Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận sâu sắc về nhân vật Tiểu Thanh trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí - Dàn ý chi tiết & 4 bài văn mẫu đặc sắc
Cảm nhận về nhân vật Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du bao gồm dàn ý chi tiết cùng 4 bài văn mẫu đặc sắc, mang đến nguồn cảm hứng phong phú giúp học sinh nâng cao kỹ năng viết văn.
Cảm nhận về nhân vật Tiểu Thanh giúp ta thấu hiểu số phận bi thương của một người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng phải chịu kiếp làm lẽ mọn, bị hành hạ bởi lòng ghen tuông mù quáng, và qua đời khi tuổi đời còn xuân xanh. Tập thơ của nàng bị vợ cả đốt sạch, chỉ còn sót lại một vài bài, gọi là “Phần dư”. Nguyễn Du, khi đọc những vần thơ ấy, đã viếng nàng và khóc thương cho số phận đầy oan nghiệt. Dưới đây là 4 bài văn cảm nhận về Tiểu Thanh xuất sắc nhất, mời các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo.
Dàn ý cảm nhận về Tiểu Thanh
I. Mở bài:
Tiểu Thanh, tên hiệu của một cô gái họ Phùng sống vào thời nhà Minh, Trung Quốc. Nàng bị ép làm lẽ, chịu sự ghen tuông của vợ cả và bị đày ra sống cô độc ở Cô Sơn bên Tây Hồ. Trong nỗi cô đơn và sầu muộn, nàng qua đời khi mới mười tám tuổi, để lại tập thơ “Tiểu Thanh kí”. Đọc phần di cảo của nàng, Nguyễn Du xúc động viết nên bài thơ: Độc Tiểu Thanh kí.
- Ghi lại bài thơ và chuyển mạch.
II. Thân bài:
1. Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Nguyễn Du tưởng tượng cảnh Tây Hồ, nơi Tiểu Thanh bị vợ cả đày ải, giờ đã trở thành gò hoang. Cũng như Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh qua những mảnh giấy tàn, phần di cảo còn sót lại của nàng. Gò hoang lạnh lẽo chôn vùi người tài sắc nhưng bạc mệnh, khiến lòng người đau xót. Sự thương cảm ấy được thể hiện qua việc tưởng niệm nàng bằng cách đọc những bài thơ cũ còn lại, bên song cửa sổ, với nỗi ngậm ngùi thổn thức:
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
2. Tiểu Thanh là kẻ cô đơn, người viết cũng là kẻ cô đơn. Hai tâm hồn cô đơn dường như tìm thấy sự đồng cảm, và người hôm nay thấu hiểu trọn vẹn nỗi đau của người xưa.
Son phấn có thần, chôn vẫn hận.
Văn chương không mệnh, đốt còn vương.
- Son phấn như mang linh hồn, nên dù người đã khuất vẫn còn đau đớn. Văn chương không có số mệnh, nhưng sao vẫn vương vấn nỗi phiền muộn.
- Sắc đẹp và văn chương là hai thứ gắn liền với Tiểu Thanh khi nàng còn sống. Son phấn vốn không có thần, nhưng Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó để rồi tự mình ôm nỗi hận, thương xót cho Tiểu Thanh. Văn chương cũng vậy, vốn không có mệnh, nhưng Nguyễn Du đã gán cho nó số phận để rồi day dứt, xót xa cho nàng.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
- Từ câu thực, Nguyễn Du đi đến câu luận mang tính triết lý sâu sắc. Nỗi hờn kim cổ là nỗi hận muôn đời. Nhà thơ như dồn nén nỗi hận ấy vào niềm thương cảm cho số phận Tiểu Thanh. Muốn hỏi trời vì sao lại có nỗi hận này, nhưng không thể hỏi được, chỉ càng thêm đau đớn.
- Còn kẻ phong lưu, lẽ ra phải được hưởng những thú vui thanh cao, sao lại phải gánh lấy cái án oan nghiệt?
Không thể tìm được câu trả lời, nhà thơ chỉ biết thở dài: Ta tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với kẻ mang nỗi oan kỳ lạ vì nết phong lưu.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
- Tiểu Thanh qua đời vào thế kỷ XVI, ba trăm năm sau, vào thế kỷ XIX, có một người là Tố Như (tức Nguyễn Du) đã viết thơ khóc thương nàng. Nhưng liệu ba trăm năm sau khi Tố Như mất, trên đời này còn ai nhỏ lệ vì ông chăng?
- Một câu hỏi khiến lòng người chùng xuống, thể hiện nỗi đau đớn tột cùng. Cuộc đời vốn hiếm khi tìm được tri âm, tri kỷ. Nguyễn Du đang xót xa cho Tiểu Thanh, bỗng chốc quay lại tự thương cảm cho chính mình. Bởi lẽ, Nguyễn Du và Tiểu Thanh đều chung một kiếp tài hoa bạc mệnh, đầy gian truân.
III. Kết bài
Tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du được thể hiện sâu sắc qua các tác phẩm của ông, đặc biệt là bài thơ này. Ông thương xót người đang sống (Sở kiến hành), thương cảm người chịu kiếp đọa đày (Truyện Kiều), thương người bất hạnh (Văn chiêu hồn), và cả người đã khuất (Độc Tiểu Thanh kí). Đúng như lời thơ Tố Hữu:
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha.
Phân tích nhân vật Tiểu Thanh - Mẫu 1
Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh cũng như một định mệnh, giống như Thuý Kiều gặp Đạm Tiên. Ngày tết Thanh minh, nhưng sắc xuân dường như không chạm đến nấm mồ của Đạm Tiên:
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Sắc cỏ vàng úa giữa mùa xuân tươi đẹp thật phù hợp cho cuộc gặp gỡ giữa hai con người mang số phận đoạn trường. Nguyễn Du và Tiểu Thanh không chỉ cách biệt bởi âm dương, mà còn bởi khoảng cách thời gian xa vời: ba trăm năm lẻ. Nhưng khoảng cách ấy không ngăn được sự đồng cảm. Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du chính là tiếng lòng vượt qua mọi rào cản để thương xót cho một kiếp người tài hoa bạc mệnh.
Nguyễn Du gặp Tiểu Thanh như một cuộc hội ngộ định mệnh. Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn tài hoa, đầy duyên nợ với văn chương:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Cảnh vật được miêu tả thật hoang tàn. Nguyễn Du nhắc đến Tây Hồ (thuộc Chiết Giang, Trung Quốc), nơi có núi Cô Sơn, chốn Tiểu Thanh từng sống. Sự thay đổi từ quá khứ sang hiện tại, từ vườn hoa thành gò hoang, gợi lên sự khắc nghiệt của thời gian. Từ “tẫn” trong nguyên bản “hoa uyển tẫn thành khư” diễn tả sự thay đổi dữ dội, không còn dấu vết. Câu thơ không chỉ nói về lẽ đời dâu bể, mà còn thể hiện nỗi xót xa cho cái đẹp bị vùi dập. Toàn bộ câu chuyện đau thương về Tiểu Thanh hiện lên qua từng câu chữ.
Câu thơ thừa đề mới thực sự là cuộc gặp gỡ của Nguyễn Du:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ)
Khi còn sống, Tiểu Thanh đã viết tập thơ “Tiểu Thanh kí” để ghi lại nỗi đau lẻ bóng của mình. Sau khi nàng qua đời, vợ cả đốt sạch, chỉ còn sót lại vài bài. Cuộc viếng thương của Nguyễn Du không diễn ra tại Côn Sơn, mà qua những trang sách còn dang dở. Sự tiếc thương ấy vượt qua cả thời gian và không gian. Phần di cảo của Tiểu Thanh kí phải chăng cũng là cuộc đời tan vỡ của nàng? Tan vỡ nhưng chưa mất hẳn, vẫn còn vương lại để tiếp tục giận hờn, oán trách.
Tiểu Thanh đẹp nhưng bất hạnh, tài hoa nhưng yểu mệnh. Đó có phải là số phận chung của những người tài sắc? Nỗi day dứt ấy ám ảnh Nguyễn Du suốt đời:
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Hai câu thơ khái quát nỗi oan trái của Tiểu Thanh. Son phấn tượng trưng cho nỗi oan của sắc đẹp, văn chương là nỗi oan của tài năng. Hai thứ vô tri được nhân cách hóa, mang theo cái thần, cái mệnh của Tiểu Thanh. Dù tập thơ bị đốt, nhưng cuộc đời nàng vẫn hiện hữu, tiếp tục kêu than cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh. Hai câu thơ viết bằng cảm hứng xót xa và ngợi ca cái đẹp, cái tài.
Bốn câu thơ cuối thể hiện sự chuyển biến trong ý thơ. Từ thương xót một người con gái tài hoa, Nguyễn Du mở rộng nỗi thương cho muôn kiếp tài hoa. Từ thương người, ông quay lại ngậm ngùi thương chính mình.
Nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh được Nguyễn Du khái quát thành nỗi hờn, nỗi oan của những người cùng chung số phận:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Câu thơ chất chứa nỗi hờn kim cổ, trở thành câu hỏi lớn treo lơ lửng giữa không trung mà không có lời đáp. Tại sao những người tài hoa lại gặp nhiều truân chuyên? Tại sao kẻ phong lưu lại phải chịu oan khổ? Câu thơ không chỉ là nỗi lòng của Nguyễn Du mà còn là nghịch lý thường thấy trong cuộc đời: người tài hoa lại gánh lấy oan khiên. Câu hỏi như hướng vào hư vô, không lời giải đáp, khiến nỗi hận, nỗi oan càng thêm nhức nhối.
Độc Tiểu Thanh kí còn là nỗi day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Đó là sự băn khoăn của thi nhân trước sự bấp bênh của thế thái nhân tình. Nỗi day dứt ấy phản ánh sự bế tắc của thời đại mà Nguyễn Du đang sống.
Cảm nhận nhân vật Tiểu Thanh - Mẫu 2

Phùng Sinh, người Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang - Trung Quốc, sống vào cuối đời Minh, nổi tiếng giàu có và ăn chơi. Một lần đến Dương Châu (Giang Tô), ông mua được Tiểu Thanh, tên chữ là Nguyên Nguyên, cùng họ Phùng về làm thiếp. Nàng xinh đẹp, thông minh từ nhỏ, am hiểu thơ ca, từ khúc, giỏi đàn hát và múa ca. Khi được bán cho Phùng Sinh, nàng mới chỉ mười sáu tuổi. Nhìn tướng mạo của Phùng Sinh, Tiểu Thanh đã linh cảm được cuộc sống bất hạnh sau này của mình. Nàng than thở:
Đời ta thế là hết rồi!
Vợ cả của Phùng Sinh vốn tính ngang ngược, nổi tiếng ghen tuông, đối xử với Tiểu Thanh rất tệ. Cuối cùng, bà ta bắt nàng ra sống riêng dưới chân núi Cô Sơn, ven Tây Hồ, nằm bên con đê do Tô Đông Pha, một nhà thơ nổi tiếng đời Tống, cho đắp khi làm quan ở đây. Bà còn cấm Phùng Sinh đến thăm nàng. Cảnh vật u buồn, nhưng lòng người còn u buồn hơn. Chăn đơn gối chiếc, bốn bề vắng lặng. Chỉ có tiếng xào xạc của rừng mai, núi trúc, tiếng chuông chùa văng vẳng và sương khói mờ ảo. Tiểu Thanh suốt ngày đêm một mình với mấy đứa cháu nhỏ và một bà ở già. Nỗi hờn oán, buồn bã chỉ biết gửi vào nước mắt và thơ phú. Lâu ngày, nàng sinh bệnh.
Một lần, trong cơn bệnh nặng, nàng cho gọi thợ vẽ đến để truyền thần. Bức thứ nhất vẽ xong, nàng bảo:
- Mới được cái hình, chưa được cái thần.
Bức thứ hai, nàng nhận xét: "Có thần rồi đấy, nhưng phong thái chưa sinh động...". Đến bức thứ ba, nàng mới ưng ý.
Tiểu Thanh đặt bức vẽ lên bàn, bày hoa quả, thắp hương tự cúng mình. Nàng sai hầu gái lấy giấy bút viết thư tuyệt mệnh. Cuối thư là bốn câu thơ:
Ruột tằm dứt, lệ ròng ròng
Lầu son gác tía những mong có ngày
Chiều tà ửng mặt đào say
Ấy hồn thiếu nữ ngất ngây yêu kiều
Rồi nàng vứt bút, dựa vào án thư, nước mắt tuôn trào, nấc lên một tiếng lớn và qua đời.
Sau khi Tiểu Thanh mất, vợ cả của Phùng Sinh vẫn không nguôi ghen tức. Tập thơ và ảnh của nàng đều bị đốt sạch. May mắn còn sót lại một bức chân dung, là bức họa thứ hai, cùng vài bài thơ nháp dùng gói đồ tặng cô con gái của người ở già, không bị thiêu hủy.
Xin giới thiệu một hai bài:
Xuân về máu lệ nhòa
Giải áo bay vờn cổ
Ba trăm gốc mai già
Nên hóa đỗ quyên hoa
Bài thơ mang ý nghĩa rằng, màu vàng buồn của hoa mai đã hóa thành màu đỏ máu thảm thương của hoa đỗ quyên.
Bâng khuâng đứng trước Phật đài
Xin đừng làm một kiếp người nổi trôi
Chỉ làm giọt nước dương thôi
Tưới sen tịnh để đời đời sắc xanh
Bài thơ được viết khi dâng hương tại chùa Thiên Trúc ở Tây Hồ, không mang vẻ ngang tàng, phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ với câu thơ: "Kiếp sau xin chớ làm người! Làm cây thông đứng giữa trời mà reo". Nỗi buồn đau đã hóa thành ước nguyện từ bi, hiến dâng cho điều tốt đẹp.
Mưa lạnh, lòng buồn không nghe mưa
Khêu đèn ngồi đọc tích người xưa
Đời còn lắm kẻ ngây cùng dại
Đâu phải mình ta bạc mệnh thừa
Bài thơ được viết trong đêm gió mưa hiu hắt, khi đọc Mẫu Đơn Đình, một vở kịch nổi tiếng của Thang Hiến Tổ đời Nguyên, kể về nàng Lệ Nương chết đi với mối tình si vọng tưởng.
Cũng đã có nhiều người làm thơ về Tiểu Thanh. Ví như Chử Hạc Sinh, đương thời, đứng trước mộ Tiểu Thanh đã viết:
Lặng đến mồ ai nắm cỏ xanh
Bâng khuâng rơi lệ khối oan tình
Mẫu Đơn Đình đó giờ ai đọc
Song lạnh mưa thưa gió tạt mành
Đêm đó, Hạc Sinh một mình đi dưới rừng mai, vẫn không thôi nghĩ về số phận Tiểu Thanh. Ông tưởng như thấy bóng dáng yêu kiều lãng đãng phía trước, rồi làm thêm hai bài tứ tuyệt. Xin ghi lại một bài:
Đêm sương trăng rọi vườn mai
Tưởng như thấp thoáng bóng ai diễm kiều
Oán sao trận gió ban chiều
Lan gầy trúc gãy đến điều tang thương
Cảm nhận về Tiểu Thanh - Mẫu 3

Tiểu Thanh là một người con gái tài sắc, nhưng phải làm lẽ mọn, chịu sự hành hạ vì ghen tuông và qua đời khi còn rất trẻ. Tập thơ của nàng bị vợ cả đốt sạch, chỉ còn lại một số bài gọi là “Phần dư”. Nguyễn Du đã đọc những bài thơ ấy, viếng nàng và khóc thương cho số phận bất hạnh của nàng.
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí thể hiện nỗi xót xa, thương cảm trước số phận người phụ nữ tài hoa bị vùi dập và chết trong oan ức. Nguyễn Du cũng tự cảm nhận về thân phận bi thương của chính mình:
“Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiền hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Nhan sắc xưa giờ chỉ còn là nấm mộ. Tài hoa xưa chỉ còn lại một “phần dư”. Nhưng cuộc đời ấy, những câu thơ ấy đã khiến Nguyễn Du xúc động sâu sắc.
Tác giả viết về địa danh Tây Hồ (ở Trung Quốc), nơi từng là chốn phồn hoa, nhưng giờ đây cảnh đẹp xưa đã không còn, tất cả chỉ còn là quá khứ tàn lụi. Tây Hồ là nơi khơi nguồn cảm hứng. Cảm xúc của nhà thơ mang đậm tâm trạng u hoài. Sự đổi thay của trời đất đã biến Tây Hồ, nơi từng là “hoa uyển”, giờ trở thành gò hoang “thành khư”. Giữa khung cảnh gợi lên nỗi hoài cổ ấy, nhà thơ đã khóc thương Tiểu Thanh, viếng nàng qua những trang sách cũ còn sót lại:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Trong hai câu thực, Nguyễn Du đã ca ngợi tài sắc của Tiểu Thanh:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Nguyễn Du đánh giá rất cao Tiểu Thanh. Ông xúc động trước những số phận tài sắc bị vùi dập. Vẻ đẹp diệu kỳ, nét ảnh hoa đến mức “có thần” trở nên bất tử, tiếp nối đến ngày sau "liên tử hậu". Và văn chương, dù không có số mệnh, vẫn còn làm day dứt đến muôn đời. Tác giả suy ngẫm về sự ra đi của sắc đẹp, của tài hoa, khiến người đời mãi nuối tiếc. Giai nhân sẽ sống mãi với thời gian, cũng như văn chương sẽ mang lại vẻ đẹp vĩnh hằng.
Trong hai câu luận, tác giả nâng cảm xúc lên thành một vấn đề lớn, mang ý nghĩa sâu xa, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”
Nỗi oan trái trong số phận Tiểu Thanh được nâng lên thành nỗi đau kim cổ. Với con mắt của Nguyễn Du, đó là một quy luật nghiệt ngã mà con người hoàn toàn bất lực. Nhưng Nguyễn Du đã đồng cảm sâu sắc với những số phận tài hoa bạc mệnh như Tiểu Thanh.
“Tài mệnh tương đố” là quan niệm đã có từ xưa. Cái “sắc”, cái “tài” thường đi đôi với tai ương, đó vừa là nghịch lý, vừa là hiện thực trớ trêu của cuộc đời. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết:
“Thương thay cùng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi”
Ở đây, Nguyễn Du đã gửi gắm tâm sự của cuộc đời mình, nghĩ về người và cũng ngẫm về chính mình. Một nàng Tiểu Thanh tài sắc vướng vào vòng oan nghiệt. Nàng bị đày đọa, chết khi còn trẻ, và những sáng tác của nàng cũng chung số phận, bị lưu lạc, đốt bỏ. Tố Như đã khóc cho nàng và cũng khóc cho chính mình.
Phong vận kì oan ngã tự cư
“Phong vận kì oan” là nỗi oan lạ lùng của những người hào hoa phong nhã. Những nét đẹp lẽ ra được cuộc đời tôn vinh, nhưng cuối cùng lại phải chịu hậu quả nghiệt ngã. Một nàng Tiểu Thanh phải lìa đời khi còn xuân sắc, một thi nhân tài hoa như Nguyễn Du lại không có mệnh thành đạt, có khác gì nhau? Đó là sự bất công của cuộc đời. Một gia đình phong kiến hà khắc không dung nạp nổi con người tài sắc như Tiểu Thanh. Xã hội phong kiến hẹp hòi cũng không dung nạp nổi Nguyễn Du.
Cảm nhận về Tiểu Thanh - Mẫu 4
Số phận người phụ nữ xưa thường long đong, lận đận, và những tiếng thơ cất lên thể hiện nỗi xót xa cho số phận ấy khiến lòng người không khỏi thổn thức, nghẹn ngào. Sinh ra vốn tài sắc, nhưng đời có câu: "hồng nhan bạc phận" quả không sai. Bao phận hồng nhan nổi trôi, bị vùi dập, chà đạp, thậm chí phải chịu cái chết đau thương, oan ức. Nàng Tiểu Thanh trong "Độc Tiểu Thanh Kí" của Nguyễn Du cũng là một phận đời như thế.
Tiểu Thanh vốn thông minh, xinh đẹp, nết na, nàng lọt vào mắt xanh của Phùng Sinh - một kẻ giàu có, ham mê ăn chơi. Hắn mua nàng về làm thiếp khi nàng mới tròn mười sáu tuổi. Nhưng sống trong giàu có mà chẳng có nổi niềm vui, nàng phải chịu bao đắng cay vì sự ghen tuông của vợ cả. Kiếp chồng chung vốn đã khổ, mụ vợ cả tìm mọi cách đẩy nàng xuống chân núi Cô Sơn, sống cuộc đời hiu quạnh. Nơi bốn bề hiu hắt, lấy gió rừng làm bạn, văn chương làm tri kỷ, bao nỗi buồn tủi, đớn đau, hờn oán được nàng gửi gắm vào từng trang thơ. Cuối cùng, nàng qua đời khi vừa bước sang tuổi mười tám, sống một kiếp ngắn ngủi với nỗi sầu muộn khôn nguôi. Đến khi chết, những áng thơ của nàng cũng bị vợ cả đốt sạch, chỉ còn sót lại chút phần dư. Nguyễn Du đã viết nên những vần thơ xót thương cuộc đời nàng:
"Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn"
Cảnh Tây Hồ vốn đẹp đẽ, khiến bao người mê đắm với hoa thơm cỏ lạ, thiên nhiên trong lành, giờ chỉ còn là gò hoang. Quá khứ đẹp đẽ đã không còn, chỉ còn lại sự tàn lụi. Phải chăng, khung cảnh ấy cũng như cuộc đời Tiểu Thanh, sắc đẹp hương trời, tài thơ ca, đàn múa khiến người ngợi khen, lại phải chịu kiếp làm lẽ, chịu bao bất công, cuối đời chỉ nhận lại sự cô đơn, buồn chán. Mảnh giấy tàn nâng niu bên song cửa là chút tâm tư nàng gửi gắm vào thơ, may mắn sót lại. Có lẽ, thơ nàng mang nỗi đau nhân thế, nỗi oán hận số kiếp bạc mệnh khiến Nguyễn Du thổn thức, nghẹn ngào.
"Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương vô mệnh đốt còn vương"
Cuộc đời nàng chịu nhiều ngang trái, khiến những vật tưởng vô tri vô giác ấy vẫn mang nỗi hận khôn nguôi. Dù có chết đi, sắc đẹp, nhân cách và tài năng của nàng vẫn tồn tại mãi với thời gian, chẳng gì có thể hủy diệt được. Dù kẻ vô lương muốn hủy cùng diệt tận, nhưng vì lẽ nào đó, nó vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục sống cuộc đời nàng.
"Cổ kim hận sự trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang"
Số phận truân chuyên của Tiểu Thanh khiến ai cũng tiếc thương. Dù mấy trăm năm trước hay bây giờ, nỗi hận ấy vẫn khôn nguôi, khiến lòng người không khỏi xót xa và tự vấn. Sao số kiếp người thiên lương lại phải chịu đọa đày? Tại sao người tài hoa lại chẳng được trân trọng? Trời cao có thấu được nỗi lòng kẻ phong lưu mang nỗi niềm nhân thế?
Bài thơ là tiếng khóc thương của Nguyễn Du cho cuộc đời Tiểu Thanh - người cố nhân chịu nhiều oan trái. Qua đó, không chỉ khắc họa hình ảnh nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, mà còn thể hiện cảm hứng nhân văn cao cả của một tấm lòng thiết tha với cuộc đời, với con người.
- Luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ Ý chí - Bài 16 Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều Tập 2
- Hướng dẫn viết báo cáo - Bài 16 Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều Tập 2
- Nói và nghe: Kể chuyện Lên đường - Bài 16 Tiếng Việt lớp 4 tập 2 Cánh diều
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt tác phẩm Bức thư của thủ lĩnh da đỏ (7 mẫu) - Những bài văn mẫu đặc sắc dành cho học sinh lớp 6
- Soạn bài Đường về quê mẹ - Ngữ văn lớp 8 trang 47 sách Cánh diều tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc