Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích 18 Câu Thơ Đầu Đoạn Trích Trao Duyên (2 Dàn Ý + 9 Bài Mẫu) - Khám Phá Tình Yêu Sâu Sắc
Phân tích 18 câu đầu đoạn trích Trao duyên không chỉ mang đến dàn ý chi tiết cùng 9 bài mẫu đặc sắc, mà còn giúp người đọc thấu hiểu tình cảm sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Tình yêu ấy như hằn sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn nàng, để lại dấu ấn khó phai trong lòng độc giả.

Phân tích 18 câu đầu bài Trao duyên, ta nhận ra Nguyễn Du đã khắc họa một quan niệm tình yêu đầy nhân văn và cao đẹp: Yêu là trao đi hạnh phúc, yêu là sự thủy chung, trọn vẹn và sắt son. Tình yêu chân thành luôn bất diệt và vĩnh cửu. Dưới đây là 9 bài văn mẫu phân tích 18 câu đầu Trao duyên xuất sắc nhất, mời bạn đọc cùng khám phá.
Dàn ý phân tích 18 câu đầu đoạn trích Trao duyên - Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên.
- Giới thiệu 18 câu thơ đầu của đoạn trích: Là lời Thúy Kiều nhờ cậy, van xin Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng.
II. Thân bài:
a. Lời nhờ cậy của Thúy Kiều (2 câu đầu)
- Lời nói
- “Cậy”: Đồng nghĩa với “nhờ” nhưng “cậy” còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi, tin tưởng về sự giúp đỡ đó.
- “Chịu lời”: Đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn bao hàm sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc không đồng ý, còn “chịu lời” thì bắt buộc phải chấp nhận, không thể từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ, nài ép của người nhờ cậy.
- Hành động: “Lạy, thưa”
- Là hành động của người bề dưới với người bề trên, nhưng ở đây Kiều là chị lại lạy, thưa em mình.
- Đây là hành động bất thường nhưng lại hoàn toàn bình thường trong hoàn cảnh này bởi hành động của Kiều là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường, hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn hợp lý.
=> Hành động bất thường đặt trong mối quan hệ với các từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều.
- Hoàn cảnh đặc biệt của Kiều:
- Thúy Kiều phải tha thiết cầu xin Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Kiều biết rằng việc mình đang nhờ Vân ảnh hưởng lớn đến cuộc đời em sau này bởi Thúy Vân và Kim Trọng không có tình yêu.
- Tâm trạng của Kiều đau khổ, tuyệt vọng bởi người ta có thể trao cho nhau kỉ niệm, đồ vật chứ không ai đi trao đi tình yêu của mình.
b. Lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu tiếp)
* Kiều bộc bạch về tình cảnh của mình:
- Thành ngữ “đứt gánh tương tư”: chỉ tình cảnh tình duyên dang dở của Kiều, nàng bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát giữa một bên là chữ hiếu một bên là chữ tình nên trao duyên là lựa chọn duy nhất của nàng.
- Chữ “mặc”: Là sự phó mặc, ủy thác, ủy nhiệm. Kiều đã giao toàn bộ trọng trách cho Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
=> Cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa của Kiều
=> Là lời thuyết phục khôn khéo của Kiều dấy lên tình thương và trách nhiệm của người em đối với chị của Thúy Vân.
* Kiều kể về mối tình với chàng Kim:
- Hình ảnh “Quạt ước, chén thề”: Gợi về những kỉ niệm đẹp, ấm êm, hạnh phúc của Kim và Kiều với những lời thề nguyền, đính ước gắn bó, thủy chung.
- “Sóng gió bất kì”: Tai họa bất ngờ ập đến, Kiều bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, phải chọn giữa tình và hiếu. Kiều đã chọn hi sinh chữ tình.
=> Mối tình Kim – Kiều là mối tình đẹp nhưng mong manh, dễ vỡ
=> Vừa bộc lộ tâm trạng đau đớn, xót xa của Kiều, vừa khiến Vân xúc động mà nhận lời.
* Kiều nhắc đến tuổi trẻ và tình máu mủ và cái chết:
- Hình ảnh ẩn dụ “Ngày xuân”: Tuổi trẻ.
=> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
- “Tình máu mủ”: Tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống.
=> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
- Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện của Kiều.
=> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.
⇒ Lý lẽ của Kiều vừa thấu tình vừa đạt lý khiến Vân không thể không nhận lời.
⇒ Kiều là một người con gái thông minh, sắc sảo cũng đầy tình cảm, cảm xúc.
c. Kiều trao kỉ vật (6 câu tiếp):
- Kỉ vật: Chiếc vành, bức tờ mây.
→ Kỷ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
- Từ “giữ - của chung - của tin”.
+ “Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa.
+ “Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: mảnh hương, tiếng đàn.
→ Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
d. Nghệ thuật:
- Cách sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình.
- Sử dụng các thành ngữ dân gian và hình ảnh ẩn dụ.
- Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ.
- Giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.
III. Kết bài:
- Khẳng định giá trị của 18 câu thơ đầu đối với đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
- Giới thiệu về trích đoạn Trao duyên và 18 câu đầu đoạn trích.
2. Thân bài
* Hai câu đầu:
- "Cậy em": đặt đầu câu gợi ra sự trông mong, tin tưởng của Thúy Kiều dành cho Thúy Vân.
- "Em có chịu lời": Cụm từ vừa mang sắc thái nghi vấn vừa mang sắc thái cầu khiến: lời nài ép, đặt Vân vào thế khó chối từ.
- Hành động "thưa", "lạy": ngỡ vô lý nhưng hợp lý. Thúy Kiều đặt mình vào vị trí của một người chịu ơn để đối đãi, ứng xử với ân nhân của mình.
* Sáu câu tiếp:
- Tình cảnh éo le "giữa đường đứt gánh", "gánh tương tư": Kiều gặp biến cố, tình yêu tan vỡ, lựa chọn chữ "hiếu"- "tình".
- "tơ thừa": sự thiệt thòi của Vân.
- "Mặc em": phó mặc, phó thác, Kiều đặt hết niềm tin vào Vân.
- Kỉ niệm Kim- Kiều: ngày quạt ước- đêm chén thề.
- Nỗi trăn trở: mong muốn trọn chữ "hiếu", vẹn chữ "tình" → Nhờ Thúy Vân giúp mình nối tiếp tình duyên dang dở với chàng Kim.
* 10 câu tiếp:
- Lý lẽ của Kiều:
- Thúy Vân "ngày xuân còn dài", có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim.
- Kiều- Vân là máu mủ, chị em "xót tình máu mủ".
- Nếu được Vân giúp đỡ thì dù phải đón nhận cái chết Kiều cũng thấy yên lòng "ngậm cười chín suối".
- Chiếc vành, bức tờ mây là minh chứng riêng cho tình yêu Kim- Kiều, giờ đành trao cho em, làm "của chung" ba người.
- Dù uất nghẹn, đau buồn, Kiều vẫn không quên dành cho em sự mong mỏi, cầu cho Vân một cuộc sống đôi lứa ấm êm, hạnh phúc.
3. Kết bài
Nêu giá trị đoạn trích và khẳng định tài năng của Nguyễn Du.
Phân tích Trao duyên 18 câu thơ đầu - Mẫu 1
Nguyễn Du tên tự là Tố Như, ông là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Nguyễn Du được xem là "đại thi hào dân tộc" với nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học Việt Nam cuối TK XIX, đầu TK XX, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông có thể kể đến là Truyện Kiều. Tác phẩm viết về cuộc đời sóng gió của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Kiều cô gái hội tụ đủ tài sắc nhưng có số phận truân chuyên, chịu nhiều bi kịch đau đớn. Một trong những bi kịch thương đau nhất mà Kiều phải trải qua đó là bi kịch tình yêu. Đoạn trích Trao duyên đã tái hiện rõ nét nhất bị kịch đó của nàng. 18 câu đầu đoạn trích là cảnh Kiều trao duyên cho em cùng những nỗi niềm khôn thấu của Kiều.
Mối tình Kim- Kiều chớm nở chưa lâu thì gia đình Thúy Kiều gặp cơn nguy biến. Là chị lớn trong gia đình, nàng nào có thể làm ngơ. Trước cơn gia biến, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để có tiền cứu cha và em. Chọn chữ hiếu để báo đáp cha mẹ cũng có nghĩa nàng đành buông bỏ tình riêng với Kim Trọng. Để hiếu-tình được vẹn tròn, Kiều đã nàng ngậm ngùi ngỏ lời cậy nhờ Thúy Vân với mong muốn thay mình nối tiếp tình duyên dang dở với chàng Kim:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Hai câu thơ mở đầu là lời nhờ cậy tha thiết của Thúy Kiều với Thúy Vân. Kiều chắc hẳn cũng đã suy nghĩ rất nhiều trước khi ngỏ lời với em. Hai tiếng "cậy em" đặt đầu câu đã không chỉ thể hiện sự mong muốn chân thành của Thúy Kiều mà còn làm cho lời nhờ cậy có thêm "sức nặng", đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể chối từ. Cụm từ vừa mang sắc thái nghi vấn vừa mang sắc thái cầu khiến "em có chịu lời" phải chăng là lời nài ép của Kiều với Vân, để Vân nghĩ suy mà chấp nhận. Hành động "thưa", "lạy" Thúy Vân của Kiều thoạt tiên thấy vô lý, bởi lẽ thương, có nào chị lại lạy em? Nhưng đặt trong hoàn cảnh trớ trêu của Kiều lúc này thì đó cũng là điều dễ hiểu, bởi Kiều lúc này đang là người nhờ vả, Vân là ân nhân có thể giúp nàng. Chỉ với hai câu thơ thôi nhưng ta có thể thấy được cách lựa chọn từ ngữ có chọn lọc tinh tế để diễn tả rõ nhất tâm trạng và cốt cách của nhân vật.
Sau lời ngỏ cậy nhờ, Kiều giãi bày lòng mình với em. Những câu thơ đầy nghẹn ngào, chua xót:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Tác giả đã vận dụng những thành ngữ dân gian kết hợp cùng điển cố để nói về cuộc tình Kim- Kiều "giữa đường đứt gánh tương tư". Một người con gái yêu hết mình, sẵn sàng vượt qua những hà khắc của lễ giáo phong kiến để "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" đến cùng người tình Kim Trọng mà giờ đây phải chịu cảnh đứt gánh thì làm sao tránh được những đớn đau, mất mát? Đoạn tình duyên đẹp đẽ nhưng đứt gánh giữa đường khiến Thúy Kiều vô cùng đau khổ, nàng mong em hiểu mà thay mình nối tiếp mối duyên "thừa". Là người sâu sắc lại thấu hiểu lẽ đời, Thúy Kiều hiểu được những thiệt thòi mà Thúy Vân phải mang khi giúp mình nối duyên với Kim Trọng, bởi vậy mà từng lời nói, hành động của nàng đều thể hiện sự tha thiết, chân thành và cả những áy náy khó giấu. Hai từ "mặc em" kết hợp cùng cụng động từ "keo loan chắp mối" như một sự phó thác chứa đựng niềm tin của Kiều nơi Vân- người em thân thích, máu mủ của mình.
Vừa dứt lời thì những kỉ niệm ngày xưa cùng Kim Trọng lại hiện về trong tâm trí, nàng thổn thức:
"Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Những kỉ niệm từ ngày đầu gặp gỡ đến những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ dưới ánh trăng
"ngày quạt ước", "đêm chén thề" cứ thế ùa về trong tâm trí Thúy Kiều. Nàng nhớ về Kim Trọng, nhớ về đoạn tình duyên đẹp nhưng ngắn ngủi đã có của hai người, nàng cũng ý thức thấm thía được cái éo le, trắc trở của thực tại "sóng gió bất kì" khiến cho tình duyên đứt gánh. Có thể thấy ở đây Thúy Kiều không chỉ giãi bày nỗi niềm, hoàn cảnh của bản thân cho Thúy Vân mà còn là lời độc thoại của nàng với chính mình.
Để thuyết phục em hơn, Kiều nhắn nhủ:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Cả Kiều và Vân đều đang tuổi xuân xanh, nhưng với Kiều, khi đã chấp nhận bán mình thì tuổi xuân cũng cạn. Nàng biết, phía trước là một tương lai mịt mờ, sóng gió luôn trực chờ để vây hãm lấy nàng. Còn với Thúy Vân thì khác, Vân còn thời gian, còn tuổi trẻ, còn cả những cơ hội để tìm hiểu, thương yêu Kim Trọng. Hơn nữa, Kiều và Vân đều là máu mủ ruột rà, chị em thân tình, hẳn em cũng không thể nào nhìn chị đau khổ, dằn mặt còn mình thì vui vẹn tuổi xuân được. Bởi vậy mà Kiều mong Vân sẽ chấp nhận lời cậy nhờ mà kết tóc se duyên cùng Kim Trọng. Nếu được em chấp thuận thì chị dẫu cho phải bước sang một thế giới khác, rời xa trần gian này thì vẫn mãn nguyện mà "ngậm cười", "thơm lây" nơi chín suối. Lời lẽ của nàng vừa thấu tình đạt lý, tiếng thơ vừa mang cả niềm hy vọng lại vừa chan chứa nỗi xót xa. Có lẽ, lúc này đây, lòng Kiều như đang rỉ máu, nỗi đau của một đoạn tình yêu tan vỡ nào có thể nguôi ngoai, dẫu cho duyên đã trao mà tình nào có cạn:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung"
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên"
Một tình yêu êm đềm dịu ngọt xưa kia, giờ chỉ còn là nỗi đau chia lìa đôi ngả. Kiều trao kỉ vật cho em mà tim thắt lại, lý trí muốn trao gửi mà con tim giằng xé, tiếc nuối. Chiếc vành, bức tờ mây là minh chứng riêng cho tình yêu Kim- Kiều, cùng với nó họ đã thề nguyền sống chết bên nhau, nhưng giờ đành trao cho em, làm "của chung" ba người.
Trao cho em kỉ vật mà lòng Kiều luyến tiếc, nỗi mong mỏi trở lại những ngày tháng bình yên xưa kia sao quá đỗi khó khăn, gắng níu giữ chút hơi ấm tình yêu ngày nào nhưng chỉ thấy toàn đau buồn, nhung nhớ. Từng câu thơ như máu rỉ trên đầu ngọn bút, thật xót xa!
"Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên"
Và dù rằng có uất nghẹn, đau buồn đến đâu, Kiều vẫn không quên dành cho em sự mong mỏi, cầu cho Vân một cuộc sống đôi lứa ấm êm, hạnh phúc.
Qua 18 câu đầu đoạn trích Trao duyên và bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã cho ta hiểu sâu sắc nỗi đau cực độ của Kiều tình yêu tan vỡ. Từ đó, gửi gắm đến độc giả một thông điệp đầy nhân văn về tình yêu: "Yêu không phải chỉ là vì mình mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu".
Phân tích 18 câu đầu Trao duyên - Mẫu 2
Một câu thơ hay là câu thơ giàu sức gợi, và kêu gọi được cả sự đồng cảm của người đọc trong mạch cảm xúc, để từ đó bắt đầu hành trình đồng điệu cùng tâm hồn nhân vật trữ tình. Có thể nói, 18 câu đầu Trao duyên đã thực sự xuất sắc khi làm được điều đó.
Trước hết phải khẳng định rằng trao duyên là nhan đề đầy bất thường, xưa này người ta trao khăn, trao áo trao lời, có mấy ai trao duyên bao giờ? Vì duyên là mối gắn bó tự nhiên giữa con người với con người, cầu không có, muốn không được, nó khiến cho người trao thì đau đớn, người nhận thì bối rối gượng ép vô cùng.
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Vì việc trao duyên là chuyện khó khăn, vậy nên lời điệu đọc lên nghe đã thấy trúc trắc. Từ mở đầu “cậy em”, như trĩu nặng cả câu thơ, như tiếng nấc nghẹn ngào đứt đoạn, đầy run rẩy. Có phải điều nhờ cậy còn lớn lao hơn so với người nhờ cậy, cho nên dù rất bình tĩnh trước sóng gió cuộc đời, nhưng đứng trước bi kịch bản thân Kiều vẫn cảm thấy bối rối. Câu thơ “cậy em em có chịu lời”, vừa có nghĩa là nhờ vả, vừa góp phần bộc lộ tâm trạng quằn quại, khó nói, vừa gửi gắm một niềm ti. Chịu lời, dường như người trao duyên hiểu rằng Vân đã bị đẩy vào tình thế mặc nhiên mà phải chấp nhận. Là một người chị trong gia đình, Kiều có thể đề nghị em bằng những lời kẻ cảng, nhưng Kiều đặt em vào vị trí ngang hàng, bình đẳng xem ra còn là tư thế của một kẻ chịu ơn, vừa là sự sang trọng, nghi lễ, nhưng vừa là sự ràng buộc khéo léo với Vân. Nhưng cách khiến người đọc cảm động và cũng chua xót ở đây là cách Kiều giãi bày với Vân:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Căn nguyên từ mối tình Kim Kiều, đã từng vô cùng sâu nặng, tới mức khi nhắc lại nó không còn đơn thuần là những kỉ niệm được điểm mặt gọi tên mà nó là cứ liệu của tâm hông đang sống ở đây, là những lớp sóng cồn đang trào lên không dứt cứ dồn dập, kéo ta về hiện tại. Nhưng mối tình đẹp là thế, cao quý vô ngần là thế, nhưng vì biến cố của gia đình “sóng gió bất kì” mà bỗng chốc thành ra dang dở. Khi , Kiều nó với Vân dùng từ “gánh” ở đó, là phần nào ta cũng cảm nhận được Kiều biết vẫn sẽ thiệt thòi khi chắp mối tơ thừa, khi chấp nhận gánh nặng này. Vừa gợi lên một cái gì đó vừa như dang dở, vừa trĩu nặng, vừa dằng dặc của nỗi nhớ niềm thương và của nỗi đau khắc khoải khôn nguôi. Không những sâu sắc, cảm động khi xét ở phương diện cái tình, mà còn rất thuyết phục về mặt lí lẽ. Rằng, Vân hẵng còn trẻ, em còn cả một tương lai ở phía trước, mọi điều tốt đẹp đều có thể bắt đầu, xây dựng, vun vén. Để tăng sức thuyết phục Kiều đã viện dẫn cả linh hồn lẻ bạc của mình để nhờ em. Dẫu có chết chị cũng vô cùng cảm ta, cảm thấy mãn nguyện nếu được em chấp thuận. Lời thỉnh cầu vừa có sự thuyết phục của lý trí, lại vừa đong đầy niềm cảm thông, nhờ thế mà từ trái tim Kiều có thể dọn đường đến trái tim Vân.
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”.
Với Kiều tình yêu là lẽ sống, cũng là nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống, kỷ vật đã trao, duyên đã đoạn, thế nên chẳng khác gì hồn lìa khỏi xác, chỉ còn lại đây một trái tim đã chết trong đớn đau và tuyệt vọng.
Đoạn thơ tuy ngắn nhưng qua đó, ta thấy được Nguyễn Du đã nắm bắt rất tinh diễn biến tâm lí của kiều, qua đó ta thấy được Kiều là một con người nặng tình nặng nghĩa trong tình yêu, nhưng lại cũng rất mực thương cha và lo lắng cho gia đình, nên nguyện hi sinh thân mình. Giọng thơ vừa tha thiết, vừa van xin, vừa khẩn khoản thiết tha mà cũng đầy trĩu nặng.
Phân tích 18 câu đầu Trao duyên - Mẫu 3
Trong văn học, “trao duyên” thường gắn liền với niềm hạnh phúc và sự kết nối tình cảm giữa đôi lứa. Tuy nhiên, trong tác phẩm của Nguyễn Du, “trao duyên” lại mang một sắc thái đau đớn và bẽ bàng, đặc biệt qua cảnh trao duyên giữa Thúy Kiều và Thúy Vân. Nguyễn Du đã khắc họa một bức tranh đầy nước mắt, thể hiện sự đau khổ và bi kịch của nhân vật.
Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến 756 trong “Truyện Kiều” kể về cuộc đời đầy gian truân và biến cố của Thúy Kiều. 18 câu thơ đầu tiên của đoạn trích là tiếng lòng nghẹn ngào của Thúy Kiều khi nàng buộc phải nhờ em gái là Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng.
Trong cõi nhân gian rộng lớn, việc tìm được một người đồng điệu với mình là điều vô cùng may mắn. Duyên phận là sợi dây vô hình kết nối hai tâm hồn, và nó không dễ dàng để chuyển giao. Chính vì lẽ đó, Thúy Kiều đã rất thận trọng và đắn đo khi quyết định nhờ cậy Thúy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
Thúy Kiều, dù là chị cả trong gia đình, nhưng khi mở lời nhờ cậy em gái, nàng đã dùng những từ ngữ đầy trân trọng và kính cẩn. Từ “cậy” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối, trong khi “chịu” mang ý nghĩa ràng buộc và nghi vấn. Cách nói này không chỉ thu hút sự chú ý của Thúy Vân mà còn thể hiện sự nghiêm túc và khẩn thiết trong lời nhờ cậy của Thúy Kiều.
“Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
Hành động “lạy” và “thưa” của Thúy Kiều dường như có sự mâu thuẫn với vị thế của nàng trong gia đình. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, hành động đó lại hoàn toàn hợp lý. Thúy Kiều không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ cậy em gái, và hành động này cũng thể hiện sự éo le, khó xử của cả hai chị em. Thúy Vân, dù chưa biết chuyện gì, nhưng cũng đã phần nào cảm nhận được sự nghiêm trọng của vấn đề.
Sau khi Thúy Vân đã hiểu được phần nào, Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Thúy Kiều mong muốn Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Đây không chỉ là chuyện tình cảm đơn thuần mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ mà Thúy Kiều không thể hoàn thành. Từ “mặc” trong câu thơ vừa thể hiện sự phó mặc, vừa là lời nhờ cậy khẩn thiết, đặt Thúy Vân vào tình thế khó từ chối.
Thúy Kiều hiểu rằng việc nhờ cậy này sẽ khiến Thúy Vân phải đối mặt với nhiều đắn đo, nên nàng đã đưa ra những lý lẽ để thuyết phục em:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thúy Kiều kể lại mối tình sâu nặng giữa nàng và Kim Trọng, cùng những lời thề nguyền đã kết nối hai người. Tuy nhiên, vì biến cố gia đình và chữ hiếu, Thúy Kiều buộc phải hy sinh tình yêu của mình. Nàng không muốn bội ước với Kim Trọng, nên đã nhờ Thúy Vân thay mình chăm sóc và nối tiếp mối duyên này.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Thúy Kiều dường như thấu hiểu nỗi băn khoăn và sự chơi vơi trong tâm trạng của Thúy Vân. Nàng nhận ra rằng em gái mình đang đắn đo bởi đây là quyết định liên quan đến hạnh phúc cả đời. Với lời lẽ dịu dàng, Thúy Kiều trấn an rằng Thúy Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài, và Kim Trọng là một người đàn ông tốt, sẽ mang đến nhiều cơ hội để vun đắp tình cảm. Nàng khéo léo nhắc nhở rằng Thúy Vân đừng ngại ngần với “mối tơ thừa” này. Thúy Kiều mong em hãy vì tình chị em máu mủ, vì sự hi sinh và lòng hiếu thảo của chị mà chấp nhận lời cầu xin này. Qua việc trao duyên, Thúy Kiều không chỉ tìm cho em một bến đỗ an toàn mà còn hoàn thành trách nhiệm của người chị, đảm bảo em có một cuộc sống hôn nhân êm ấm trước khi nàng phải ra đi.
Tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng đã in sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn nàng. Chính vì thế, việc trao đi mối duyên này khiến lòng nàng đầy giằng xé và đau đớn:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Việc trao người mình yêu thương, trao đi tình cảm sâu nặng để em gái chăm sóc, đã khiến Thúy Kiều cảm thấy như bị bòn rút hết sức lực và tâm hồn. Nàng giống như một cái xác không hồn, cảm thấy cuộc sống của mình trở nên vô nghĩa và như đã kết thúc: “thịt nát xương mòn”, “chín suối”. Dù vậy, lòng biết ơn của Thúy Kiều dành cho Thúy Vân vẫn sáng ngời; dù ở nơi chín suối, nàng vẫn mỉm cười, cảm thấy an ủi khi em gái đã thay mình sống trọn nghĩa tình. Tuy nhiên, đằng sau sự an lòng ấy là một tâm hồn đầy đau khổ, bẽ bàng và đớn đau tột cùng của Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối nhân duyên tươi đẹp của mình.
Phân tích 18 câu đầu Trao duyên - Mẫu 4
Nguyễn Du, tự Tố Như, là đại thi hào của dân tộc Việt Nam và là danh nhân văn hóa thế giới. Xuất thân từ một gia đình quý tộc phong kiến, ông sống trong thời kỳ lịch sử đầy biến động. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rực rỡ cả ở thể loại chữ Hán lẫn chữ Nôm. Tác phẩm làm nên tên tuổi của ông là “Truyện Kiều”, một kiệt tác mang tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con người và tố cáo xã hội phong kiến thối nát. Truyện kể về cuộc đời đầy bi kịch của Thúy Kiều, một cô gái tài sắc nhưng phải chịu nhiều đau khổ. “Trao duyên” là bi kịch đầu tiên trong hành trình 15 năm lưu lạc của nàng. Đoạn trích sau là lời Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
“... Cậy em em có chịu lời,
...
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về Liêu Dương chịu tang chú. Gia đình Thúy Kiều bị vu oan, tài sản bị cướp đoạt. Để cứu cha và em, Thúy Kiều buộc phải bán mình, hy sinh mối tình với Kim Trọng. Trước khi theo Mã Giám Sinh, nàng ngồi suốt đêm, nước mắt đầm đìa, nghĩ về số phận và tình yêu dang dở. Trong đau khổ, nàng nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Thúy Kiều mở lời trao duyên một cách khéo léo (2 câu đầu). Việc trao duyên vốn khó nói, dù là với em gái. Đây không phải tình yêu thoáng qua mà là lời thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm, trở thành điều thiêng liêng khó thay đổi. Thúy Kiều sợ Thúy Vân từ chối, nên nàng đã dùng lời lẽ đầy trân trọng và ép buộc: "Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa". Nguyễn Du, bậc thầy ngôn ngữ, đã chọn từ "cậy" thay vì "nhờ", thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối. Từ "chịu lời" cũng mang sắc thái ép buộc, khiến Thúy Vân khó từ chối. Thúy Kiều dùng lễ nghi "lạy" và "thưa" để ràng buộc em, cho thấy sự hệ trọng của vấn đề.
Tiếp đó, Thúy Kiều giao phó trách nhiệm cho em về mối duyên dang dở của mình:
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."
“Gánh tương tư” là tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều với Kim Trọng. “Giữa đường đứt gánh” ám chỉ sự tan vỡ đột ngột. Tơ duyên của nàng giờ thành “tơ thừa”, bị đứt đoạn. Từ “mặc” không phải là mặc kệ mà là sự phó thác, tin tưởng tuyệt đối vào Thúy Vân. Câu thơ thể hiện nỗi băn khoăn của Thúy Kiều cho Kim Trọng và sự day dứt vì Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa”.
Trao duyên cho em, nhưng nỗi đau vẫn không nguôi. Kỉ niệm tình yêu ùa về khiến Thúy Kiều đau đớn. Nàng kể vắn tắt với em về tình cảnh của mình:
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."
"Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Điệp từ "khi" nhấn mạnh tình cảm sâu nặng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" gợi nhớ kỉ niệm ngọt ngào. “Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang, gia đình Thúy Kiều bị vu oan. Giữa chữ “hiếu” và “tình”, nàng đành hy sinh tình yêu để cứu gia đình. Câu thơ “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” là nỗi đau xót của Thúy Kiều, phản ánh sự bất công của xã hội phong kiến.
Dù đã bày tỏ nỗi lòng, Thúy Kiều vẫn sợ Thúy Vân từ chối. Nàng dùng tình máu mủ và thái độ mãn nguyện để thuyết phục em:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
“Ngày xuân” ẩn dụ cho tuổi trẻ của Thúy Vân. “Tình máu mủ” là tình cảm ruột thịt. Thúy Kiều nhắc nhở em về tình chị em, mong em “thay lời nước non”. Thành ngữ “thịt nát xương mòn” diễn tả nỗi đau đớn tột cùng. Nếu Thúy Vân đồng ý, Thúy Kiều sẽ “ngậm cười chín suối”, mãn nguyện và biết ơn em. Đoạn thơ thể hiện sự khéo léo, thấu tình đạt lý của Thúy Kiều, khiến Thúy Vân không thể từ chối.
Sau khi thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Thúy Vân đã thấu hiểu, Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu thiêng liêng:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Thúy Kiều lần lượt trao lại những kỉ vật tình yêu như “chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, và “mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. “Chiếc vành” là món quà đầu tiên Kim Trọng tặng nàng khi hai người đính ước, còn “tờ mây” là thư từ trao đổi giữa họ, gợi nhớ về một tình yêu sâu nặng và thủy chung. Những kỉ vật này vừa đơn sơ lại vừa thiêng liêng, là minh chứng cho quá khứ hạnh phúc của Thúy Kiều và Kim Trọng. Khi trao lại những kỉ vật này, tâm trạng Thúy Kiều trở nên mâu thuẫn dữ dội. Nàng đã dùng hết lý trí để thuyết phục em, nhưng khi Thúy Vân chấp nhận, nàng lại cảm thấy chơi vơi, cố níu kéo tình yêu của mình. Hai từ “của chung” thể hiện sự giằng xé trong nội tâm nàng: duyên đã trao nhưng tình vẫn còn vương vấn. Cụm từ “ngày xưa” càng nhấn mạnh nỗi tiếc nuối và xót xa của Thúy Kiều khi tình yêu đẹp đẽ giờ đã trở thành quá khứ. Những kỉ vật không chỉ là vật làm tin mà còn là lời nhắc nhở Thúy Vân đừng quên chị khi hạnh phúc bên Kim Trọng. Câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” cho thấy sự chua chát và tủi buồn của Thúy Kiều. Nàng tự nhận mình là “người mệnh bạc”, đáng thương và cần sự thương cảm. Dù đã trao duyên và kỉ vật, nàng vẫn cảm thấy bất an, như thể có điều gì đó chưa trọn vẹn. Cụm từ “mất người còn chút của tin” như một lời tiên tri về cái chết, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Nhịp thơ 4/4 đứt đoạn như tiếng nấc nghẹn ngào, thể hiện nỗi đau giằng xé giữa lý trí và tình cảm trong lòng Thúy Kiều.
Phân tích 18 câu đầu bài Trao duyên - Mẫu 5

Nhan đề “Trao duyên” gợi lên sự trớ trêu, bởi đây không phải là cảnh trao duyên lãng mạn thường thấy trong ca dao xưa. “Trao duyên” ở đây là việc gửi gắm tình yêu dang dở của mình cho người khác, nhờ họ chắp nối mối duyên không trọn vẹn. Thúy Kiều, trước khi bước vào quãng đời lưu lạc, đã quyết định bán mình cứu cha. Vì không thể giữ trọn lời thề với Kim Trọng, nàng nhờ cậy em gái Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Đoạn thơ không chỉ là lời trao duyên mà còn chất chứa bao nỗi niềm đau đớn, giằng xé trong lòng Thúy Kiều.
Mở đầu đoạn thơ là tám câu tâm sự của Thúy Kiều về mối tình với Kim Trọng. Với người xưa, tình yêu thiêng liêng thường được giữ kín trong lòng, ít khi bộc lộ với người thứ ba. Thế nhưng, Thúy Kiều buộc phải giãi bày tất cả với Thúy Vân. Nàng thậm chí phải lạy em như lạy một ân nhân, dùng lời lẽ nhún nhường, gần như van nài:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Không phải “nhờ” mà là “cậy”, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối và thiêng liêng. Từ “cậy” mang sắc thái gửi gắm, đặt trọn niềm tin vào em. Đi kèm với đó là hành động “lạy” và “thưa”, như một sự đảo ngôi vị giữa chị và em. Nguyễn Du đã khắc họa tài tình nỗi lòng nhân vật. Thúy Kiều đau khổ vì không giữ trọn lời thề với Kim Trọng, buộc phải nhờ cậy em gái. Gánh tương tư vốn nặng nề, nay lại đứt gánh giữa đường, khiến nàng đau đớn khôn nguôi. Việc nhờ người khác gánh vác tình yêu của mình là điều hiếm thấy, khiến Thúy Kiều phải dùng lời lẽ khẩn thiết, van nài. Thúy Vân cũng phải hy sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau cho em gái.
Trao duyên cho em, nhưng gánh nặng tình cảm đâu dễ trút bỏ? Kỉ niệm đẹp đẽ của mối tình đầu ùa về, khiến Thúy Kiều đau đớn. Những kỉ vật thiêng liêng, minh chứng cho tình yêu của nàng với Kim Trọng, giờ đây phải trao sang tay người khác, dù đó là em gái ruột. Tình yêu vốn có chút ích kỷ, đó là lẽ thường tình. Chiếc thoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền… từng là kỉ vật riêng tư, biểu tượng của hạnh phúc, giờ đây trở thành “của chung” của cả ba người. Đau xót thay khi phải chia sẻ tình yêu riêng tư thành thứ chung đụng! Dù vậy, Thúy Kiều vẫn trao lại với tất cả sự tin tưởng và tình máu mủ. Nàng thuyết phục em bằng lời lẽ khéo léo:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tình máu mủ là thứ không thể chối từ. Thúy Kiều dùng tình cảm ruột thịt để ràng buộc em, mong em thay mình trọn nghĩa với Kim Trọng. Suốt đoạn thơ, không một lời đáp lại từ Thúy Vân. Thúy Kiều như đang dốc bầu tâm sự, cần phải nói hết mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình chết đi, oan hồn vẫn quẩn quanh bên Kim Trọng. Chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự của nàng sao mà đau thương!
Phân tích 18 câu đầu bài Trao duyên - Mẫu 6
Kiều, một cô gái xinh đẹp và sắc sảo, đã phải chịu đựng cuộc đời đầy sóng gió do xã hội phong kiến tăm tối. Nguyễn Du, với sự đồng cảm sâu sắc, đã khắc họa chi tiết cuộc đời của người con gái tài hoa này. Trước khi trở thành nạn nhân của buôn người, Kiều nhớ đến Kim Trọng và nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tình nghĩa. Đoạn trích Trao duyên thể hiện tâm trạng Kiều khi quyết định trao duyên cho em.
Duyên phận vốn do trời định, nhưng Kiều lại tự mình trao duyên cho em. Liệu điều này có hợp lý khi Thúy Vân và Kim Trọng chưa từng yêu nhau? Trong sâu thẳm, Kiều cảm thấy đau đớn khi phải trao đi người mình yêu. Dù vậy, nàng vẫn quyết định vượt qua cảm xúc cá nhân để trao duyên cho em.
Mười bốn câu thơ đầu tiên nói về quyết định trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân.
Kiều bày tỏ nỗi bất hạnh của mình, chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp nàng an tâm về chuyện Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ tinh tế để diễn tả sự cậy nhờ của Kiều. Những từ như “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” thể hiện sự thành khẩn của nàng. Kiều như đang cầu xin em mình thay mình đền đáp tình cảm với Kim Trọng.
Để thuyết phục Vân, Kiều tâm sự về nỗi đau trong lòng mình, chỉ có em mới có thể giúp đỡ:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Kiều ngậm ngùi kể về lời thề nguyền với Kim Trọng, nhưng giờ đây tình yêu đã đứt gánh giữa đường. Nàng mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ và chắp mối tơ loan với Kim Trọng. Sự đau đớn của Kiều được thể hiện qua từng câu thơ.
Kiều nhấn mạnh hoàn cảnh của mình và cuộc sống của Vân để khiến lời cậy nhờ thêm phần nặng ký:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Sau khi cậy nhờ em, Kiều quay về với cảm giác cô đơn, tâm trạng nàng bắt đầu bộc lộ rõ ràng hơn.
Kiều mong muốn trong tuyệt vọng được quay về với người yêu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành và tờ mây là những kỷ vật thiêng liêng gắn liền với tình yêu của Kiều và Kim Trọng. Họ từng thề nguyền sống chết bên nhau, từng có những ngày tháng hạnh phúc ngập tràn yêu thương. Thế nhưng, xã hội phong kiến tàn nhẫn đã buộc Kiều phải hi sinh chữ tình vì chữ hiếu. Nàng quyết định giữ lại duyên phận, còn những kỷ vật kia trở thành của chung. Mai này, nếu Thúy Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng, Kiều mong họ hãy nhớ đến nàng. Phím đàn và mảnh hương thề nguyền ngày xưa cũng là những kỷ vật đong đầy ký ức. Nguyễn Du không đặt những kỷ vật ấy trong cùng một câu thơ, có lẽ để khắc họa rõ nét nỗi đau và sự luyến tiếc của Kiều khi phải trao lại chúng cho em gái. Nàng như muốn níu giữ những gì còn sót lại của tình yêu, nhưng buộc lòng phải buông bỏ để đền đáp ân tình với Kim Trọng. Qua những câu thơ này, tâm trạng của Kiều hiện lên rõ ràng: vừa khát khao quay về quá khứ, vừa đau đớn khi phải từ bỏ những kỷ vật yêu thương.
Tưởng rằng sau khi trao duyên, Kiều sẽ cảm thấy nhẹ lòng phần nào, nhưng trái lại, khoảnh khắc kết thúc việc trao duyên lại là lúc nàng đau đớn nhất. Trong sâu thẳm trái tim, Kiều hiểu rằng một khi đã trao duyên, tình yêu ấy không còn thuộc về mình nữa. Những gì nàng từng nâng niu, trân trọng bỗng chốc tan biến. Kiều đau đớn tột cùng, như thể linh hồn nàng đang chết dần trong nỗi đau xé lòng. Sự im lặng của nàng lúc này chính là tiếng kêu thương không lời, là nỗi tuyệt vọng không thể diễn tả.
Phân tích Trao duyên 18 câu đầu - Mẫu 7
“Trao duyên” là một trong những bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời Thúy Kiều. Việc phải tự tay trao đi tình yêu của mình cho người khác là nỗi đau khó diễn tả thành lời. Tại sao Kiều phải trao duyên? Cách nàng trao duyên như thế nào? Và tâm trạng của Kiều ra sao? Tất cả sẽ được giải đáp khi chúng ta đi sâu vào phân tích đoạn trích này.
Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến 756 kể lại lời Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân, em gái mình, thay nàng đền đáp tình nghĩa với Kim Trọng. Bài viết này sẽ phân tích 18 câu thơ đầu tiên của đoạn trích để làm rõ những điều trên.
Cách Kiều mở lời nhờ cậy Thúy Vân vô cùng khéo léo và tinh tế:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Kiều dùng từ “cậy” thay vì “nhờ” để thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối và gửi gắm trọn vẹn hy vọng vào em gái. Từ “chịu” thay vì “nhận” cũng mang ý nghĩa sâu sắc, nhấn mạnh sự hệ trọng của việc nhờ vả. Hành động “lạy, thưa” của Kiều, một người chị, dành cho em gái mình là điều hiếm thấy trong xã hội phong kiến. Nhưng trong hoàn cảnh này, Kiều đã làm như vậy để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Nàng hiểu rằng việc Vân chấp nhận thay mình đền đáp tình nghĩa với Kim Trọng là một sự hy sinh lớn lao. Đồng thời, Kiều cũng khôn khéo đặt Vân vào thế không thể từ chối.
Với cách mở lời đầy khéo léo và hành động chân thành như vậy, Thúy Vân không còn cách nào khác ngoài việc lắng nghe chị mình giãi bày. Kiều bắt đầu bằng việc kể về hoàn cảnh trớ trêu của mình:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Tình yêu của Kiều và Kim Trọng giờ đây đã trở nên dang dở. Với những thành ngữ như “đứt gánh tương tư” và “tơ thừa”, Kiều khẳng định rằng mối tình của nàng với Kim Trọng chỉ còn là những sợi tơ vương vấn, khó có thể nối lại. Tuy nhiên, giữa họ vẫn còn những lời thề nguyền sắt son, những kỷ niệm ngọt ngào từ ngày “quạt ước” đến đêm “chén thề”. Những lời hứa ấy như vầng trăng sáng giữa trời, mãi mãi không thể phai mờ.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Nếu không thể ở bên Kim Trọng, Kiều sẽ trở thành kẻ phụ bạc, bội ước. Điều này khiến nàng day dứt khôn nguôi. Chỉ với những lời tâm sự này, Kiều đã khiến Vân hiểu được nỗi đau và sự trớ trêu mà nàng đang phải đối mặt, đồng thời thuyết phục em gái chấp nhận lời nhờ cậy.
Để thuyết phục Vân, Kiều tiếp tục đưa ra hàng loạt lý lẽ:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát sương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Trước hết, Kiều khéo léo nhắc đến “sóng gió bất kì”, ám chỉ tai họa bất ngờ ập xuống gia đình nàng. Điều này buộc Kiều phải bán mình chuộc cha, cứu cả gia đình, và khiến nàng không thể vẹn toàn cả “hiếu” lẫn “tình”. Kiều không kể công, mà chỉ “nói xa nói gần” để Vân hiểu rằng nàng đã hy sinh vì gia đình, vì em, và việc Vân giúp nàng hoàn thành tâm nguyện là điều nên làm.
Lý do tiếp theo Kiều đưa ra là “Ngày xuân em hãy còn dài”. “Ngày xuân” ở đây không chỉ đơn thuần là tuổi trẻ, mà còn là cả cuộc đời tươi sáng và tự do. Kiều cho rằng việc bán mình đồng nghĩa với việc kết thúc tuổi xuân, chấm dứt cuộc đời tự do, và không còn cơ hội đền đáp tình nghĩa với Kim Trọng. Với Kiều, “ngày xuân” là thứ quý giá nhưng ngắn ngủi, và nàng đang đứng trước ngưỡng cửa mất đi tất cả.
Một lý do không kém phần thuyết phục mà Kiều đưa ra chính là tình máu mủ giữa hai chị em. Nàng khẩn thiết kêu gọi sự thương xót từ Vân, mong em hiểu được nỗi lòng của mình. Kiều nói với Vân:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Kiều thậm chí viện đến cái chết để buộc Vân phải chấp nhận lời nhờ cậy. Trong đoạn trích, ta thấy Kiều thường xuyên nhắc đến cái chết, như “thịt nát xương mòn”, “chín suối”. Đó là những dự cảm không lành, phản ánh sự đau đớn và tuyệt vọng trong lòng nàng. Phải chăng vì tương lai quá mịt mù, hay vì nỗi đau mất mát tình yêu quá lớn khiến Kiều luôn nghĩ đến cái chết? Bước cuối cùng trong việc “trao duyên” là trao lại những kỷ vật tình yêu, bao gồm “chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền”. Có lẽ chính Kiều cũng không thể tưởng tượng được nỗi đau đớn, hẫng hụt, và choáng váng khi phải tự tay trao đi những kỷ vật thiêng liêng ấy. Chỉ khi đứng trong khoảnh khắc đó, Kiều mới thực sự thấm thía nỗi đau. Lúc này, trong lòng nàng là một mâu thuẫn lớn, khiến Kiều bấn loạn và mất đi sự tỉnh táo.
Kiều nói “duyên này thì giữ”. Vậy “duyên này” là gì? Có lẽ nên hiểu đó là duyên phận gặp gỡ giữa Kiều và Kim Trọng, là những ký ức tình yêu sâu đậm giữa hai người. Kiều muốn giữ lại những kỷ niệm ấy làm của riêng mình. “Vật này của chung” có nghĩa là Kiều muốn những kỷ vật kia trở thành tài sản chung giữa Vân, Kim Trọng và chính nàng, bởi nàng không muốn mất đi tất cả. Hơn thế, Kiều còn nói rằng:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Hai chữ “dù em” được nói ra với sự lấp lửng, khó hiểu. Dường như trong giây phút ấy, Kiều cảm thấy có điều gì đó chưa ổn, chưa đúng. Nàng không biết việc trao duyên cho em là đúng hay sai. Kiều vẫn nghĩ rằng có thể việc này sẽ không thành, và nàng hy vọng Kim Trọng sẽ không quên mình. Đó là sự ích kỷ của trái tim người phụ nữ khi yêu, len lỏi trong từng câu chữ, khiến trái tim Kiều trở nên vĩ đại và đáng thương.
Càng đọc kỹ đoạn trích, ta càng cảm thấy lòng mình trống trải, muộn phiền. Những nỗi ai oán, sầu khổ của Kiều như ám ảnh tâm hồn người đọc. Kiều đã dùng hết lý trí để thuyết phục Vân, nhưng trái tim nàng vẫn rung lên từng đợt đau đớn. Nàng vô cùng mâu thuẫn giữa việc trao đi và giữ lại. Đến đoạn sau, ta có cảm giác như Kiều đổ sụp khi phải đối mặt với sự trống rỗng và hẫng hụt trong tâm hồn. Có lẽ nàng không thể chấp nhận sự thật phũ phàng ấy.
“Cạn lời hồn ngất máu say;
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”.
Qua việc phân tích 18 câu thơ đầu đoạn trích “Trao duyên”, ta hiểu sâu sắc bi kịch tình yêu của Kiều. Đọc những dòng này, ta càng thêm khâm phục tài năng của Nguyễn Du. Mỗi câu, mỗi chữ đều thấm đẫm máu và nước mắt.
Khóc thương cho những kiếp người
Khóc thương cho những cuộc đời bấp bênh
Khóc thương phận số lênh đênh
Khóc thương cho một chữ tình chia đôi
Người đi khuất bóng xa rồi
Thơ người chứa trọn tình đời mênh mông.
Phân tích Trao duyên 18 câu đầu - Mẫu 8
Người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu nhiều gian truân và đau khổ. Truyện Kiều, một kiệt tác văn học Trung đại Việt Nam, đã khắc họa rõ nét điều này. Đoạn trích Trao Duyên nằm ở phần đầu tác phẩm, với 18 câu thơ đầu tiên như tiếng nấc nghẹn ngào đầy u sầu của Thúy Kiều khi gửi gắm tấm chân tình của mình nhờ Thúy Vân nối tiếp cùng Kim Trọng. Đoạn trích là tiếng lòng đầy đau đớn của Kiều.
Duyên phận là mối tơ vương giữa hai người, đã được ràng buộc bởi tình cảm, không dễ dàng chuyển giao hay nhường lại cho ai. Vì thế, Thúy Kiều tỏ ra thận trọng và ngần ngại khi muốn Thúy Vân gá nghĩa cùng Kim Trọng:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa
Thúy Kiều, dù là chị, nhưng để nhờ cậy em một việc tế nhị, nàng đã dùng những từ ngữ đầy trân trọng. Từ “cậy” thể hiện sự tin tưởng và trông mong, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của Thúy Vân, rằng chỉ có em mới có thể giúp được mình. Từ “chịu lời” vừa là lời van xin, vừa là sự ràng buộc, khiến Thúy Vân khó lòng từ chối.
Thúy Kiều yêu cầu Thúy Vân ngồi lên để mình “lạy” rồi “thưa”. Hành động này không hề vô lý trong bối cảnh lúc bấy giờ, mà ngược lại, nó hoàn toàn phù hợp. Kiều không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhờ em gái ruột của mình để trọn vẹn tình nghĩa với Kim Trọng. Đồng thời, hành động này cũng thể hiện sự khó xử và éo le của cả hai chị em. Thúy Kiều khó mở lời phó thác hạnh phúc của em, còn Thúy Vân khó lòng từ chối trước lời nhờ cậy thiết tha của chị.
Khi Thúy Vân đã phần nào hiểu ra, Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Hóa ra Kiều mong Vân thay mình gá nghĩa cùng Kim Trọng, tiếp nối câu chuyện tình dang dở của nàng. Việc này sao lại hệ trọng đến vậy? Có lẽ bởi Kiều xuất thân từ một gia đình gia giáo trong xã hội xưa, và đây cũng là chuyện cả đời người, nên nàng không thể qua loa, đơn giản. Đó là “gánh tương tư”, là nghĩa vụ, bổn phận, và trách nhiệm trong tình yêu của Thúy Kiều đối với Kim Trọng.
Từ “mặc” được Kiều dùng như thể vừa để em tùy lòng quyết định, vừa là sự phó mặc, buông xuôi của nàng. Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào thế khó, vào sự lựa chọn không thể từ chối. Biết rằng trao đi phần duyên tình này cho Vân là làm khó em, là làm đau mình, và trong lòng Thúy Vân chắc hẳn cũng sẽ dấy lên nhiều đắn đo, nhưng Kiều không thể làm khác. Thúy Kiều đã rất khéo léo trong việc lựa lời thuyết phục Vân:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Thúy Kiều kể lại với Vân rằng giữa nàng và Kim Trọng đã có lời thề non hẹn biển. Trong xã hội xưa, lời thề có giá trị vô cùng đặc biệt, mang ý nghĩa sắt son, khắc sâu ân tình nghĩa đậm giữa hai người, mãi mãi không thể chia lìa. Lời thề là linh hồn, là phẩm giá của mỗi người, và bất cứ ai cũng không thể phản bội lại lời thề của chính mình.
Thế nhưng, vì hoàn cảnh éo le, vì gia biến, vì thằng bán tơ vu oan, và vì chữ hiếu, Thúy Kiều buộc phải hi sinh chữ tình, không thể thực hiện trọn vẹn lời ước hẹn với Kim Trọng. Dù vậy, Kiều không muốn bội tin, không muốn Kim Trọng vì mình đau khổ, nên đành nhờ Thúy Vân thay mình nối tiếp lời ước hẹn. Kiều khéo léo cậy lời:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Thúy Kiều rất tinh tế và khéo léo, nàng hiểu rõ sự băn khoăn, chơi vơi trong tình cảm của Thúy Vân. Kiều hiểu rằng Thúy Vân sẽ đắn đo vì đó là hạnh phúc cả đời người con gái, không thể dễ dàng quyết định. Vì vậy, Kiều vỗ về rằng Thúy Vân còn trẻ, ngày xuân còn dài, thời gian còn nhiều, sau này sẽ có nhiều cơ hội để vun vén tình cảm, đừng ngại “mối tơ thừa”. Mong Vân hãy vì tình chị em, vì Kiều đã hi sinh báo hiếu, vì nỗi đau của chị mà chấp nhận lời nhờ cậy của mình.
Phân tích 18 câu đầu của đoạn trích 'Trao Duyên', ta nhận thấy tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng sâu đậm, khắc sâu vào từng ngõ ngách trong tâm hồn nàng. Việc trao đi mối tơ duyên này khiến lòng Kiều đầy xót xa và đau đớn:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Trao đi người mình yêu thương hết mực, trao đi tình cảm nồng nàn cho Thúy Vân dường như đã rút cạn sức lực và tâm hồn Thúy Kiều. Nàng cảm thấy mình như một cái xác không hồn, sự sống của nàng dường như vô nghĩa, như đã chấm dứt. Tác giả sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ như 'thịt nát xương mòn', 'chín suối' để diễn tả nỗi đau tột cùng của Kiều. Chỉ cần Vân nhận lời gá nghĩa, xây dựng hạnh phúc cùng Kim Trọng, thì dù ở nơi chín suối, Thúy Kiều vẫn mỉm cười, cảm thấy an ủi và vui lòng khi em mình đã thay mình sống trọn nghĩa tình. Đó là tâm trạng đau khổ, bẽ bàng, và đớn đau đến tột cùng của Thúy Kiều khi phải từ bỏ mối duyên tươi đẹp vừa chớm nở.
Khi Thúy Vân đã phần nào thấu hiểu và chấp nhận, Thúy Kiều trao lại những kỷ vật đính ước cho em và dặn dò:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Đây có lẽ là thời khắc khó khăn nhất đối với Kiều. Những kỷ vật này gắn liền với kỷ niệm gắn bó giữa nàng và Kim Trọng, là minh chứng rõ ràng nhất cho tình cảm Kim – Kiều. Đó là chiếc vòng tay Kim Trọng tặng Kiều trong lần đầu gặp gỡ, là tờ mây với lời thề ước hẹn trăm năm, là phím đàn trong đêm trăng thanh cất lên khúc nhạc tình ca Kim Kiều,…
Những kỷ vật này như gợi lại mối tình hạnh phúc ngắn ngủi giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Càng hạnh phúc lại càng xót xa, bẽ bàng. Nhịp thơ ngắt nghỉ như tiếng thở dài đầy lưu luyến và tiếc nuối của Kiều khi trao vào tay em những món kỷ vật vốn đã trở thành thói quen gắn bó với mình. Và rồi, một mong muốn nhỏ nhoi dấy lên trong lòng Kiều: 'Duyên này thì giữ, vật này của chung'. Duyên này Kiều trao cho Vân, nhưng xin Vân hãy coi những tín vật này là của chung, xin em hãy cho chị chút ích kỷ để được cùng Vân và Trọng sở hữu những kỷ vật này.
Dù đã trao duyên, Kiều vẫn không thể ngừng yêu thương Kim Trọng, không thể hoàn toàn buông bỏ đoạn tình cảm đã từng rất đẹp. Nàng cũng không thể phủ nhận cảm xúc trái ngang đầy mâu thuẫn: vừa quyến luyến vừa xót xa trăm bề. Ngẫm lại quãng thời gian đã qua, Kiều thương thay thân mình, cho rằng mình là người 'mệnh bạc', cái chết luôn thường trực trong suy nghĩ.
Thúy Kiều đã hi sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn đạo hiếu, gánh vác gia đình. Nàng đã làm trọn đạo làm con và cả nghĩa với người thương. Qua 18 câu thơ đầu đoạn trích 'Trao Duyên', ta thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bằng ngòi bút khéo léo và tinh tế, Nguyễn Du đã điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình một cách điêu luyện, hòa hợp, để có thể bóc trần và lột tả chân thực những cung bậc cảm xúc phức tạp đang giằng xé trong lòng mỗi nhân vật. Thúy Kiều trao duyên nhưng không trao tình; tình cảm với Kim Trọng vẫn được nàng lưu giữ và trân trọng.
Có thể thấy Nguyễn Du đã mang đến cho độc giả cái nhìn đúng đắn, đầy nhân văn và cao đẹp về tình yêu: Yêu là để người mình yêu được hạnh phúc, yêu là trọn vẹn và thủy chung sắt son một lòng. Tình yêu chân thành là bất tử và trường tồn. Cứ ngỡ một con người tài sắc vẹn toàn như Kiều sẽ được sống một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời nàng lại nổi trôi vô định, khiến lòng người xót xa. Phải chăng đó cũng là lời than thân chung cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa? Và phải chăng, mọi sóng gió mới chỉ là bắt đầu, trang sách giông tố cuộc đời nàng mới chỉ bắt đầu từ hôm nay...
Phân tích 18 câu đầu Trao duyên - Mẫu 9
“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn là tác phẩm được cả thế giới ngưỡng mộ. Đoạn trích “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn sâu sắc và nhân văn của Nguyễn Du về số phận con người, đặc biệt là số phận của những khách hồng nhan như Thúy Kiều. Đây không chỉ là câu chuyện tình yêu mà còn là tiếng lòng đau thương vang lên từ một hoàn cảnh éo le: “tình chị duyên em”.
“Trao duyên” là một câu chuyện đặc biệt, được kể trong một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về Liêu Dương để chịu tang chú. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị vu oan bởi thằng bán tơ, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. Kiều đứng trước bi kịch phải bán mình để cứu cha. Đêm trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều đã nhờ Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với Kim Trọng. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Ngôn ngữ được sử dụng trong đoạn này đạt đến độ tinh tế. Từ “cậy” với thanh trắc mang âm điệu nặng nề, gợi lên sự đau đớn, khó nói, khác biệt hoàn toàn với từ “nhờ”. “Cậy” hàm chứa sự kỳ vọng tha thiết, sự tin tưởng tuyệt đối vào mối quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện sự nài ép, bắt buộc, không thể từ chối. Hai động từ “lạy” và “thưa” trong câu thứ hai cho thấy thái độ kính cẩn, trang trọng của Kiều đối với em gái. Dù là chị, nhưng trong cuộc “trao duyên” này, Kiều hoàn toàn ở thế yếu. Chữ hiếu đè nặng lên vai nàng, và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” trở thành nỗi lo lớn nhất của Kiều lúc này. Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở của Kiều và Kim Trọng buộc phải dang dở vì tai họa ập đến gia đình. Từng câu thơ là từng nấc thang tâm trạng, từng lời giằng xé, đau đớn. Kiều đứng giữa hai lựa chọn: bên tình và bên hiếu. Không thể bỏ rơi cha già và em thơ, Kiều buộc phải bán mình để cứu gia đình. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông cậy vào tình máu mủ để trả nghĩa cho Kim Trọng. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn là kỷ niệm đau thương. Đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo là dự cảm không lành về tương lai:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, Kiều cảm thấy như đang từ bỏ chính cuộc đời mình. Nàng nghĩ đến cái chết, nhận thức rõ bi kịch tình yêu đang hiện hữu. Càng đau đớn hơn khi những kỷ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người. Kiều trao kỷ vật và dặn dò Thúy Vân:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Trong lòng Thúy Kiều dường như vẫn còn sự lưu luyến, không nỡ từ bỏ hoàn toàn. Dù đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng, nhưng những kỷ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không thể từ bỏ chúng, cũng như không thể từ bỏ tình yêu sâu kín trong lòng. Câu thơ mang đầy sự giằng xé, phân đôi giữa cái riêng và cái chung, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa mất và còn.
Tóm lại, 18 câu đầu “Trao duyên” đã khắc họa một cách chân thực và cảm động số phận của Thúy Kiều, sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng thêm khâm phục tài năng của Nguyễn Du, càng hiểu rõ giá trị của “Truyện Kiều”, và lý do vì sao tác phẩm này được coi là một viên ngọc quý không thể thay đổi, như một bản nhạc tuyệt vời không một lần lỡ nhịp.
- Viết bài văn thuật lại một sự việc thể hiện sâu sắc truyền thống Uống nước nhớ nguồn, gắn liền với lòng biết ơn và sự kính trọng đối với những thế hệ đi trước - Tiếng Việt lớp 4, KNTT
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 47 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7, sách Kết nối tri thức tập 1
- Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều - Dàn ý chi tiết cùng 3 bài văn mẫu xuất sắc nhất
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 - Kết nối tri thức 7: Hướng dẫn chi tiết Ngữ văn lớp 7 tập 1
- Soạn bài Ngàn sao làm việc - Ngữ văn lớp 7 trang 25 sách Kết nối tri thức tập 1