Tuyển Tập 31 Bài Văn Mẫu Lớp 6: Bài Viết Số 1 (Đề 1 Đến Đề 5) - Những Áng Văn Hay Đặc Sắc
Bài Văn Mẫu Lớp 6: Bài Viết Số 1 (Đề 1 Đến Đề 5) - Bao gồm dàn ý chi tiết và 31 bài văn mẫu từ đề 1 đến đề 5, giúp học sinh nắm bắt ý tưởng, hoàn thiện bài viết số 1 một cách xuất sắc và đạt kết quả cao.
Tuyển tập những bài văn mẫu số 1 lớp 6 được trình bày một cách xuất sắc bởi các học sinh tài năng. Nhiều bài văn trong số này đã giành được giải thưởng cao tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia. Mời quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo để khám phá những góc nhìn sâu sắc và sáng tạo.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 1: Hóa thân thành Lạc Long Quân kể lại truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên
Đề bài: Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em. Tái hiện câu chuyện Con Rồng Cháu Tiên một cách sinh động và sáng tạo.
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 1
1. Mở bài
Giới thiệu về sự ra đời kỳ diệu, tài năng phi thường và những hành động cao cả của Lạc Long Quân.
2. Thân bài
Kể lại các sự kiện chính theo trình tự sau:
- Cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ.
- Âu Cơ hạ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm người con khỏe mạnh.
- Lạc Long Quân trở về thủy cung, để lại Âu Cơ và các con trên cạn.
- Lạc Long Quân và Âu Cơ quyết định chia các con, một nửa theo cha xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi.
3. Kết bài
Sự hình thành của nhà nước Văn Lang dưới sự cai trị của các vua Hùng.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 1 - Mẫu 1
Ta là Lạc Long Quân, thuộc dòng dõi Rồng, con trai của Thần Long Nữ. Gia tộc ta đã sinh sống hàng ngàn năm trên vùng đất Lạc Việt trù phú. Từ khi sinh ra, ta đã mang trong mình sức mạnh phi thường và tài năng thần thông. Vốn quen sống dưới nước, ta chỉ thỉnh thoảng lên cạn để diệt trừ yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh - những kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi cho dân lành. Ta cũng dạy họ cách trồng trọt, chăn nuôi và sinh sống sao cho tốt đẹp hơn. Sau khi hoàn thành công việc, ta trở về thủy cung để báo hiếu với Thần Long Nữ - mẫu hậu của ta. Chỉ khi cần thiết, ta mới hiện lên giúp đỡ nhân dân.
Một ngày nọ, trong lúc đi thăm thú dân tình, ta gặp một người con gái xinh đẹp tuyệt trần đang dạo bước gần cung điện Long Trang. Hỏi ra mới biết nàng tên là Âu Cơ, thuộc dòng họ Thần Nông từ vùng núi cao phương Bắc. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng tìm đến thăm. Sau nhiều lần trò chuyện, ta và nàng đem lòng yêu thương nhau rồi kết duyên vợ chồng, cùng nhau sống hạnh phúc tại cung điện Long Trang.
Hạnh phúc càng nhân đôi khi Âu Cơ mang thai. Sau chín tháng mười ngày, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, và kỳ diệu thay, trăm trứng nở thành trăm người con khỏe mạnh, xinh đẹp. Vì ta là giống Rồng, còn Âu Cơ là giống Tiên, nên những đứa con của chúng ta lớn lên nhanh chóng, mặt mũi khôi ngô và sức khỏe phi thường. Cuộc sống gia đình tràn ngập tiếng cười và hạnh phúc. Tuy nhiên, trong lòng ta luôn có một nỗi nhớ da diết về quê hương dưới biển sâu. Cuối cùng, ta quyết định trở về thủy cung, để lại Âu Cơ và các con trên cạn. Dù xa cách, ta và Âu Cơ quyết định chia đôi số con, năm mươi theo mẹ lên núi, năm mươi theo ta xuống biển, nhưng luôn nhớ lời hẹn ước giúp đỡ lẫn nhau khi cần.
Với tài năng và sức mạnh thần thánh, người con trưởng của ta theo mẹ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Triều đình có đủ tướng văn, tướng võ. Con cháu ta sinh ra, trai gọi là lang, gái gọi là Mị Nương. Dòng dõi ta tiếp nối nhau cai quản đất nước, hiệu Hùng Vương được truyền qua 18 đời, không hề thay đổi.
Dù sống xa cách, con cháu của ta luôn nhắc nhở nhau rằng họ là con Rồng cháu Tiên, phải yêu thương, đoàn kết và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh, để đất nước ngày càng hùng mạnh và phồn vinh.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 1 - Mẫu 2
Thuở ấy, cách đây hơn bốn nghìn năm, đất nước ta còn hoang sơ với núi đồi trùng điệp, cỏ cây um tùm. Trên trời dưới nước, mỗi vùng đất đều có các vị thần tiên cai quản và chăm sóc.
Ta là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ, vị thần cai quản vùng sông nước Lạc Việt. Được cha mẹ dạy dỗ từ nhỏ và sở hữu sức mạnh của giống rồng, ta đã luyện được nhiều phép thần thông. Khi còn trẻ, ta thường xin phép Đức Long Vương lên trần gian để giúp dân diệt trừ yêu quái, dạy họ cách trồng trọt, chăn nuôi và sinh sống. Cảnh đẹp trần gian khiến ta gắn bó như đang sống dưới thủy cung.
Một hôm, trong lúc ngao du sơn thủy, ta lạc đến vùng núi cao phương Bắc. Tại đây, ta gặp một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, nàng là Âu Cơ, con gái của Thần Nông. Nghe nói vùng Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng xin phép cha đến thăm. Ta và Âu Cơ đem lòng yêu thương rồi thề nguyện sống trọn đời bên nhau.
Ít lâu sau, Âu Cơ mang thai và sinh ra một bọc trăm trứng. Kỳ lạ thay, trăm trứng nở thành trăm người con khỏe mạnh, xinh đẹp, không cần bú mớm mà tự lớn lên nhanh chóng. Vợ chồng ta vô cùng hạnh phúc và dành hết tình thương chăm sóc đàn con.
Sống trên trần gian đã lâu, ta cảm thấy nóng lòng nhớ về thủy cung, nơi cha mẹ già yếu đang cần sự chăm sóc. Ta nghĩ: “Âu Cơ vốn thuộc dòng tiên hợp với non cao, ta lại là giống rồng quen sống nơi biển cả; tính tình, tập quán khác biệt nên một cuộc chia ly khó tránh khỏi”. Ta bèn gọi trăm con và Âu Cơ lại để nói lời từ biệt.
Ta nói: “Ta và nàng tuy sống chưa lâu nhưng tình nghĩa sâu nặng như sông cạn đá mòn cũng không thay đổi. Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, khó có thể sống bên nhau lâu dài. Nay vì đại nghiệp và tương lai của trăm con, ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc, hãy giúp đỡ lẫn nhau.”
Âu Cơ nghe theo, cuộc chia ly đầy lưu luyến. Ta đưa năm mươi con xuống vùng đồng bằng, dạy chúng nghề biển để an cư lập nghiệp. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi, lập con trưởng làm vua, hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Dòng dõi ta tiếp nối nhau cai quản đất nước, hiệu Hùng Vương được truyền qua nhiều đời.
Sau đó, ta và Âu Cơ không còn gặp lại nhau, nhưng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên. Nghĩa “đồng bào” giữa trăm con ta cũng không thay đổi. Đến tận ngày nay, dù đất nước ta có hơn năm mươi dân tộc, tất cả đều là anh em một nhà, cùng chung dòng máu con Rồng cháu Tiên.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 1 - Mẫu 3
Ngày ấy, đất nước ta còn hoang sơ, chưa có con người đông đúc như bây giờ. Các vị thần tiên cai quản đất đai, trông coi mọi việc. Bà Nữ Oa lo việc chống trời, Thần Nông trồng lúa, Thần Núi vun đất thành núi đồi, thần Sông lo việc tưới tiêu... Vì thế, dân gian có câu hát:
“Ông tát bể
Ông kể sao
Ông đào sông
Ông xây rú (núi)…”
Các vị thần trên trời và dưới nước thường xuyên qua lại, thăm hỏi lẫn nhau, không xa cách như ngày nay.
Lúc ấy, ta còn trẻ, chỉ mười tám đôi mươi. Lòng khao khát khám phá thế giới, ta thường xin phép Đức Long Vương (cha ta) lên trần gian ngao du sơn thủy. Cảnh đẹp cùng hoa thơm trái ngọt khiến ta say mê, nhiều khi quên cả đường về. Cha ta nhiều lần phải sai người lên tìm. Dù bị trách mắng, ta vẫn khó lòng rời xa chốn trần gian đẹp đẽ ấy.
Một lần, ta đi quá lên thượng nguồn, bỗng gặp một người con gái đẹp tuyệt trần đang dạo bước giữa bầy tiên nữ. Hỏi ra mới biết nàng là Âu Cơ, con gái út của Thần Nông trên trời, chuyên lo việc trồng cấy. Nàng cũng như ta, vô cùng yêu thích cảnh đẹp trần gian. Mến cảnh mến người, ta và nàng thề nguyền chung thủy, lấy sợi chỉ đỏ buộc hai cổ tay để làm lễ xe tơ kết tóc.
Chẳng bao lâu sau, Âu Cơ mang thai. Đến ngày sinh nở, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con xinh đẹp, tính nết vừa mạnh mẽ vừa hiền hòa. Chúng ta vô cùng hạnh phúc. Mải vui với niềm vui mới, ta quên mất vương quốc dưới thủy cung. Đã lâu ta không về, chắc cha ta mong ta lắm. Ta định về thăm ít ngày thì sứ giả lên báo: Cha ta ốm nặng, có lẽ không qua khỏi, ta phải về ngay để gánh vác trọng trách.
Biết giờ phút chia tay đã điểm, ta gọi các con lại và nói với Âu Cơ:
- Âu Cơ nàng hỡi! Ta và nàng gắn bó bấy nay, thời gian tuy chưa nhiều nhưng nghĩa tình sâu nặng, dù nước sông chảy nghìn năm cũng không sánh bằng. Nay ta vì đại sự phải trở về. Hơn nữa, ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, khó có thể sống bên nhau mãi mãi. Vậy ta sẽ đem năm mươi con xuống biển, để lại cho nàng năm mươi đứa. Nàng hãy cùng các con cai quản rừng núi. Nếu có việc gì, hãy báo cho nhau, anh em một nhà phải giúp đỡ lẫn nhau.
Nói rồi, ta đưa năm mươi con xuống vùng đồng bằng ven biển. Sau khi dạy chúng cách đắp đê ngăn mặn, trồng trọt, đánh cá, ta trở về cai quản thủy cung.
Dù xa cách, ta vẫn biết rằng sau khi ta đi, Âu Cơ đã cử con trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Nàng chia những người con còn lại đi trấn giữ các nơi, lập thành các tộc người như Tày, Nùng, Thái, Mèo, Lô Lô...
Thế đấy các cháu ạ. Dòng dõi người Việt là dòng dõi Rồng Tiên, các cháu đừng bao giờ quên nguồn gốc cao quý của tổ tiên mình.
......
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2: Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em
Đề bài: Kể lại một câu chuyện cổ tích bằng lời văn của em (Sọ Dừa).
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 2
A. Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kỳ lạ của mẹ Sọ Dừa.
B. Thân bài:
- Kể về các sự việc chính sau:
- Hình dáng kỳ dị của Sọ Dừa.
- Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
- Cô út phát hiện Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
- Sọ Dừa nhờ mẹ sang hỏi cưới con gái phú ông.
- Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út.
- Sọ Dừa đi thi đỗ trạng nguyên.
- Cô út bị hai cô chị hãm hại.
C. Kết bài: Vợ chồng Sọ Dừa đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2 - Mẫu 1
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích đặc sắc. Mỗi câu chuyện đều mang đến những bài học ý nghĩa về đạo lý làm người. Sọ Dừa là một câu chuyện như thế, vừa kể về cuộc đời kỳ lạ của Sọ Dừa, vừa nhắc nhở chúng ta về lòng nhân ái và sự công bằng trong cuộc sống.
Qua lời kể của bà, câu chuyện vẫn in đậm trong tâm trí em. Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo khó, phải đi làm thuê cho nhà phú ông. Họ chăm chỉ, hiền lành nhưng mãi đến năm mươi tuổi vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ vào rừng hái củi. Trời nắng gắt, bà khát nước nhưng không tìm thấy suối. Bỗng bà nhìn thấy một sọ dừa đựng đầy nước mưa bên gốc cây, liền uống cho đỡ khát. Kỳ lạ thay, từ đó bà mang thai.
Ít lâu sau, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không chân tay, thân hình tròn lông lốc như quả dừa. Đau lòng, bà định vứt đi thì đứa bé lên tiếng:
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Thương con, bà giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không chân tay, chỉ lăn lóc bên chân mẹ. Bà mẹ buồn lòng, than thở. Sọ Dừa nghe vậy liền xin mẹ:
– Chăn bò con cũng làm được. Mẹ nói với phú ông cho con đi chăn bò nhé!
Bà mẹ đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng kỳ lạ của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm nên đồng ý.
Từ đó, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn theo đàn bò ra đồng, tối lại lăn về. Đàn bò ngày càng béo tốt, phú ông rất hài lòng.
Mùa màng đến, tôi tớ bận rộn, phú ông sai ba cô con gái thay phiên mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kỳ, hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út hiền lành, đối xử tử tế với cậu.
Một hôm, cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô nghe tiếng sáo véo von. Rón rén nhìn qua bụi cây, cô thấy một chàng trai khôi ngô đang thổi sáo trên võng đào. Nhưng khi nghe tiếng động, chàng biến mất, chỉ còn Sọ Dừa nằm đó. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, dần yêu mến và thường giấu đồ ăn ngon mang cho chàng.
Một hôm, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi cưới cô út. Bà lão ngạc nhiên nhưng thấy con năn nỉ mãi nên đành chiều lòng.
Bà đến nhà phú ông hỏi cưới, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ rằng con mình sẽ từ bỏ ý định, nhưng Sọ Dừa lại nói sẽ có đủ lễ vật. Đến ngày hẹn, bỗng nhiên trong nhà xuất hiện đầy đủ sính lễ cùng gia nhân khiêng đồ sang nhà phú ông. Phú ông hoa mắt, gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út cúi đầu đồng ý. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa bày cỗ linh đình, gia nhân tấp nập. Khi rước dâu, mọi người không thấy Sọ Dừa xấu xí mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều ngạc nhiên và vui mừng, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn thông minh, chăm chỉ học hành và thi đỗ trạng nguyên. Trước khi đi sứ, chàng đưa vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang theo để phòng khi cần.
Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa đi vắng, lừa đẩy cô út xuống biển. Một con cá kình nuốt cô vào bụng, nhưng nhờ con dao, cô đâm chết cá và trôi dạt vào đảo hoang. Cô dùng đá bật lửa nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua cứu. Hai quả trứng cũng nở thành đôi gà làm bạn với cô.
Sọ Dừa là câu chuyện cổ tích ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta “ở hiền gặp lành”, người nhân hậu sẽ được hạnh phúc, kẻ ác sẽ chịu quả báo. Mỗi người cần sống nhân hậu, tránh tham lam, ích kỷ.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o... Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào đón, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui nhưng giấu vợ trong nhà. Hai cô chị mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em gặp nạn, tỏ vẻ thương tiếc. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới gọi vợ ra. Hai cô chị thấy em thì xấu hổ, lén bỏ đi biệt xứ.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2 - Mẫu 2
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi làm thuê cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng gắt, bà khát nước, thấy sọ dừa đựng đầy nước mưa bên gốc cây, liền uống. Từ đó, bà mang thai.
Ít lâu sau, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không chân tay, thân hình tròn lông lốc như quả dừa. Đau lòng, bà định vứt đi thì đứa bé lên tiếng:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà thương tình giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không chân tay, chỉ lăn lóc bên chân mẹ. Bà mẹ buồn lòng, nhưng Sọ Dừa xin đi chăn bò cho nhà phú ông.
Phú ông ngần ngại nhưng nghĩ nuôi Sọ Dừa ít tốn cơm nên đồng ý. Chẳng ngờ, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn theo đàn bò ra đồng, tối lại lăn về. Đàn bò ngày càng béo tốt, phú ông rất hài lòng.
Mùa màng đến, tôi tớ bận rộn, phú ông sai ba cô con gái thay phiên mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kỳ, hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út hiền lành, đối xử tử tế với cậu.
Một hôm, cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô nghe tiếng sáo véo von. Rón rén nhìn qua bụi cây, cô thấy một chàng trai khôi ngô đang thổi sáo trên võng đào. Nhưng khi nghe tiếng động, chàng biến mất, chỉ còn Sọ Dừa nằm đó. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, dần yêu mến và thường giấu đồ ăn ngon mang cho chàng.
Cuối mùa, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi cưới cô út. Bà lão ngạc nhiên nhưng thấy con năn nỉ mãi nên đành chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa đến dạm hỏi, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ rằng con mình sẽ từ bỏ ý định, nhưng Sọ Dừa lại nói sẽ có đủ lễ vật. Đến ngày hẹn, bỗng nhiên trong nhà xuất hiện đầy đủ sính lễ cùng gia nhân khiêng đồ sang nhà phú ông. Phú ông hoa mắt, gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út cúi đầu đồng ý. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa bày cỗ linh đình, gia nhân tấp nập. Khi rước dâu, mọi người không thấy Sọ Dừa xấu xí mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều ngạc nhiên và vui mừng, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Từ đó, hai vợ chồng sống hạnh phúc. Sọ Dừa còn thông minh, chăm chỉ học hành và thi đỗ trạng nguyên. Trước khi đi sứ, chàng đưa vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang theo để phòng khi cần.
Ganh tị với cô em, hai cô chị nảy sinh lòng ghen ghét, quyết tâm hại em để thay thế làm bà trạng. Nhân lúc quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng nhờ con dao mà thoát chết. Cô dạt vào đảo hoang, dùng dao mổ bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng cá ăn. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò... ó... o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui nhưng giấu vợ trong nhà. Hai cô chị thấy thế mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em gặp nạn, tỏ vẻ thương tiếc. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới gọi vợ ra. Hai cô chị thấy em thì xấu hổ, lén bỏ đi biệt xứ.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2 - Mẫu 3
- Ò ó o… o!
Nghe tiếng gà gáy, cô út choàng tỉnh dậy. Phải mất một lúc, cô mới nhớ lại tình cảnh hiện tại của mình. Cô vừa thoát khỏi bụng cá kình, một mình trên đảo hoang, chỉ có đôi gà làm bạn.
Cô bỗng nhớ lại mọi chuyện, bắt đầu từ ngày kỳ lạ ấy. Thấy hai cô chị không ai chịu mang cơm cho Sọ Dừa, cô đành nhận lời đi. “Dù dung mạo có hơi xấu nhưng cậu ấy biết nói tiếng người, lại còn ăn nói rất dễ thương” – cô nghĩ.
Từ xa, cô đã nghe tiếng sáo du dương. Lạ quá! Ai thổi sáo thế nhỉ? Không lẽ là Sọ Dừa? Nhưng làm sao cậu ấy thổi sáo được? Cô nhớ ngày Sọ Dừa xuất hiện ở nhà mình. Trông cậu ấy thật buồn cười, lăn lông lốc như quả bí, nhưng ăn nói rất khéo. Hai cô chị thấy Sọ Dừa thì quay mặt đi, riêng cô không sợ mà lại thương cậu ấy, nhất là khi thấy cậu chăn bò rất giỏi, đàn bò béo tròn. Cô lên đưa cơm nhưng cũng muốn xem cậu chăn bò thế nào.
Đến gần, cô út càng ngạc nhiên. Sao lại có võng mắc ở đây, lại có ai đang nằm thổi sáo? Hay đó là người anh em của Sọ Dừa mà cô không biết? Thế cậu ấy đâu rồi?
Mải suy nghĩ, cô út dẫm phải cành cây khô, tạo ra tiếng động. Cô cúi xuống nhìn rồi ngẩng lên, sửng sốt khi thấy chiếc võng và chàng trai biến mất. Chỉ còn Sọ Dừa, đang cười toe toét dưới gốc cây:
- Chào cô út! Cô mang cơm cho tôi hay lên thăm tôi đấy?
Cô út không trả lời, vẫn còn thắc mắc. Cô hỏi:
- Anh chàng vừa nằm trên võng thổi sáo đâu rồi?
Sọ Dừa chối biến:
- Chắc cô nhầm đấy, tôi ở đây suốt, làm gì có ai thổi sáo đâu!
Cô út không tin mình nhầm. Cô chợt nghĩ ra điều khác thường. Phải rồi, Sọ Dừa nếu cứ thế thì làm sao chăn được đàn bò, lại còn chàng trai trẻ, chiếc võng vừa đây mà đã biến mất… Cô không hỏi thêm, đưa cơm rồi đi về, lòng rộn ràng niềm vui.
Khi phú ông hỏi các cô con gái xem ai đồng ý lấy Sọ Dừa, ông chỉ hỏi lấy lệ để từ chối khéo bà mẹ. Ông chắc không cô gái nào lại đồng ý lấy người kỳ dị như Sọ Dừa. Nhưng cô út đã làm ông bố một phen chưng hửng:
- Cha đặt đâu, con xin ngồi đấy ạ!
Hai cô chị trề môi chê em gái ngốc nghếch. Phú ông tức giận nhưng đã trót hứa với bà mẹ, đành hẹn ngày dẫn cưới. Ông thách cưới nặng, nhưng cô út tin rằng người chồng tương lai của mình sẽ vượt qua. Quả nhiên, Sọ Dừa không chỉ mang đủ lễ vật mà còn dẫn theo nhiều người hầu, khiến mọi người ngạc nhiên: Xưa nay ai thấy người ra vào nhà Sọ Dừa đâu?
Đám cưới đang diễn ra linh đình, cô út bế Sọ Dừa vào nhà trong thì thầm:
- Nào người chồng yêu quý của em, chàng xuất hiện đi thôi!
Sọ Dừa mỉm cười, bảo cô quay mặt đi và nhắm mắt lại. Khi cô mở mắt, trước mặt là chàng trai trẻ hôm nào. Hai người sánh vai ra chào quan khách. Mọi người ngỡ ngàng, phải giải thích mãi, thậm chí Sọ Dừa còn hoá phép lại như cũ, mọi người mới tin. Đám cưới càng thêm vui.
Sọ Dừa học giỏi, đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Cô út ở nhà, không ngờ hai chị ghen tức, rắp tâm hại em để cướp chồng. Hai chị rủ em đi bơi thuyền rồi đẩy em xuống biển. Một con cá lớn nuốt cô vào bụng. May mắn, Sọ Dừa đã dặn cô mang theo dao, trứng gà và đá lửa. Cô dùng dao rạch bụng cá, chui ra, dạt vào bờ. Cô nướng cá ăn, có gà làm bạn.
Một hôm, cô đang nướng cá, bỗng con gà trống gáy vang:
- Ò. ó. o… phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về!
Cô vội chạy ra. Đúng là chồng cô. Chàng đi sứ về, nghe tiếng gà gáy, thấy bóng người như vợ mình, liền cho thuyền vào đón. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi.
Nghe lời chồng, cô nấp vào khoang thuyền. Khi nghe hai chị kể về cái chết thương tâm của mình, cô bước ra. Hai chị thấy em, xấu hổ, bỏ đi biệt tích.
Cô cùng chồng sống hạnh phúc đến già.
......
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3: Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh
Đề bài: Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh bằng lời văn của em
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 3
I. Mở bài
- Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái xinh đẹp tên là Mị Nương.
- Nhà vua mong muốn tìm được một chàng rể tài đức vẹn toàn.
II. Thân bài
1. Hai người tài cùng đến cầu hôn
a. Sơn Tinh
- Xuất thân từ vùng đất Tản Viên hùng vĩ.
- Tài năng phi thường: Có thể dựng lên núi đồi, cồn bãi chỉ trong chớp mắt.
b. Thủy Tinh
- Sinh ra từ miền biển sâu thẳm.
- Khả năng kỳ diệu: Điều khiển gió mưa, sóng biển theo ý muốn.
c. Hùng Vương băn khoăn
- Vua Hùng nhận thấy cả hai chàng trai đều tài giỏi xuất chúng.
- Quyết định cuối cùng: Ai mang lễ vật đến trước sẽ được cưới Mị Nương làm vợ.
- Lễ vật yêu cầu: Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
2. Cuộc giao tranh dữ dội.
a. Nguyên nhân
- Sơn Tinh đến sớm hơn, đưa Mị Nương về núi.
- Thủy Tinh đến muộn, nổi cơn thịnh nộ, quyết tâm giành lại Mị Nương.
b. Diễn biến cuộc giao tranh.
- Thủy Tinh tấn công: Gọi gió bão, dâng nước sông lên cuồn cuộn.
- Sơn Tinh phản công: Dời núi, dựng thành lũy kiên cố, nước dâng cao bao nhiêu, núi lại cao bấy nhiêu.
- Cuộc chiến kéo dài hàng tháng trời. Cuối cùng, Thủy Tinh đành phải rút lui.
III. Kết bài
Hàng năm, Thủy Tinh vẫn nhớ mối hận xưa, dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, hắn đều thất bại và phải rút quân về.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 1
Trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, câu chuyện “Sơn Tinh Thủy Tinh” là tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng em. Câu chuyện không chỉ giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm mà còn mang đến những bài học sâu sắc về sức mạnh và ý chí con người.
Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái tên Mị Nương, nàng sở hữu vẻ đẹp tựa đóa hoa rực rỡ, tính tình dịu dàng, nết na. Tương truyền, làn da nàng trắng như tuyết, mái tóc dài óng ả tựa dòng suối mềm mại, đôi mắt long lanh như những vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm. Vua cha yêu thương nàng hết mực, mong muốn tìm được một người chồng xứng đáng. Khi Mị Nương đến tuổi cập kê, nhà vua truyền lệnh mở hội kén rể. Những chàng trai tài hoa từ khắp nơi đổ về, nhưng trải qua nhiều tháng, chẳng ai khiến vua Hùng hài lòng.
Một ngày nọ, hai chàng trai xuất hiện cùng lúc để cầu hôn. Người thứ nhất, Sơn Tinh, cao lớn, vạm vỡ, giọng nói vang vọng như sấm rền, đôi mắt sắc bén như chim ưng, tự xưng là chúa tể vùng núi Tản Viên. Người thứ hai, Thủy Tinh, toát lên khí chất của biển cả, vai rộng năm tấc, thân cao mười tấc, tự nhận là chúa tể đại dương. Cả hai đều muốn chứng tỏ tài năng trước mặt vua Hùng. Sơn Tinh vẫy tay, dời non chuyển núi, tạo nên những cồn bãi và dãy núi hùng vĩ. Thủy Tinh không kém phần tài ba, chỉ cần hô một tiếng, gió mưa liền kéo đến, biển cả gầm vang. Vua Hùng lâm vào thế khó xử, không biết nên chọn ai.
Vua Hùng suy nghĩ hồi lâu rồi phán: “Cả hai chàng đều tài giỏi, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy thì, ngày mai ai mang sính lễ đến trước, ta sẽ gả Mị Nương cho người đó.”
Hai chàng hỏi sính lễ gồm những gì, vua Hùng liệt kê: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi, không được thiếu thứ gì.”
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước và được rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, tức giận vì không cưới được nàng, liền dâng nước đánh Sơn Tinh để đòi lại Mị Nương.
Thủy Tinh hô mưa gọi gió, nước sông dâng lên cuồn cuộn, nhấn chìm ruộng đồng, nhà cửa. Cả thành Phong Châu chìm trong biển nước. Từ dưới mặt nước, những thủy quái như bạch tuộc, thuồng luồng, cá sấu nổi lên, hung hãn tấn công. Sơn Tinh bình tĩnh đối phó, chàng dời núi, dựng thành lũy, sơ tán dân làng. Nước dâng cao bao nhiêu, núi lại cao bấy nhiêu. Chàng còn gọi các loài thú rừng như voi, hổ, gấu kéo đá ném xuống, đè bẹp lũ thủy quái. Cuộc chiến kéo dài hàng tháng, cuối cùng Thủy Tinh kiệt sức, đành rút quân. Từ đó, hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng năm nào cũng thất bại.
Câu chuyện “Sơn Tinh Thủy Tinh” đã trở thành biểu tượng của chiến thắng trước thiên tai. Dù lũ lụt hàng năm vẫn xảy ra, nhưng cuối cùng nước rút, giống như Thủy Tinh không bao giờ đánh bại được Sơn Tinh. Đó là minh chứng cho sức mạnh và ý chí kiên cường của con người trước thiên nhiên.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 2
Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Vua rất thương con và muốn tìm cho Mị Nương một người chồng xứng đáng.
Mị Nương càng lớn càng đẹp. Đến tuổi trăng rằm, không biết bao nhiêu chàng trai dòng dõi mong được lấy nàng làm vợ. Tiếng tăm về người con gái đẹp người đẹp nết vang xa tới tận núi Tản Viên, nơi Sơn Tinh – vị thần của núi và đất sinh sống. Một buổi sáng, Sơn Tinh quyết định cưỡi hổ trắng oai phong lẫm liệt đến cầu hôn Mị Nương. Cũng ngày hôm đó, một chàng trai cưỡi rồng nước uy nghi to lớn, tự xưng là Thuỷ Tinh cũng đến cầu hôn Mị Nương. Vua Hùng băn khoăn, ai cũng tài giỏi, biết gả con gái yêu cho ai bây giờ ? Cuối cùng, vua quyết định, hai người so tài, ai thắng sẽ được lấy Mị Nương. Lập tức, Thuỷ Tinh hô mưa gọi gió, sấm chớp nổ đùng đùng, cả thành Phong Châu như muốn nổ tung vì lũ quét, khiến cho không chỉ các lạc hầu lạc tướng kinh hãi mà đến ngay cả vua Hùng cũng phải run sợ. Sơn Tinh cũng chẳng thua kém, chàng chỉ tay về phía Đông, phía Đông mọc núi đồi, chàng chỉ tay về phía Tây, phía Tây nổi cồn bãi. Ai ai cũng đều thán phục. Vua Hùng muốn gả Mị Nương cho Sơn Tinh nhưng lại sợ Thuỷ Tinh nổi giận. Sau một hồi bàn bạc với các lạc hầu lạc tướng, vua phán: "Cả hai chàng đều tài giỏi nhưng ta chỉ có một mụn con, vì vậy, ngày mai, ai đến sớm, mang được đầy đủ một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà. gà chín cựa, ngựa chín hồng mao sẽ được đón Mị Nương về làm vợ".
Sáng hôm sau, khi tia nắng đầu tiên của ngày mới chưa xuất hiện, khi bầu trời còn đang đắm chìm trong màn sương đêm thì Sơn Tinh cùng đoàn tuỳ tùng đã đến rước Mị Nương về núi Tản. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ liền đùng đùng nổi giận, sai đoàn thuỷ quái đánh đuổi Sơn Tinh. Sơn Tinh gọi một đoàn quân hùng dũng gồm hùm beo gấu rắn.., lên đánh lại Thuỷ Tinh. Trời đất tối sầm, những tia sét ngang dọc lượn trên bầu trời như những con rắn khổng lồ đang uốn lượn như muốn xé tan bầu trời. Sơn Tinh cùng quân lính liên tục ném đá vào lũ thuỷ quái. Sau một hồi giao chiến, Thuỷ Tinh bèn dâng nước lên cao, nhấn chìm mọi nhà cửa ruộng đồng cây cối... Chẳng bao lâu, cả thành Phong Châu ngập chìm trong biển nước. Nhân dân cùng muông thú vội chạy lên núi cao trú ẩn. Sơn Tinh hoá phép cho đồi núi luôn cao hơn nước của Thuỷ Tinh. Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại dâng núi cao bấy nhiêu. Trận chiến diễn ra hết ngày này sang ngày khác. Thuỷ Tinh dần kiệt sức, đành phải rút quân về. Mọi người xuống núi dựng lại nhà cửa, vỡ ruộng khai hoang.
Từ đó, năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng đều thua trận. Ngày nay, nhân dân ta vẫn đắp đê, trồng rừng, hằng năm vẫn chung sức chống lại lũ lụt, như xưa kia, ông cha ta và Sơn Tinh đã chống lại Thuỷ Tinh.
Ngày nay, nhân dân ta vẫn đắp đê, trồng rừng, hằng năm vẫn chung sức chống lại lũ lụt
Thế mới biết, nếu đồng sức đồng lòng, không có việc gì chúng ta không làm được.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3 - Mẫu 3
Trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, em đặc biệt yêu thích câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”. Những chi tiết kỳ ảo và cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa hai vị thần để giành lấy nàng Mị Nương xinh đẹp đã khiến câu chuyện trở nên vô cùng hấp dẫn. Dưới đây, em xin kể lại câu chuyện này.
Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái duy nhất tên là Mị Nương, nàng sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Khi Mị Nương đến tuổi cập kê, nhà vua muốn tìm cho nàng một người chồng tài giỏi, xứng đáng với sắc đẹp và đức hạnh của công chúa.
Nghe tin vua Hùng kén rể, Sơn Tinh – chúa tể núi Tản Viên và Thủy Tinh – chúa tể biển cả, đều đến thành Phong Châu để cầu hôn. Sơn Tinh có khả năng kỳ diệu: chỉ cần vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi lên cồn bãi; vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên những dãy núi đồi. Thủy Tinh cũng không kém phần tài năng, chàng có thể hô mưa gọi gió, điều khiển biển cả. Vua Hùng lâm vào thế khó xử, liền triệu tập các Lạc hầu để bàn bạc. Cuối cùng, nhà vua phán:
– Cả hai chàng đều xứng đáng làm rể ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, không thể gả cho cả hai được. Vậy thì, ngày mai ai mang sính lễ đến trước, ta sẽ gả Mị Nương cho người đó. Sính lễ gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang đầy đủ lễ vật đến sớm và được rước Mị Nương về núi.
Gần trưa, Thủy Tinh mới đến, không lấy được vợ, liền nổi giận đùng đùng, dùng phép thuật đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa gọi gió, tạo nên bão tố kinh hoàng, nước biển cuồn cuộn tràn vào đất liền. Nước dâng cao, nhấn chìm ruộng đồng, nhà cửa, ngập cả lưng đồi, thành Phong Châu chìm trong biển nước mênh mông. Sơn Tinh vẫn bình tĩnh, dùng phép thuật dời núi, đắp đê vững chắc ngăn dòng nước lũ.
Cuộc chiến kéo dài hàng tháng trời, Sơn Tinh vẫn kiên cường, trong khi sức lực của Thủy Tinh dần suy yếu. Cuối cùng, Thủy Tinh đành phải rút quân.
Từ đó, Thủy Tinh ôm mối hận thù, hàng năm vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh để cướp lại Mị Nương. Nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh đều thất bại, đành chịu thua và rút quân về.
Em rất yêu thích câu chuyện này – một câu chuyện đầy kịch tính và ý nghĩa. Truyện không chỉ giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm mà còn thể hiện ước mơ chế ngự thiên tai của người Việt cổ.
.....
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4: Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng
Đề bài: Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 1
Từ thuở ấu thơ, ta đã được nghe bà, nghe mẹ kể về những câu chuyện lịch sử hào hùng và những truyền thuyết kỳ thú. Trong số đó, Thánh Gióng – vị anh hùng dân tộc – luôn là hình tượng khiến ta ngưỡng mộ và tự hào. Truyền thuyết Thánh Gióng không chỉ là câu chuyện ly kỳ mà còn là biểu tượng của sức mạnh và ý chí bảo vệ đất nước.
Truyền thuyết kể rằng: Vào đời vua Hùng thứ sáu, tại một ngôi làng ven sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng mãi chưa có con. Một ngày nọ, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân khổng lồ, liền đặt chân mình lên ướm thử. Kỳ lạ thay, bà mang thai và sau mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ là Gióng lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ, khiến cha mẹ vô cùng lo lắng.
Cũng năm ấy, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta, gây ra bao cảnh tang thương, đau khổ. Trước thế giặc mạnh, vua Hùng sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi qua làng của Gióng, nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Bà mẹ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, vội mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua chuẩn bị ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để cậu ra trận đánh giặc.
Sau khi sứ giả rời đi, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc đã chật. Mẹ cậu không đủ sức nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của hàng xóm. Ai nấy đều vui mừng, ngày đêm nấu cơm, may áo, chuẩn bị mọi thứ cho Gióng, hy vọng cậu sớm ra trận giết giặc, cứu nước.
Khi giặc Ân tiến sát chân núi Trâu, sứ giả cũng kịp mang vũ khí đến. Gióng vươn vai đứng dậy, trở thành một tráng sĩ oai phong, mặc áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa, lao vút ra chiến trường.
Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, đánh giặc như chẻ tre. Khi roi sắt gãy, cậu nhổ tre bên đường làm vũ khí. Giặc sợ hãi bỏ chạy, dẫm đạp lên nhau mà chết. Sau khi dẹp tan giặc, Gióng phi ngựa lên núi Sóc, cởi áo giáp, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua Hùng phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ để ghi nhớ công ơn. Người ta kể rằng, ngựa sắt của Gióng thét ra lửa, thiêu rụi cả một làng, nay gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống đất đã trở thành ao hồ, minh chứng cho chiến công oanh liệt của người anh hùng.
Truyền thuyết Thánh Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và ý chí bảo vệ đất nước. Câu chuyện được lưu truyền qua bao thế hệ, nhắc nhở chúng ta về tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 2

Dưới thời vua Hùng thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão hiền lành nhưng mãi chưa có con. Một ngày, bà lão ra đồng, thấy những vết chân lạ, liền đặt chân mình lên ướm thử. Kỳ lạ thay, bà mang thai và sau mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, cậu bé vẫn không biết đi đứng, cười nói, chỉ nằm yên một chỗ.
Khi giặc Ân xâm lược, vua Hùng sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Nghe tiếng rao, cậu bé bỗng cất tiếng nói, nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả về tâu với vua chuẩn bị ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để cậu ra trận đánh giặc. Từ đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, khiến dân làng phải cùng nhau góp gạo nuôi cậu.
Khi nhận đủ vũ khí từ vua, cậu bé vươn vai, trở thành một tráng sĩ oai phong. Chàng mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa và lao ra chiến trường. Ngựa phun lửa, xông thẳng vào đội hình giặc, khiến chúng ngã chết như rạ.
Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí. Giặc sợ hãi bỏ chạy, dẫm đạp lên nhau mà chết. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.
Vua Hùng nhớ ơn, phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Hàng năm, vào tháng tư, lễ hội Gióng được tổ chức tưng bừng, thu hút người dân khắp nơi về tham dự, tưởng nhớ công ơn của người anh hùng.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4 - Mẫu 3
Vào đời vua Hùng thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng phúc đức, nhưng mãi chưa có con. Một ngày nọ, bà lão ra đồng, thấy một vết chân khổng lồ, liền đặt chân mình lên ướm thử. Kỳ lạ thay, bà mang thai và sau mười hai tháng sinh ra một cậu bé khôi ngô. Tuy nhiên, cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ, khiến hai vợ chồng vô cùng lo lắng.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta, gây ra bao cảnh tang thương. Vua Hùng lo lắng, sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi nghe tiếng loa của sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu bé yêu cầu: “Ông về tâu với vua, chuẩn bị cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả kinh ngạc nhưng vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua đồng ý và sai người ngày đêm làm đủ những thứ cậu bé yêu cầu.
Từ ngày gặp sứ giả, cậu bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng không đủ nuôi con. Bà con hàng xóm thấy vậy, liền cùng nhau góp gạo, góp sức nuôi cậu bé.
Khi giặc Ân tiến đến chân núi Trâu, tình thế đất nước vô cùng nguy cấp. Đúng lúc đó, sứ giả mang đủ vũ khí đến. Cậu bé vươn vai, trong phút chốc trở thành một tráng sĩ oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa. Ngựa hí vang, phun lửa xông thẳng vào quân giặc. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre bên đường làm vũ khí. Giặc sợ hãi, tan vỡ, đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Sóc, rồi cởi áo giáp, cùng ngựa bay lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng, vua Hùng phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ ngay tại quê nhà.
......
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5: Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy
Đề bài: Kể lại truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy" bằng lời kể của em
Dàn ý bài viết số 1 lớp 6 đề 5

I. Mở bài:
- Giới thiệu thời gian xảy ra câu chuyện: ngày xưa, đời Hùng Vương thứ sáu.
II. Thân bài
1. Vua Hùng Vương bày cuộc thi.
- Vua đã già, muốn chọn người con xứng đáng để truyền ngôi.
- Vua truyền gọi các con.
+ Ngôi vua đã truyền được sáu đời.
+ Người nối vua phải nối chí vua.
+ Ai làm cỗ lễ Tiên Vương vừa ý, sẽ được nối ngôi.
- Các con thay nhau làm cỗ quý, hy vọng ngôi báu về mình.
2. Lang Liêu làm cỗ
- Lang Liêu là con thứ 18, mồ côi mẹ, chăm lo đồng áng, không biết lấy gì để làm cỗ quý.
- Thần báo mộng: không có gì quý bằng gạo, hãy lấy gạo làm bánh.
- Lang Liêu lấy gạo làm hai loại bánh, một loại dùng gạo nếp, nhân đậu xanh và thịt, bọc lá, hình vuông, nấu kỹ, một loại dùng gạo nếp đồ chín, giã nhuyễn, hình tròn.
3. Lang Liêu được chọn nối ngôi cha.
- Ngày lễ Tiên Vương, các quan lang mang đến các thứ cỗ quý, chẳng thiếu thứ gì.
- Vua Hùng xem bánh của Lang Liêu. Lang Liêu kể lại lời thần dạy. Vua chọn hai thứ bánh đó để cúng Trời Đất và Tiên Vương.
- Lễ xong, đem bánh ra ăn cùng quần thần.
- Vua nói: Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất. Lang Liêu sẽ được nối ngôi.
III. Kết luận
- Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi:
- Bánh chưng, bánh giày không thể thiếu trong ngày tết.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 1
Bập bùng… Bập bùng…. Ngọn lửa bùng lên bên nồi bánh chưng. Lửa mang hơi xuân khe khẽ len vào từng con ngõ nhỏ. Lửa mang sức xuân bung nở hoa đào, hoa mai. Và ngọn lửa chờn vờn như đang khơi dậy những hồi ức, hồi ức về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Chuyện xảy ra cũng từ rất lâu rồi. Vua Hùng Vương đời thứ sáu muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng Vua bèn gọi các con lại và nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân đã xâm lấn bờ cõi của chúng ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, nhân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thiên hạ hưởng hạnh phúc, bình yên. Nay ta đã già rồi, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:
– Lang Liêu! Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.
Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.
Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, trước sân cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các làng lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu và rất ngạc nhiên. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể việc được thần báo mộng. Vua cha nói:
– Bánh này hình vuông, tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bao bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.
Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần xung quanh để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vua hiền minh.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và cũng từ đấy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy đã ca ngợi các vua Hùng có công dựng nước và giải thích cho chúng ta về phong tục làm bánh chưng, bánh giầy.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 2
Bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh được dùng nhiều nhất vào đầu năm mới. Ai cũng làm, hay là mua bánh để cúng ông bà tổ tiên, để đãi nhau, thưởng thức hương vị ngày Tết. Có thể thấy, hai loại bánh này rất nổi tiếng và mang hương vị, văn hóa của người Việt Nam. Chắc chắn rằng, khi mọi người đọc cổ tích cũng biết ngay đến chuyện bánh chưng, bánh giầy
Từ thời rất xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, sau khi đuổi được giặc Ân ra bờ cõi nước ta, vua Hùng có ý định truyền ngai vàng cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp đầu năm mới, khi mọi thứ đang tưng bừng sức sống, tràn ngập sắc xuân, vua gọi các hoàng tử đến và bảo rằng:
“Trong các con,ai tìm được thức ăn ngon để bày ra một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa và ấm cúng thì ta sẽ truyền lại ngôi vua cho người đó.” Và cuộc thi đã thật sự bắt đầu, các hoàng tử ai ai cũng đều đua nhau tìm kiếm khắp nơi những thức ăn ngon nhất, lạ nhất để dâng lên vua Hùng với mong muốn rằng, món của mình sẽ là món ăn ngon nhất, lạ và ý nghĩa nhất. Lang Liêu là hoàng tử thứ mười tám trong tất cả các hoàng tử và chàng là người con duy nhất có đức tính hiền lành, hiếu thảo. Vì mẹ hoàng tử Lang Liêu qua đời sớm nên hoàng tử thiếu người chỉ dạy, vì vậy chàng rất lo lắng không biết làm thế nào để có được một món ăn ngon và ý nghĩa vào ngày Tết.
Hoàng tử rất buồn và lo lắng. Một hôm, Lang Liêu đang nằm ngủ mơ màng, trong giấc mơ hoàng tử thấy một vị thần xuất hiện và bảo rằng:
“Này con, trong trời đất này thì không có gì quý bằng gạo cả, gạo chính là thức ăn để nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp thật ngon, làm thành những chiếc bánh hình tròn và hình vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời còn hình vuông để tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, làm nhân đặt trong ruột bánh để tượng trưng cho sự sinh thành của cha mẹ.”
Hoàng tử tỉnh dậy, không tin vào giấc mơ hạnh phúc. Chàng mừng rỡ, vì đã được thần linh giúp đỡ mình. Hoàng tử làm theo lời vị thần dặn, chọn gạo nếp thật ngon để làm bánh vuông, đó là bánh chưng. Hoàng tử lấy xôi nếp giã nhuyễn, nặn lại thành hình tròn đó là bánh giầy. Lá xanh bọc ngoài, che chở cho bánh, tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ.
Ngày hẹn đã đến, các hoàng tử ai nấy cũng đều mang những sơn hào hải vị tìm khắp cả nước để dâng lên vua. Đến lượt Lang Liêu, chỉ có hai loại bánh là bánh chưng và bánh giầy được làm từ gạo nếp, nó không phải là sơn hào hải vị gì cả. Vua Hùng rất ngạc nhiên, Lang Liêu kể về giấc mơ và giải thích ý nghĩa cho vua cha nghe. Vua thấy rất ngon và có ý nghĩa nên nhường lại ngai vàng cho Lang Liêu.
Và kể từ đó món bánh chưng bánh giầy ra đời, cứ dịp Tết đến xuân về thì không bao giờ thiếu hai loại bánh này.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5 - Mẫu 3

Mỗi khi Tết đến xuân về, mâm cỗ nhà nào cũng có bánh chưng, bánh giầy. Nhưng các bạn có bao giờ hỏi về nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy? Vì sao khi Tết đến mọi người lại làm hai thứ bánh này. Tôi kể các bạn nghe nhé.
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có tới hơn hai mươi người con trai. Không biết chọn ai, vua bèn gọi các con đến bảo
– Tổ tiên ta từ khi dựng nước Văn Lang đã truyền được sáu đời. Nay ta đã già, ta muốn truyền lại ngôi cho một trong số các con. Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân ngày lễ của Thiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các lang ai cũng muốn ngôi báu thuộc về mình nhưng ý vua thế nào thì không ai biết. Họ chỉ biết soạn cỗ thật ngon, thật hậu lễ Tiên Vương. Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám. Trước đây, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh, ốm nặng rồi qua đời sớm. Trong các anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Vốn chăm chỉ, siêng năng, hiền từ nên, từ khi trưởng thành, chàng đã ra ở riêng, suốt ngày chú tâm vào đồng áng. Trong nhà chàng chỉ có khoai với lúa là nhiều. Nhưng khoai lúa thì tầm thường quá.
Một đêm, sau buổi làm đồng nặng nhọc, mệt quá, chàng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, chàng nhìn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, đến bên chàng, hiền từ cười nói:
– Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và khiến ta không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, tuy hiếm nhưng con người không làm ra được. Hãy lấy gạo làm bánh lễ Tiên Vương.
Sáng sớm tỉnh dậy, càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng. Chàng bèn khéo léo chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, đem vo thật sạch rồi lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, lấy lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, vẫn thứ gạo ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các làng đua nhau khoe sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Thấy lạ, vua cho vời Lang Liêu lên hỏi. Lang Liêu kể hết mọi chuyện cho vua cha nghe. Ngẫm nghĩ một lát, vua lấy bánh của Lang Liêu đem lễ Tiên Vương.
Lễ xong, vua cho mọi người thụ lộc, ai cũng khen ngon. Nhà vua nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta gọi là bánh giầy, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta gọi là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị bên trong ngụ ý đùm bọc yêu thương nhau. Lang Liêu đã làm đúng ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu. Xin Tiên Vương chứng giám.
Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy.
Nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy là thế đấy các bạn ạ. Câu chuyện tôi kể không chỉ nói về nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy mà còn đề cao nghề nông và sự tôn kính đối với tổ tiên của nhân dân ta ngay từ buổi đầu dựng nước.
.....
- Đọc hiểu: Mùa hoa phố Hội - Bài 8, Tiếng Việt lớp 4 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Hướng dẫn viết bài văn miêu tả cây cối - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tập 2 Bài 2
- Viết đoạn kết bài cho bài văn miêu tả cây cối - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 2 Bài 6
- Soạn bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Ngữ văn lớp 10 trang 74 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Bộ 15 đề ôn thi học kì 2 môn Ngữ văn lớp 7 theo sách Kết nối tri thức với cuộc sống, kèm đáp án chi tiết, giúp học sinh ôn tập hiệu quả.