng sự trở về này, nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng và nhận được sự đồng cảm: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương giải oan cho Trương Chi, thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ Kim Trọng không thể giải tỏa mối tình oan khuất của Kiều. Sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không gặp gỡ.
Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không giảm mà còn được đẩy lên cao hơn. Đó là lúc sự trở về bằng linh hồn bất lực trước cảm nhận thực tế của Kiều. Nàng ý thức rõ về hiện tại: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.
Kiều ý thức về hiện tại và càng thương mình. Ai nỡ trách nàng khi sau khi thương người, vì người, nàng mới tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải vị kỷ mà vẫn rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không có bóng dáng đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi việc “đối với người” đã xong, nàng mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn).
Tâm trạng bi kịch của Kiều càng trở nên sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận, nàng vẫn không ngừng khát khao một tình yêu chân thành và vĩnh cửu: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện diện của tình yêu khiến Kiều quên đi sự tồn tại của người em gái. Từ cuộc đối thoại với Vân, Kiều chuyển sang độc thoại nội tâm, rồi dồn hết tâm trí về Kim Trọng.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được nhắc đến hai lần, kèm theo là những thán từ thể hiện nỗi đau đớn và tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3, nghe như tiếng nấc nghẹn, rồi đến câu thơ dưới, nhịp thơ dài ra như một lời than thở. Lời trao duyên kết thúc bằng một tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng. Dù tình yêu tan vỡ, khát vọng về tình yêu vẫn được khẳng định. Đó là vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn trường tồn của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ mang đầy bi kịch và đau thương, nhưng không hề u ám, mà vẫn tỏa sáng niềm tin vào tình yêu và con người.
Đoạn thơ khắc họa một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió dữ dội trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại không phải vì bản thân, mà vì trái tim yêu thương nàng dành trọn cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy thật cao đẹp biết bao! Tình thương người sâu sắc, mong muốn người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi và hi sinh. Tấm lòng ấy đã chạm đến trái tim người đọc, để lại ấn tượng sâu sắc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến hình ảnh nàng sống mãi với thời gian. Đoạn thơ còn cho thấy “sức cảm thông lạ lùng” (Hoài Thanh) của đại thi hào dân tộc trước nỗi đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta còn thấy được tài năng miêu tả nội tâm đặc sắc của Nguyễn Du.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 6
Nguyễn Du, một ngôi sao sáng chói trong nền văn học Việt Nam, không chỉ là nhà thơ tài hoa mà còn là bậc thầy trong việc khắc họa nội tâm nhân vật. Bằng niềm đam mê và sự đồng cảm sâu sắc, ông đã hóa thân vào từng nhân vật để thấu hiểu nỗi lòng của họ. Đoạn trích Trao Duyên là minh chứng rõ nét nhất cho tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du, đặc biệt là diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều.
Đoạn trích là tiếng lòng đau đớn và xót xa của Thúy Kiều khi nàng buộc phải từ bỏ hạnh phúc của mình. Nàng trao duyên cho em gái, Thúy Vân, và nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa một cách chân thực và sống động những diễn biến tâm lý phức tạp trong lòng Kiều. Bằng ngòi bút tài hoa, ông đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng đầy đau thương và đa cảm của nàng Kiều.
Mở đầu đoạn thơ, ta thấy được lời nói dịu dàng và đầy tình cảm của Thúy Kiều dành cho Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa
Kiều không chỉ đơn thuần nhờ Vân mà còn dùng từ “cậy”, thể hiện sự nài nỉ và van xin. Lời nói của nàng không chỉ mang tính nhờ vả mà còn chứa đựng sự mong đợi và hy vọng. Qua đó, ta thấy được sự khéo léo và tinh tế trong cách ứng xử của Kiều.
Tuy nhiên, ẩn sau lời nói ấy là sự đau đớn và bất lực của Kiều. Nàng không chỉ nhờ cậy mà còn “lạy” rồi “thưa”, một hành động nghịch lý nhưng đầy ý nghĩa. Điều này cho thấy việc Kiều sắp nói ra là vô cùng hệ trọng. Nàng đẩy Vân vào tình thế khó xử, nhưng Vân vẫn chấp nhận. Qua đó, ta thấy được tâm lý phức tạp và sâu kín của Kiều.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Cụm từ “đứt gánh tương tư” đã khắc họa rõ nét cuộc đời đầy bi kịch và éo le của Kiều. Tình yêu giữa nàng và Kim Trọng vốn đẹp đẽ và ngọt ngào, nhưng giờ đây buộc phải chia lìa. Nỗi đau và sự xót xa ấy khiến Kiều bắt đầu hồi tưởng lại những kỷ niệm hạnh phúc bên người yêu.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Những kỷ niệm về lời hẹn ước và những giây phút bên nhau không thể nào phai mờ trong tâm trí Kiều. Hạnh phúc đến quá nhanh nhưng cũng vụt mất quá nhanh, khiến nàng không kịp trở tay. Kiều chưa kịp tận hưởng trọn vẹn tình yêu thì nó đã tuột khỏi tầm tay.
Có lẽ những kỷ niệm về Kim Trọng sẽ mãi in sâu trong tâm trí Kiều. Những ngày tháng hạnh phúc ấy đến và đi quá nhanh, khiến nàng không kịp nắm bắt. Kiều chưa kịp tận hưởng trọn vẹn tình yêu thì nó đã vụt mất, để lại trong lòng nàng nỗi đau khôn nguôi.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 7
Thông thường, trao duyên là hành động giữa nam và nữ yêu nhau, nhưng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều lại trao duyên của mình cho em gái. Hành động này mang một ý nghĩa khác biệt, thể hiện sự đau đớn và bất đắc dĩ của Kiều. Qua đoạn trích Trao Duyên, ta thấy rõ hình ảnh Thúy Kiều khi buộc phải trao mối duyên tình của mình cho Thúy Vân.
Trước tiên, khi nhờ cậy Thúy Vân, hình ảnh Thúy Kiều hiện lên với dáng vẻ khúm núm, lạy van:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Những từ ngữ như “cậy”, “lạy”, “thưa” cho thấy Thúy Kiều đang quỳ xuống trước mặt Thúy Vân để cầu xin, nhờ vả em gái thay mình nối duyên với Kim Trọng. Hành động này không chỉ thể hiện sự tha thiết mà còn khiến người được nhờ vả khó từ chối. Thông thường, người chị không thể quỳ lạy em mình, nhưng Kiều đã làm điều đó vì mục đích cao cả: trả nghĩa cho Kim Trọng. Qua đó, người đọc không khỏi xót xa cho nàng.
Không chỉ xuất hiện với dáng vẻ khúm núm, Thúy Kiều còn hiện lên với hình ảnh tiều tụy, đau khổ:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Kiều ngồi thẫn thờ, giãi bày nỗi lòng mình với em gái. Từ khi gặp Kim Trọng, hai người đã thề nguyền gắn bó. Tưởng rằng mối tình ấy sẽ bền chặt, nhưng sóng gió ập đến, buộc Kiều phải chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Là người con hiếu thảo, nàng không thể để cha chịu oan ức, nên đành bán mình chuộc cha. Giờ đây, nàng chỉ mong Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Dù có chết, nàng cũng cam lòng. Qua từng câu thơ, người đọc như thấy được hình ảnh Kiều với đôi mắt sâu thẳm, đầy đau đớn và nuối tiếc.
Tiếp theo, Kiều trao những kỷ vật tình yêu cho em gái với sự lưu luyến, không nỡ rời xa:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai
Kiều mong Vân xót thương mà chấp nhận mối duyên với Kim Trọng, nhưng cũng mong em coi những kỷ vật này là của cả ba người. Nàng tưởng tượng đến cái chết của mình, mong rằng dù sau này Vân và Kim Trọng có thành vợ chồng, họ vẫn nhớ đến nàng. Dù thân xác có tan nát, linh hồn nàng vẫn giữ trọn lời thề xưa.
Cuối cùng, Kiều gọi tên Kim Trọng, lạy chàng với tất cả tình yêu và lời xin lỗi chân thành:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Hình ảnh Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương. Người con gái tài sắc ấy, với mối tình trong sáng, giờ đây trở thành kẻ phụ tình. Thông thường, kẻ phụ tình không đau khổ đến thế, nhưng Kiều lại đau đớn tột cùng. Xã hội bất công đã đày đọa và dập vùi tình yêu của nàng.
Có thể nói, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình ảnh Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Không cần miêu tả chi tiết, qua những câu thơ đầy tâm trạng, ta vẫn thấy rõ hình ảnh Kiều khi quyết định trao duyên cho Thúy Vân.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 8
Thúy Kiều, một cô gái xinh đẹp, thông minh, nhưng chính xã hội phong kiến tăm tối đã đẩy nàng vào cuộc đời đầy sóng gió và bất hạnh. Có thể nói, Nguyễn Du đã dành sự đồng cảm sâu sắc với số phận của Kiều, và qua đó, ông đã khắc họa chi tiết cuộc đời của người con gái tài sắc vẹn toàn này.
Trước khi trở thành món hàng của những kẻ buôn người, Kiều đã nghĩ đến người yêu của mình, Kim Trọng, và nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tình nghĩa với chàng. Đoạn trích Trao Duyên đã thể hiện rõ nét tâm trạng đau đớn của Kiều khi quyết định trao duyên cho em gái.
Duyên phận vốn là thứ do trời định, nhưng ở đây, Kiều lại tự mình thay trời trao duyên của mình cho em gái. Liệu điều đó có hợp lý? Duyên phận chỉ có khi hai người yêu nhau, nhưng Thúy Vân và Kim Trọng chưa từng có tình cảm với nhau. Trong sâu thẳm trái tim Kiều, việc trao duyên này không hề dễ dàng. Trao đi người mình yêu thương, làm sao nàng có thể vui được? Tuy nhiên, Kiều buộc phải vượt qua cảm xúc cá nhân để quyết định trao duyên cho em.
Mở đầu đoạn trích, mười bốn câu thơ đầu tiên thể hiện quyết định trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân.
Đầu tiên, Kiều kể với em về nỗi bất hạnh của mình. Nỗi bất hạnh ấy chỉ có Thúy Vân mới có thể thay thế được, và chỉ có em mới giúp Kiều yên tâm về chuyện tình cảm với Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ tinh tế để diễn tả việc trao duyên của Kiều. Là một người chị, Kiều đáng ra không cần phải cậy nhờ hay vái lạy em mình, nhưng ở đây, nàng đang nhờ Vân thay mình đền đáp tình cảm với Kim Trọng. Những từ như “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” thể hiện thái độ của người dưới dành cho người trên, nhưng ở đây lại là chị dành cho em. Điều này cho thấy sự thành khẩn và đau đớn của Kiều khi phải cậy nhờ em.
Để thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã tâm sự với em về những nỗi buồn và sự đau khổ đang chất chứa trong lòng mình. Chỉ có Vân mới có thể giúp nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Kiều ngậm ngùi kể rằng nàng đã thề nguyền với Kim Trọng, nhưng giờ đây, tình yêu vừa chớm nở đã bị đứt gánh giữa đường. Vân có lẽ cũng hiểu lý do tại sao. Chính vì thế, Kiều mong em chấp nhận lời cậy nhờ của mình và chắp mối tơ duyên với Kim Trọng. Sự ngậm ngùi và đau đớn của Kiều được thể hiện rõ qua từng câu thơ. Dù là chị em, nhưng việc trao đi thứ mình không muốn trao, và thứ người khác không muốn nhận, quả thật là một nỗi đau lớn.
Tiếp theo, Kiều nói về hoàn cảnh của mình và cuộc sống của Vân để khiến lời cậy nhờ thêm phần thuyết phục, khiến Vân không thể từ chối:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Sau khi cậy nhờ em, Kiều quay về với cảm giác cô đơn. Sự cô đơn ấy khiến nàng nhớ lại những kỷ niệm xưa, và tâm trạng của nàng bắt đầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Trước hết, Kiều mong muốn trong tuyệt vọng được quay về bên người yêu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành và tờ mây là những kỷ vật thiêng liêng của tình yêu đôi lứa. Họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, trải qua những ngày tháng hạnh phúc ngập tràn niềm vui. Thế nhưng, xã hội phong kiến đã buộc Kiều phải hy sinh chữ tình vì chữ hiếu. Nàng quyết định giữ lại duyên phận, còn những kỷ vật kia thì trở thành của chung. Mai này, khi Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng, mong họ hãy nhớ đến Kiều. Phím đàn và mảnh hương thề nguyền ngày nào cũng là những kỷ vật tình yêu của Kiều và Kim Trọng. Nguyễn Du không đặt những kỷ vật ấy trong cùng một câu thơ, có lẽ để khắc họa rõ nét nỗi đau buồn, luyến tiếc của Kiều khi trao lại chúng cho em gái. Nàng như muốn níu giữ những kỷ vật ấy, nhưng buộc lòng phải trao đi để đền đáp ân tình của Kim Trọng. Qua những câu thơ này, tâm trạng Thúy Kiều hiện lên rõ rệt: nàng mong muốn quay về quá khứ, đồng thời đau đớn, tiếc nuối cho những kỷ vật tình yêu.
Tưởng rằng sau khi trao duyên, Thúy Kiều sẽ cảm thấy nhẹ lòng phần nào, nhưng trái lại, khoảnh khắc kết thúc việc trao duyên lại là lúc nàng đau đớn nhất. Có lẽ, trong sâu thẳm trái tim Kiều, một khi đã trao duyên thì tình yêu ấy không còn thuộc về mình nữa. Tình yêu bấy lâu nay bỗng chốc tan biến, khiến nàng đau đớn đến tê dại, như chết lặng giữa nỗi đau đang giày vò trái tim:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Kiều nghĩ đến cái chết và nhận ra rằng, dù có chết đi, những lời thề nguyền với Kim Trọng vẫn không thể nào quên được. Sự bất công của xã hội và nỗi đau mất mát tình yêu khiến nàng cảm thấy oan khuất, vấn vương trên cõi trần mà không thể siêu thoát. Mai sau, khi Vân và Trọng nên duyên, mong họ đừng quên Kiều. Nếu thấy hiu hiu gió, hãy nghĩ rằng nàng đang trở về. Kiều mượn cơn gió để đưa hồn mình về thăm Vân và Trọng. Lời thề với Kim Trọng, dẫu có nát thân liễu yếu, nàng cũng không thể đền đáp. Chỉ mong họ hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Cuộc sống con người, ai cũng sợ cái chết, nhưng chỉ khi nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mới dám nghĩ đến nó. Kiều ý thức được nỗi đau của mình, như thể nàng đã thấy trước con đường đầy khổ cực và gian truân phía trước, nơi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.
Qua bài thơ, ta thấy rõ tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái. Xã hội phong kiến đã đặt chữ tình và chữ hiếu lên bàn cân, buộc người con gái hiếu thảo phải lựa chọn. Vốn dĩ, chữ hiếu và chữ tình không thể đem ra so sánh. Khi làm tròn chữ hiếu, chữ tình lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính vì thế, Kiều cảm thấy đau đớn tột cùng, thậm chí nghĩ đến cái chết như một lối thoát.
Tâm trạng Thúy Kiều trong Trao Duyên - Mẫu 9
Nguyễn Du, Đại thi hào của dân tộc, đã để lại nhiều tác phẩm văn chương bất hủ, trong đó nổi bật là kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Trao Duyên là một trong những phần đắt giá nhất, thể hiện tiếng lòng đau xót và tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi phải từ bỏ hạnh phúc. Với ngòi bút miêu tả nội tâm sâu sắc, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét nỗi đau khổ tột cùng của nàng khi phải hy sinh chữ Tình vì chữ Hiếu.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong đêm khuya tĩnh mịch, Thúy Kiều gọi Thúy Vân vào để nhờ cậy. Nàng hiểu rằng việc này vô cùng khó khăn, nên đã dùng từ “Cậy” để thể hiện sự chân thành. Câu “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” cho thấy nàng đặt Thúy Vân lên vị trí cao hơn, mong em hiểu và chấp nhận lời nhờ vả. Điều này chứng tỏ Thúy Kiều là người thấu hiểu và khéo léo. Trong hoàn cảnh này, chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp nàng, vì vậy nàng đã dốc hết tâm can để thuyết phục em.
Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”
Thúy Kiều kể về mối tình với Kim Trọng, một mối tình vừa chớm nở đã phải lụi tàn. Tình cảm đang mặn nồng bỗng chốc tan vỡ vì biến cố gia đình. Giữa chữ Tình và chữ Hiếu, làm sao có thể trọn vẹn cả hai? Thúy Kiều đành phải buông bỏ chữ Tình vì chữ Hiếu, một quyết định đầy đau đớn. Nàng mong Thúy Vân hiểu được nỗi lòng của mình và chấp nhận “tình chị duyên em”. Dù có chết, nàng cũng sẽ mỉm cười nơi chín suối. Điều này cho thấy nàng đã dùng cả cái chết để thuyết phục em, một sự tuyệt vọng đến cùng cực.
Sau khi Thúy Vân đồng ý, Thúy Kiều bắt đầu trao lại những kỷ vật tình yêu:
Chiếc trâm với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng.
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin.
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên, ta thấy nỗi lòng nàng nặng trĩu khi trao kỷ vật. Từng câu chữ như đá nặng trong tim. Những kỷ vật từng là của riêng đôi ta, giờ đã thành của chung. Mối tình vừa đẹp đẽ đã phải dang dở. Nhưng nàng vẫn một lòng mong em se duyên với Kim Trọng để trọn nghĩa tình. Dù sau này em có nên vợ chồng, xin đừng quên người chị bạc mệnh này. Thúy Kiều càng nói càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Tình yêu vừa chạm tay đã vụt tan, chỉ còn lại nỗi đau và sự bẽ bàng.
Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Dường như Thúy Kiều đã nhìn thấy tương lai đen tối của mình. Cuộc đời nàng không còn lối thoát, chỉ còn lại sự cô đơn và nếu chết đi cũng chỉ là oan hồn lạc lõng. Những câu thơ này thể hiện rõ nỗi xót xa, đau đớn và bẽ bàng của nàng. Thúy Kiều chỉ mong Thúy Vân đừng quên mình, nếu âm dương cách biệt, hãy nhớ đến chị: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Chỉ tưởng tượng thôi cũng đủ thấy xót xa. Nếu đoạn trên là lời nhờ cậy Thúy Vân se duyên với Kim Trọng, thì đoạn sau là nỗi lòng đau đớn của Thúy Kiều. Sau khi lo cho em và cha mẹ, nàng mới nghĩ đến cuộc đời mình. Thế là hết! Hồng nhan bạc mệnh, tình yêu tan vỡ. Nàng hi sinh chữ Tình vì chữ Hiếu, bán thân chuộc cha, lo cho em gái có một tấm chồng như ý. Khi mọi việc đã xong, nàng mới nghĩ đến mình, nghĩ đến mối tình chớm nở đã tàn, những lời thề ước khắc cốt ghi tâm. Dù có chết, nàng vẫn nhớ đến những lời thề năm xưa. Chỉ mong được một giọt nước cho người thác oan.
Những lời tâm sự của Thúy Kiều dường như rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Lúc đầu nàng nhờ cậy, lạy lục em, khi em đồng ý, nàng mới bừng tỉnh và nghĩ đến cuộc đời mình. Nàng càng nhớ da diết đến Kim Trọng, càng tiếc thương cho mối tình trong sáng, ngọt ngào vừa mới đây thôi:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng
Nàng thốt lên: “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang!”, coi Kim Trọng như phu quân, như tình lang của mình. Nhưng từ nay, vì chữ Hiếu, nàng buộc lòng phụ chữ Tình. Sau khi bày tỏ nỗi lòng nhớ thương, trái tim nàng như nguội lạnh, tâm hồn như đã chết, cả người băng giá. Mất Kim Trọng, nàng như mất đi một nửa cuộc đời. Nàng đã nhìn thấy trước tương lai đầy bể dâu, số phận như con thuyền trôi theo dòng nước, không thể cưỡng lại.
Chỉ qua một đoạn trích ngắn trong Trao Duyên, Nguyễn Du đã khắc họa sâu sắc tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều. Một bên là chữ Hiếu, một bên là chữ Tình, nàng buộc phải đưa ra lựa chọn đầy khó khăn. Nàng hi sinh hạnh phúc cá nhân vì gia đình, một người con gái mới lớn, chưa từng trải sóng gió cuộc đời, lại phải bán thân vào chốn lầu xanh. Sự hi sinh lớn lao ấy càng cho thấy sự bế tắc và đau khổ tột cùng của nàng. Những hình ảnh ma mị, hư ảo, quá khứ và hiện tại đan xen khiến tâm trạng Kiều càng thêm rối bời, nửa mê nửa tỉnh, nửa nhớ thương nửa đau đớn.
Đoạn Trao Duyên trong Truyện Kiều là một khúc Đoạn Trường đầy đau thương trong cuộc đời Thúy Kiều. Đây là bước ngoặt đầu tiên đưa nàng vào chuỗi ngày dài tê dại, đau khổ và bế tắc. Nguyễn Du đã thành công trong việc tái hiện nỗi đau ngổn ngang của Kiều khi phải hi sinh tình yêu vì hạnh phúc gia đình. Tưởng chừng hành động của nàng là vô lý, nhưng nó lại mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tình yêu chân thành, một lòng một dạ dành cho Kim Trọng.
.............
Tải file về để xem thêm bài văn mẫu phân tích tâm trạng Thúy Kiều
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 72 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7, tập 1
- Soạn bài Ca dao Việt Nam - Ngữ văn lớp 6 trang 42 sách Cánh Diều tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Soạn bài Thực hành đọc: Chiều biên giới - Ngữ văn lớp 7 trang 104 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích tác phẩm Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra - Tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 7
- Văn mẫu lớp 4: Tả cây hoa nhài (Dàn ý chi tiết + 7 bài văn mẫu) - Bài văn tả cây hoa nhài đặc sắc