Tuyển tập 24 bài văn mẫu kể lại truyền thuyết dành cho học sinh lớp 6
EduTOPS mang đến tài liệu Bài văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyền thuyết, hướng dẫn chi tiết cách kể lại các truyền thuyết một cách sinh động và hấp dẫn.

Nội dung gồm 24 đoạn văn mẫu lớp 6, kể lại những truyền thuyết nổi tiếng. Hãy khám phá ngay những câu chuyện đầy màu sắc và ý nghĩa sau đây.
Hướng dẫn viết bài văn kể lại truyền thuyết lớp 6 ngắn gọn và súc tích
Mẫu số 1
Ngày xưa, tại một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng sống rất hiền lành và chăm chỉ, nhưng đến tuổi ngoài năm mươi vẫn chưa có con. Một hôm, bà vợ vào rừng hái củi, vì khát nước mà không tìm được suối, bà bỗng thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước mưa dưới gốc cây. Bà liền uống nước từ sọ dừa ấy. Về nhà, bà mang thai và sinh ra một đứa bé không chân không tay, tròn như quả dừa. Đứa bé nói với bà rằng mình là người, nên bà quyết định nuôi nấng và đặt tên là Sọ Dừa. Khi lớn lên, Sọ Dừa xin đi chăn bò thuê cho nhà phú ông. Đến mùa gặt, ba cô con gái của phú ông thay phiên nhau mang cơm cho chàng. Hai cô chị tỏ ra khinh thường, chỉ có cô út đối xử tử tế với Sọ Dừa. Cuối mùa, Sọ Dừa xin mẹ mang lễ vật đến hỏi cưới cô út. Dù phú ông thách cưới rất nặng, nhưng đến ngày hẹn, nhà Sọ Dừa bỗng xuất hiện đầy đủ lễ vật. Trong đám cưới, Sọ Dừa hóa thành chàng trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng sống hạnh phúc, và Sọ Dừa đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để phòng thân. Hai cô chị ghen tị, bày mưu đẩy em gái xuống biển, nhưng nhờ những vật Sọ Dừa để lại, cô út thoát chết và đoàn tụ với chồng. Hai cô chị xấu hổ bỏ trốn biệt xứ.
Mẫu số 2
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng sống chăm chỉ, hiền lành và tốt bụng. Một hôm, người vợ ra đồng, bắt gặp một vết chân khổng lồ. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, về nhà bà mang thai và sau mười hai tháng, sinh ra một cậu bé. Tuy nhiên, cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cười. Khi giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây, con có chuyện cần thưa”. Sứ giả vào nhà, cậu bé liền yêu cầu: “Xin nhà vua sắm cho tôi một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, tôi sẽ đánh tan giặc”. Sứ giả vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lập tức trở về tâu với vua. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu cũng không vừa. Dân làng cùng nhau góp gạo thóc nuôi cậu, mong cậu giết giặc cứu nước. Khi giặc đến chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vươn vai hóa thành tráng sĩ, mặc áo giáp, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra trận. Giặc chết như rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre bên đường đánh giặc. Giặc tan vỡ, tàn quân bỏ chạy. Sau đó, tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp và bay về trời. Vua lập đền thờ, phong là Phù Đổng Thiên Vương. Đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà bị cháy vàng vì ngựa phun lửa, và những vết chân ngựa nay thành ao hồ. Làng Cháy được đặt tên từ việc ngựa thét lửa thiêu rụi cả làng.
Mẫu số 3
Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng không chỉ xinh đẹp tuyệt trần mà còn có tính cách dịu dàng, nết na, khiến ai cũng yêu mến.
Vì yêu thương con gái hết mực, nhà vua muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng. Một ngày nọ, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người là Sơn Tinh, chúa tể của núi non, người kia là Thủy Tinh, chúa tể của biển cả. Cả hai đều tài giỏi phi thường: Sơn Tinh có thể dựng núi, tạo đồi chỉ bằng một cái vẫy tay, còn Thủy Tinh có khả năng điều khiển gió mưa theo ý muốn.
Nhà vua vô cùng bối rối, không biết chọn ai, nên đã triệu tập các Lạc hầu để bàn bạc. Cuối cùng, vua quyết định: ai mang lễ vật đến trước vào ngày hôm sau sẽ được cưới Mị Nương. Lễ vật bao gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, cùng voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đầy đủ lễ vật đến trước và cưới được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, liền nổi giận dữ dội. Thần Nước dẫn quân đuổi theo, quyết cướp Mị Nương bằng mọi giá. Hai bên giao chiến ác liệt suốt nhiều tháng trời. Cuối cùng, Sơn Tinh vẫn đứng vững, còn Thủy Tinh kiệt sức, buộc phải rút quân.
Từ đó, hàng năm, Thủy Tinh lại dâng nước, gây mưa bão để đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào, Thần Nước cũng thất bại trước sự kiên cường của Thần Núi. Mối thù này kéo dài qua năm tháng, nhưng Sơn Tinh luôn là người chiến thắng.
Mẫu số 4
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho một trong hai mươi người con trai của mình. Tuy nhiên, ngai vàng chỉ có thể trao cho một người xứng đáng nhất.
Nhà vua yêu cầu các hoàng tử chuẩn bị mâm lễ vật để cúng Trời Đất và tổ tiên. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm sơn hào hải vị, hy vọng lấy lòng vua cha. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại lo lắng không biết nên làm gì. Một đêm, chàng nằm mộng thấy thần hiện ra bảo rằng hãy dùng gạo nếp để làm bánh hình tròn và hình vuông, bọc lá xanh bên ngoài và đặt nhân bên trong.
Tỉnh dậy, Lang Liêu liền chọn loại gạo nếp thơm ngon, trắng tinh, hạt nào hạt nấy đều tròn đầy. Chàng vo gạo thật sạch, dùng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, gói bánh bằng lá dong thành hình vuông, rồi nấu chín trong một ngày một đêm. Để đổi mới, chàng cũng dùng gạo nếp đồ lên, giã nhuyễn và nặn thành bánh hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử mang đến vô số sơn hào hải vị. Vua Hùng xem qua tất cả, rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu. Vua rất hài lòng và gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mộng gặp thần, giải thích về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Nhà vua suy ngẫm rồi quyết định chọn hai loại bánh này để dâng lên Trời Đất và Tiên Vương. Cuối cùng, Lang Liêu được truyền ngôi.
Từ đó, người dân nước ta chú trọng nghề trồng trọt. Hàng năm, vào dịp Tết, mọi nhà đều làm bánh chưng và bánh giầy để dâng cúng trời đất, tổ tiên.
Kể lại truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm - Câu chuyện lịch sử đầy ý nghĩa
Bài văn mẫu số 1
Tương truyền, vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng chăm chỉ, hiền lành và phúc đức. Dù đã lớn tuổi, họ vẫn chưa có con. Một hôm, bà vợ ra đồng và nhìn thấy một vết chân khổng lồ. Tò mò, bà đặt chân mình lên ướm thử. Về nhà, bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô. Tuy nhiên, cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cười, chỉ ngồi yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, khiến nhà vua lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu liền yêu cầu: “Xin nhà vua sắm cho tôi một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, tôi sẽ đánh tan giặc”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lập tức trở về tâu với vua.
Từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no. Hai vợ chồng không đủ sức nuôi con, phải nhờ cậy bà con hàng xóm. Mọi người đều vui vẻ giúp đỡ, hy vọng cậu bé sẽ cứu nước.
Khi giặc đến chân núi Trâu, tình thế nước ta rất nguy cấp. Đúng lúc đó, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé bỗng vươn vai hóa thành tráng sĩ, mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ phi thẳng vào trận địa. Giặc chết như rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre bên đường đánh giặc. Giặc tan vỡ, tàn quân bỏ chạy.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp và bay về trời. Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà.
Ngày nay, đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình bị cháy vàng vì ngựa phun lửa, và những vết chân ngựa nay thành ao hồ. Làng Cháy được đặt tên từ việc ngựa thét lửa thiêu rụi cả làng.
Bài văn mẫu số 2
Lúc bấy giờ, giặc Minh xâm lược nước ta, bóc lột nhân dân đến tận xương tủy. Tại vùng núi Lam Sơn, Lê Lợi đã tập hợp nghĩa quân, ngày đêm rèn luyện để chờ thời cơ đánh giặc. Tuy nhiên, do lực lượng còn non yếu, nghĩa quân gặp nhiều khó khăn trong những ngày đầu kháng chiến.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa có một người tên Lê Thận làm nghề đánh cá. Một lần, khi kéo lưới, Lê Thận thấy nặng tưởng bắt được cá lớn, nhưng khi vớt lên chỉ thấy một thanh sắt. Ông vứt thanh sắt xuống sông, nhưng ba lần liên tiếp đều kéo lên được thanh sắt ấy. Thấy kỳ lạ, Lê Thận quyết định đem thanh sắt về nhà.
Sau đó, Lê Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, chiến đấu dũng cảm. Một hôm, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Lê Thận. Bỗng nhiên, Lê Lợi thấy ánh sáng lóe lên từ góc nhà. Ông tiến lại gần và nhặt lên một thanh gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Trong một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi đi qua khu rừng và nhặt được một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra thử thì vừa khít như in.
Nhờ thanh gươm thần, nghĩa quân của Lê Lợi đánh đâu thắng đó, thanh thế vang xa. Quân Minh bị đánh tan, Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ.
Một ngày nọ, nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi thuyền trên hồ Tả Vọng. Bỗng nhiên, một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước, không hề sợ người. Rùa Vàng nói với vua:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Nghe xong, nhà vua liền đem gươm báu trả lại và nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).
Bài văn mẫu số 3
Giặc Minh xâm lược nước ta, đối xử với nhân dân như cỏ rác, bóc lột đến tận xương tủy. Lòng dân tràn đầy oán hận. Lúc bấy giờ, nghĩa quân Lam Sơn nổi dậy, nhưng trong buổi đầu, lực lượng còn non yếu, thiếu thốn đủ bề nên liên tiếp gặp thất bại.
Thấy tình cảnh đó, đức Long Quân quyết định cho mượn gươm thần để giúp nghĩa quân đánh giặc. Ở Thanh Hóa, có một người tên Lê Thận làm nghề đánh cá. Một lần, khi kéo lưới, Lê Thận thấy nặng tưởng bắt được cá lớn, nhưng khi vớt lên chỉ thấy một thanh sắt. Ông vứt thanh sắt xuống sông, nhưng ba lần liên tiếp đều kéo lên được thanh sắt ấy. Thấy kỳ lạ, Lê Thận quyết định đem thanh sắt về nhà. Sau đó, ông gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, chiến đấu dũng cảm. Một hôm, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Lê Thận. Bỗng nhiên, Lê Lợi thấy ánh sáng lóe lên từ góc nhà. Ông tiến lại gần và nhặt lên một thanh gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Tuy nhiên, lúc đó, không ai nghĩ rằng đó là một lưỡi gươm thần.
Một lần, khi bị giặc phục kích, Lê Lợi và các tướng phải rút lui mỗi người một ngả. Trên đường đi, Lê Lợi đi ngang qua một khu rừng và thấy ánh sáng lấp lánh trên ngọn cây đa. Ông trèo lên và phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra thử thì vừa khít như in.
Nhờ thanh gươm thần, nghĩa quân Lam Sơn đánh đâu thắng đó, thanh thế vang xa. Quân Minh bị đánh tan, Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ.
Một ngày nọ, nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi thuyền trên hồ Tả Vọng. Bỗng nhiên, một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước, không hề sợ người. Rùa Vàng nói với vua:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Nghe xong, nhà vua liền đem gươm báu trả lại và nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).
Bài văn mẫu số 4
Vào thời giặc Minh xâm lược nước ta, chúng đối xử với nhân dân như cỏ rác, gây ra nhiều tội ác tày trời. Lúc bấy giờ, tại vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại quân xâm lược, nhưng trong buổi đầu, lực lượng còn non yếu nên liên tiếp gặp thất bại. Thấy tình cảnh đó, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để tiêu diệt giặc.
Hồi ấy, ở Thanh Hóa, có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như thường lệ. Khi kéo lưới lên, ông thấy nặng tưởng bắt được mẻ cá lớn, nhưng khi thò tay vào chỉ thấy một thanh sắt. Ông vứt thanh sắt xuống sông, rồi thả lưới ở chỗ khác. Kỳ lạ thay, ba lần liên tiếp đều vớt được thanh sắt ấy. Thận liền đưa thanh sắt lại mồi lửa và phát hiện đó là một thanh gươm.
Sau đó, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Thận. Bỗng nhiên, Lê Lợi thấy ánh sáng lóe lên từ góc nhà. Ông tiến lại gần và nhặt lên một thanh gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Tuy nhiên, lúc đó, không ai nghĩ rằng đó là một lưỡi gươm thần.
Một hôm, khi bị giặc truy đuổi, Lê Lợi và các tướng phải rút lui mỗi người một ngả. Trên đường đi, Lê Lợi đi ngang qua một khu rừng và thấy ánh sáng lấp lánh trên ngọn cây đa. Ông trèo lên và phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về tra thử thì vừa khít như in.
Nhờ thanh gươm thần, nghĩa quân Lam Sơn đánh đâu thắng đó, thanh thế vang xa. Quân Minh bị đánh tan, Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ. Một ngày nọ, nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi thuyền trên hồ Tả Vọng. Bỗng nhiên, một con Rùa Vàng nổi lên mặt nước và nói:
- Việc lớn đã thành. Xin bệ hạ trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Nghe xong, Lê Lợi liền đem gươm báu trả lại và nói:
- Xin cảm tạ ngài cùng đức Long Quân đã cho mượn gươm báu để đánh tan quân giặc, bảo vệ nước nhà.
Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Bài văn mẫu số 5
Bấy giờ, giặc Minh đô hộ nước ta, đối xử với nhân dân như cỏ rác, bóc lột đến tận xương tủy. Lòng dân tràn đầy căm phẫn. Tại vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy chống lại quân xâm lược, nhưng trong buổi đầu, lực lượng còn non yếu, thiếu thốn đủ bề nên liên tiếp gặp thất bại. Thấy tình cảnh đó, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để tiêu diệt giặc.
Ở Thanh Hóa, có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận đi thả lưới như thường lệ. Khi kéo lưới lên, ông thấy nặng tưởng bắt được mẻ cá lớn, nhưng khi thò tay vào chỉ thấy một thanh sắt. Ông vứt thanh sắt xuống sông, rồi thả lưới ở chỗ khác.
Đến lần thứ hai, Thận lại thấy lưới nặng tay, không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới. Ông lại ném xuống sông. Lần thứ ba, vẫn thanh sắt ấy mắc vào lưới. Thấy lạ, Thận đưa thanh sắt lại cạnh mồi lửa để xem xét. Ông reo lên:
- Thì ra là một lưỡi gươm!
Sau này, Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tùng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Tuy nhiên, lúc đó, không ai biết rằng đó là một lưỡi gươm thần.
Đến một lần nọ, khi bị giặc phục kích, Lê Lợi và các tướng phải rút lui mỗi người một ngả. Trên đường đi, ông đi ngang qua một khu rừng và thấy ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Lê Lợi trèo lên và phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông rút lấy chuôi giắt vào lưng.
Mấy ngày sau, Lê Lợi gặp lại mọi người, trong đó có Lê Thận. Lê Lợi kể lại chuyện chuôi gươm cho họ nghe. Rồi ông đem chuôi gươm tra vào lưỡi gươm thì vừa khít như in.
Lê Thận quỳ xuống, nâng gươm lên và nói:
- Đây là ý Trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đi theo minh công, cùng với thanh gươm này để báo đền Tổ quốc.
Kể từ khi có thanh gươm quý, nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng tăng cao. Quân Minh liên tiếp thất bại. Đất nước giành lại độc lập. Chủ tướng Lê Lợi lên ngôi vua.
Một năm sau, nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng. Đức Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm báu. Rùa Vàng không hề sợ người, nhô đầu lên cao và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!”.
Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Rùa liền há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng - Huyền thoại về người anh hùng dân tộc
Bài văn mẫu số 5
Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng không chỉ xinh đẹp tuyệt trần mà còn có tính cách dịu dàng, nết na. Nhà vua muốn tìm cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một hôm, hai chàng trai đến cầu hôn. Người đến từ vùng núi Tản Viên tự xưng là Sơn Tinh. Chàng có tài lạ: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người còn lại đến từ vùng biển, tài năng cũng không kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Cả hai đều tài giỏi khiến vua phân vân, liền cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc.
Sau đó, nhà vua liền cho gọi cả hai vào và phán:
- Hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.
Hai chàng nghe xong, liền hỏi nhà vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng nói:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh trở về chuẩn bị lễ vật. Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước. Nhà vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân theo đánh Sơn Tinh, quyết cướp Mị Nương về.
Thần Nước hô mưa, gọi gió, tạo thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước dâng cao làm ngập khắp đồng ruộng, nhà cửa. Thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên biển nước. Dân chúng vô cùng khổ cực. Sơn Tinh thấy vậy vẫn không hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Trận chiến kéo dài suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, Thủy Tinh sức cùng lực kiệt, còn Sơn Tinh vẫn vững vàng. Thần Nước phải cho rút quân về. Từ đó, oán nặng thù sâu. Năm nào, Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng luôn thua trận.
Bài văn mẫu số 1
Đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng nọ. Họ sống hiền lành, phúc đức, nhưng dù tuổi đã cao vẫn chưa có con.
Một lần, người vợ ra đồng và nhìn thấy một vết chân to. Bà đặt chân mình vào ướm thử. Không ngờ, về nhà bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Lạ thay, cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, liền nói với mẹ:
- Mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé nói:
- Ông hãy về tâu với đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lập tức trở về tâu với vua. Nhà vua cho truyền thợ rèn ngày đêm làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu, phải nhờ cậy bà con làng xóm. Mọi người đều vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh giặc cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lâm nguy. Đúng lúc đó, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ. Mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ cưỡi ngựa phi thẳng vào trận địa, đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Giặc chết như rạ. Bỗng nhiên, roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, bỏ chạy. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Trâu. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng già sống ở làng Gióng. Họ nổi tiếng hiền lành, đôn hậu nhưng không may mắn vì chưa có con. Một ngày, bà lão ra đồng và thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đặt chân mình vào ướm thử. Thời gian trôi qua, bà quên đi dấu chân ấy, nhưng rồi bỗng nhiên mang thai. Bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú, nhưng lạ thay, cậu bé không biết nói, không biết cười, cũng không biết đi, chỉ nằm yên một chỗ. Hai ông bà từ mừng rỡ chuyển sang lo lắng, không hiểu vì sao con mình lại như vậy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, khiến đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Tình cảnh đất nước như “nghìn cân treo sợi tóc”. Nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con”. Hai ông bà vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ, liền mời sứ giả vào nhà.
Khi sứ giả vào, cậu bé yêu cầu nhà vua chuẩn bị ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt để đánh giặc. Sứ giả vội về tâu lên nhà vua, và nhà vua đồng ý ngay. Từ khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật. Cậu bé chẳng bao lâu đã trở thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.
Chẳng bao lâu, nhà vua sai người mang đến đủ những thứ Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lên đường đánh giặc ngay. Cậu đi đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi kiếm gãy, Gióng nhổ một bụi tre bên đường, quật ngã bọn giặc. Cuối cùng, ngựa của Thánh Gióng đến chân núi Sóc Sơn, cậu cởi bỏ áo giáp và bay thẳng lên trời.
Để tưởng nhớ công lao của Thánh Gióng, nhà vua cho lập đền thờ tại quê nhà làng Gióng. Đến nay, nhiều dấu tích vẫn còn lưu lại. Hằng năm, vào tháng 4, người dân vẫn đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.
Bài văn mẫu số 3
Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong ước có một đứa con. Một hôm, người vợ ra đồng và thấy một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Không ngờ, về nhà bà mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé. Nhưng kỳ lạ thay, cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, bỗng cất tiếng nói:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé liền bảo:
- Ông hãy về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ phá tan lũ giặc này.
Kỳ lạ hơn, từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp sức của bà con hàng xóm. Mọi người đều vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu bé đánh giặc cứu nước.
Giặc đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, đúng lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre bên đường quật vào quân giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.
Đến đây, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay, đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, phúc đức. Họ đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ ra đồng và thấy một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Đến tháng mười hai, bà sinh ra một cậu bé. Lên ba tuổi, cậu vẫn không biết nói, biết cười.
Thuở đó, giặc Ân xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong vô cùng ngạc nhiên, vội vã trở về kinh. Nhà vua nghe xong liền cho thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm. Mọi người đều vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh tan quân giặc.
Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước đã rất nguy. Đúng lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng, rồi phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng hốt bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Lúc này, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên núi. Đến đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn, nhà vua đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, phúc đức. Họ đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ ra đồng và thấy một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Đến tháng mười hai, bà sinh ra một cậu bé. Lên ba tuổi, cậu vẫn không biết nói, biết cười.
Thuở đó, giặc Ân xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong vô cùng ngạc nhiên, vội vã trở về kinh. Nhà vua nghe xong liền cho thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm. Mọi người đều vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh tan quân giặc.
Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước đã rất nguy. Đúng lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng, rồi phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng hốt bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Lúc này, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên núi. Đến đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn, nhà vua đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh - Cuộc chiến giữa núi và biển
Bài văn mẫu số 1
Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng không chỉ xinh đẹp tuyệt trần mà còn có tính cách dịu dàng, nết na. Nhà vua muốn tìm cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một hôm, hai chàng trai đến cầu hôn. Người đến từ vùng núi Tản Viên tự xưng là Sơn Tinh. Chàng có tài lạ: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người còn lại đến từ vùng biển, tài năng cũng không kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Cả hai đều tài giỏi khiến vua phân vân, liền cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc.
Sau đó, nhà vua liền cho gọi cả hai vào và phán:
- Hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.
Hai chàng nghe xong, liền hỏi nhà vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng nói:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh trở về chuẩn bị lễ vật. Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước. Nhà vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân theo đánh Sơn Tinh, quyết cướp Mị Nương về.
Thần Nước hô mưa, gọi gió, tạo thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước dâng cao làm ngập khắp đồng ruộng, nhà cửa. Thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên biển nước. Dân chúng vô cùng khổ cực. Sơn Tinh thấy vậy vẫn không hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Trận chiến kéo dài suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, Thủy Tinh sức cùng lực kiệt, còn Sơn Tinh vẫn vững vàng. Thần Nước phải cho rút quân về. Từ đó, oán nặng thù sâu. Năm nào, Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng luôn thua trận.
Bài văn mẫu số 2
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng tên là Thủy Tinh. Cả hai đều ngang sức ngang tài khiến vua vô cùng khó xử, không biết chọn ai. Vua bèn cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc, rồi gọi hai chàng vào và nói:
- Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.
Cả hai nghe xong, liền hỏi đồ sính lễ gồm những gì. Vua Hùng liền nói:
- Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua hài lòng, quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đánh Sơn Tinh. Thần hô mưa, gọi gió, tạo thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp đồng ruộng, nhà cửa, dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên biển nước. Nhưng Sơn Tinh chẳng hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Cả hai đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng, còn sức Thủy Tinh đã cạn kiệt. Thần nước đành rút quân. Từ đó, oán nặng thù sâu, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào, Thủy Tinh cũng đều thất bại nặng nề.
Bài văn mẫu số 3
Vua Hùng thứ mười tám có một cô con gái tên là Mị Nương, nhan sắc rực rỡ như đóa hoa mới nở, tính cách dịu dàng, đằm thắm. Vì quá yêu quý con gái, nhà vua quyết tâm tìm cho nàng một người chồng tài đức vẹn toàn nên đã tổ chức lễ kén rể.
Nghe tin vua Hùng kén rể, hai chàng trai tài ba đã đến cầu hôn. Một người đến từ núi Tản Viên, có tài năng phi thường: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông liền nổi lên cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên những dãy núi đồi hùng vĩ. Chàng được mọi người gọi là Sơn Tinh. Người còn lại cũng tài năng không kém: chỉ cần gọi gió, gió liền đến; hô mưa, mưa liền về. Chàng tên là Thủy Tinh.
Cả hai chàng trai đều xuất chúng, khiến vua Hùng không biết nên chọn ai. Cuối cùng, nhà vua đưa ra quyết định:
- Cả hai ngươi đều khiến ta hài lòng. Vậy nên, ngày mai ai mang sính lễ đến trước sẽ được rước Mị Nương về. Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đầy đủ lễ vật đến trước và rước được Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, liền nổi giận, dẫn quân tấn công Sơn Tinh. Thủy Tinh gọi gió, hô mưa, tạo nên cơn bão dữ dội làm rung chuyển đất trời. Nước lũ dâng cao, nhấn chìm đồng ruộng, nhà cửa, thậm chí cả thành Phong Châu cũng chìm trong biển nước. Trước tình cảnh đó, Sơn Tinh bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi để ngăn chặn dòng nước lũ.
Hai bên giao chiến suốt nhiều tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn đứng vững, trong khi sức lực của Thủy Tinh dần cạn kiệt. Thần nước đành rút quân, nhưng lòng oán hận ngày càng sâu nặng. Từ đó, hàng năm Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại.
Bài văn mẫu số 4
Ngày xưa, vào thời đại Hùng Vương thứ mười tám, nhà vua có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng sở hữu nhan sắc tuyệt trần, tựa như đóa hoa khoe sắc giữa đất trời, tính cách dịu dàng, đằm thắm. Vì quá yêu thương con gái, vua Hùng quyết tâm tìm cho nàng một người chồng tài đức vẹn toàn.
Một ngày nọ, hai chàng trai tài ba đến cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, sở hữu tài năng phi thường: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông liền nổi lên cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên những dãy núi đồi hùng vĩ. Chàng được mọi người gọi là Sơn Tinh. Người còn lại đến từ vùng biển, tài năng cũng không kém phần xuất chúng: chỉ cần gọi gió, gió liền đến; hô mưa, mưa liền về. Chàng tên là Thủy Tinh. Trước hai chàng trai tài giỏi, vua Hùng vô cùng bối rối, không biết nên chọn ai. Sau khi hội ý cùng các lạc hầu, nhà vua phán:
- Cả hai ngươi đều khiến ta hài lòng, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, ngày mai ai mang sính lễ đến trước sẽ được rước Mị Nương về.
Hai chàng trai nghe xong, liền hỏi nhà vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng trả lời:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh lập tức trở về chuẩn bị. Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đầy đủ lễ vật đến trước. Nhà vua liền gả Mị Nương cho chàng. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, vô cùng tức giận.
Thần Nước liền hô mưa, gọi gió, tạo nên cơn bão dữ dội làm rung chuyển đất trời. Nước lũ dâng cao, nhấn chìm đồng ruộng, nhà cửa, thậm chí cả thành Phong Châu cũng chìm trong biển nước, khiến dân chúng vô cùng khốn khổ. Tuy nhiên, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh, dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất vững chắc để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, đồi núi lại cao lên bấy nhiêu.
Cuộc chiến giữa hai vị thần kéo dài suốt nhiều tháng trời. Cuối cùng, đội quân của Thủy Tinh đuối sức, buộc phải rút lui. Từ đó, lòng oán hận của Thủy Tinh ngày càng sâu nặng. Hằng năm, Thần Nước lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại.
Bài văn mẫu số 5
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng không chỉ sở hữu nhan sắc tuyệt trần mà còn có tính cách dịu dàng, đằm thắm. Vì quá yêu quý con gái, nhà vua quyết tâm tìm cho nàng một người chồng tài đức vẹn toàn.
Một ngày nọ, hai chàng trai tài ba đến cầu hôn. Một người đến từ vùng núi Tản Viên, có tài năng phi thường: chỉ cần vẫy tay về phía đông, phía đông liền nổi lên cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên những dãy núi đồi hùng vĩ. Chàng được mọi người gọi là Sơn Tinh. Người còn lại đến từ vùng biển, tài năng cũng không kém phần xuất chúng: chỉ cần gọi gió, gió liền đến; hô mưa, mưa liền về. Chàng tên là Thủy Tinh. Trước hai chàng trai tài giỏi, vua Hùng vô cùng bối rối, không biết nên chọn ai. Sau khi hội ý cùng các lạc hầu, nhà vua đưa ra quyết định:
- Cả hai ngươi đều khiến ta hài lòng, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, ngày mai ai mang sính lễ đến trước sẽ được rước Mị Nương về.
Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe xong, liền hỏi nhà vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng trả lời:
- Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Nghe xong, hai chàng trai lập tức trở về chuẩn bị. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đầy đủ lễ vật đến trước và được đón Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, liền nổi giận, dẫn quân tấn công Sơn Tinh.
Thần Nước liền hô mưa, gọi gió, tạo nên cơn bão dữ dội làm rung chuyển đất trời. Nước lũ dâng cao, nhấn chìm đồng ruộng, nhà cửa, thậm chí cả thành Phong Châu cũng chìm trong biển nước, khiến dân chúng vô cùng khốn khổ. Tuy nhiên, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh, dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất vững chắc để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, đồi núi lại cao lên bấy nhiêu.
Cuộc chiến giữa hai vị thần kéo dài suốt nhiều tháng trời. Cuối cùng, đội quân của Thủy Tinh đuối sức, buộc phải rút lui. Từ đó, lòng oán hận của Thủy Tinh ngày càng sâu nặng. Hằng năm, Thần Nước lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại.
Kể lại truyền thuyết dân gian - Sự tích bánh chưng, bánh giầy
Bài văn mẫu số 1
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn tìm người kế vị xứng đáng. Nhà vua có hai mươi người con, nhưng không muốn truyền ngôi theo lệ thường là trao cho con trưởng. Vua cho rằng người nối ngôi phải là người tài đức, biết thương dân, nối được chí lớn của vua. Sau nhiều ngày suy nghĩ, vua quyết định gọi các con đến và tuyên bố:
- Giặc ngoại xâm nhiều lần đe dọa bờ cõi, nhưng nhờ phúc ấm tổ tiên, ta đều đánh đuổi được. Đất nước nay đã thanh bình. Ta già rồi, không còn sống được bao lâu nữa. Ta muốn tìm người kế vị để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người đó phải nối được chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Nhân dịp lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe lời vua, các hoàng tử đều muốn ngôi báu về tay mình, nhưng không ai hiểu rõ ý vua. Họ chỉ biết đua nhau chuẩn bị những mâm cỗ thịnh soạn, đầy sơn hào hải vị, mong làm vừa lòng vua cha.
Lang Liêu, con thứ mười tám của vua, là người buồn nhất. Mẹ mất sớm, chàng sống một mình từ nhỏ, suốt ngày chăm chỉ làm ruộng. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ, Lang Liêu chẳng có gì ngoài khoai và lúa. Những thứ ấy quá tầm thường, chàng nghĩ.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra và bảo:
- Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hãy lấy gạo làm bánh để dâng lên Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu vui mừng khôn xiết. Chàng suy nghĩ kỹ rồi lấy gạo nếp trắng tinh, vo sạch sẽ, dùng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong xanh. Để đổi mới, chàng cũng lấy gạo nếp giã nhuyễn làm bánh. Xong xuôi, chàng băn khoăn không biết đặt tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các hoàng tử mang đến vô số sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu. Hài lòng, vua gọi chàng lên hỏi chuyện. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần. Vua ngẫm nghĩ rồi phán:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa lòng ta, Lang Liêu sẽ là người kế vị. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chú trọng nghề nông và có tục lệ làm bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết. Thiếu chúng, Tết sẽ mất đi hương vị truyền thống.
Bài văn mẫu số 2
Vua Hùng Vương khi về già, muốn tìm người kế vị xứng đáng. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con trai, nên không biết chọn ai. Giặc ngoại xâm đã dẹp yên, nhưng chỉ khi dân chúng ấm no, ngai vàng mới thực sự vững bền. Vua bèn gọi các con lại và phán:
- Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm lược bờ cõi, nhưng nhờ phúc ấm Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Nay ta đã già, không thể sống mãi, người nối ngôi ta phải nối được chí ta. Không nhất thiết phải là con trưởng. Nhân dịp lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các hoàng tử đều cố gắng làm vừa lòng vua cha, nhưng không ai hiểu rõ ý vua. Họ chỉ biết đua nhau chuẩn bị những mâm cỗ thịnh soạn để dâng lên Tiên vương.
Chỉ có Lang Liêu là không biết phải làm sao. Chàng là con thứ mười tám, mẹ chàng từng bị vua cha ghẻ lạnh rồi qua đời. So với các anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Trong khi các anh em sai người đi tìm của quý trên rừng dưới biển, Lang Liêu chỉ biết chăm lo công việc đồng áng. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa, những thứ tưởng chừng quá tầm thường.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra và bảo:
- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn mãi không chán. Những thứ khác dù ngon nhưng hiếm, và không thể tự làm ra được. Vậy nên, hãy lấy gạo làm bánh để dâng lên Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Chàng thấy lời thần thật đúng. Chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch. Sau đó, chàng lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu chín trong một ngày một đêm. Để đổi vị, chàng cũng lấy gạo nếp đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên vương, các hoàng tử mang đến vô số sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu. Vua tỏ ra rất hài lòng, liền gọi chàng lên hỏi chuyện. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần. Nhà vua suy nghĩ rồi quyết định dâng bánh của Lang Liêu lên tế thần.
Sau khi tế lễ, vua tập hợp mọi người và tuyên bố:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho muôn loài cầm thú, cỏ cây. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đùm bọc, đoàn kết. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất vừa ý ta, nên sẽ là người kế vị.
Từ đó, nước ta chú trọng nghề nông và có tục lệ gói bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết. Thiếu hai món này, Tết sẽ mất đi hương vị truyền thống.
Bài văn mẫu số 3
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho một người con xứng đáng. Vua có mười hai người con trai, nhưng ngôi báu chỉ có thể trao cho một người. Vua quyết định tìm cách chọn ra người thật sự xứng đáng, người có thể nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.
Nhân dịp đầu xuân, vua gọi các hoàng tử lại và phán:
- Ai trong số các con tìm được món ăn ngon lành, có ý nghĩa, bày cỗ dâng lên Trời Đất và tổ tiên, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, hy vọng được truyền ngôi. Chỉ có Lang Liêu, người con thứ mười tám của vua, lại tỏ ra băn khoăn. Dù chăm chỉ và hiếu thảo, nhưng mẹ chàng mất sớm nên thiếu người chỉ dẫn. Chàng không biết phải làm món gì để tham gia cuộc thi.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra và bảo:
- Này con, trong Trời Đất, không gì quý bằng hạt gạo. Gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi mà không chán. Vậy con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, dùng lá xanh bọc bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh.
Tỉnh dậy, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Chàng liền chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch. Chàng lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu chín trong một ngày một đêm. Để đổi vị, chàng cũng lấy gạo nếp đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử mang đến vô số sơn hào hải vị. Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu, rất hài lòng, liền gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần, rồi giải thích về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Nhà vua suy nghĩ rồi quyết định chọn hai loại bánh này để dâng lên Trời Đất và Tiên vương.
Sau lễ tế, vua cho đem bánh xuống thưởng thức cùng quần thần. Ai nấy đều khen ngon.
Nhà vua tuyên bố:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho muôn loài cầm thú, cỏ cây. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đùm bọc. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp ý ta, nên ta sẽ truyền ngôi cho chàng.
Từ đó, nước ta chú trọng nghề nông. Hằng năm, cứ vào dịp Tết, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất.
Bài văn mẫu số 4
Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ sáu khi về già muốn tìm người kế vị. Vua có hai mươi người con trai, nhưng không biết chọn ai cho xứng đáng. Giặc ngoại xâm đã dẹp yên, nhưng chỉ khi dân chúng ấm no, ngai vàng mới thực sự vững bền. Vua bèn gọi các hoàng tử đến và phán:
- Ai trong số các con tìm được lễ vật dâng lên Trời Đất và tổ tiên có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các hoàng tử nghe vậy, đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha, hy vọng được truyền ngôi báu.
Trong khi đó, Lang Liêu, con trai thứ mười tám của vua Hùng, tỏ ra băn khoăn và lo lắng. Chàng vốn hiền hậu, hiếu thảo, nhưng vì mẹ mất sớm nên thiếu người chỉ dẫn. Chàng không biết phải làm món gì để tham gia cuộc thi.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra và bảo:
- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Gạo nuôi sống con người, ăn mãi mà không chán. Những thứ khác dù ngon nhưng hiếm, và không thể tự làm ra được. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông để tượng trưng cho Trời và Đất; dùng lá bọc bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng trưng cho cha mẹ sinh thành.
Tỉnh dậy, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Theo lời thần dặn, chàng chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch. Sau đó, chàng lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu chín trong một ngày một đêm. Để đổi vị, chàng cũng lấy gạo nếp đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử mang đến vô số sơn hào hải vị. Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu. Vua ngạc nhiên, liền gọi chàng lên hỏi chuyện. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần. Vua nếm thử bánh, thấy ngon và có ý nghĩa, bèn tập hợp mọi người lại và tuyên bố:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho muôn loài cầm thú, cỏ cây. Lá bọc bên ngoài thể hiện sự đùm bọc, đoàn kết. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất vừa ý ta, nên sẽ là người kế vị.
Từ đó, nhân dân chú trọng nghề nông và có tục lệ gói bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết.
- Luyện từ và câu: Khám phá và mở rộng vốn từ về Sách và Thư viện - Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 4
- Ôn tập giữa học kì 1 - Tiết 2 môn Tiếng Việt lớp 4 sách Cánh diều Tập 1 trang 64
- Đọc: Mỗi lần cầm sách giáo khoa - Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 4: Khám phá kho tàng tri thức
- Ôn tập giữa học kì 1 - Tiết 3 môn Tiếng Việt lớp 4 sách Cánh diều Tập 1 trang 65
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 86 - Ngữ văn lớp 8 sách Chân trời sáng tạo tập 1