Truyện ngắn Vợ Nhặt - Tác giả Kim Lân, trích từ tập truyện Con Chó Xấu Xí
Truyện ngắn Vợ Nhặt không chỉ khắc họa tình cảnh bi thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ: ngay trên bờ vực cái chết, họ vẫn khát khao sự sống, mong ước có một mái ấm gia đình và sẵn sàng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

EduTOPS mang đến tài liệu giới thiệu chi tiết về nhà văn Kim Lân và nội dung truyện ngắn Vợ Nhặt. Hãy cùng khám phá để hiểu sâu hơn về giá trị nhân văn và ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm này.
1. Khám phá truyện ngắn Vợ Nhặt - Tác phẩm đầy cảm xúc của Kim Lân
Nghe đọc truyện ngắn Vợ Nhặt - Trải nghiệm sâu sắc với tác phẩm văn học kinh điển
2. Khái quát về nhà văn Kim Lân
- Kim Lân (1920 - 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài.
- Quê quán: Huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là cây bút chuyên về truyện ngắn, có tác phẩm được đăng báo từ trước Cách mạng Tháng Tám.
- Gắn bó sâu sắc với nông thôn, các sáng tác của ông tập trung khắc họa đời sống làng quê và số phận người nông dân.
- Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Kim Lân còn là một diễn viên nổi tiếng (vai Lão Hạc trong 'Làng Vũ Đại ngày ấy', Lý Cựu trong 'Chị Dậu').
- Năm 2001, ông vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: 'Nên vợ nên chồng' (tập truyện ngắn, 1955), 'Con chó xấu xí' (tập truyện ngắn, 1962).
3. Khám phá truyện ngắn Vợ Nhặt - Tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lân
3.1 Nguồn gốc tác phẩm
- 'Vợ Nhặt' là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được in trong tập truyện 'Con chó xấu xí' (1962).
- Tiền thân của tác phẩm là tiểu thuyết 'Xóm ngụ cư', được viết ngay sau Cách mạng Tháng Tám nhưng còn dang dở và bị thất lạc bản thảo.
- Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân đã dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.
3.2 Cấu trúc tác phẩm
Gồm 4 phần chính:
- Phần 1. Từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”: Hình ảnh Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà.
- Phần 2. Tiếp theo đến “đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”: Ký ức của Tràng về việc nhặt được vợ.
- Phần 3. Tiếp theo đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”: Cuộc gặp gỡ đầy xúc động giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới.
- Phần 4. Còn lại: Khung cảnh buổi sáng hôm sau với cuộc sống mới của nàng dâu trong gia đình Tràng.
3.3 Thể loại tác phẩm
Truyện ngắn 'Vợ Nhặt' của Kim Lân là một tác phẩm tiêu biểu thuộc thể loại truyện ngắn hiện đại.
3.4 Tóm tắt tác phẩm
Tràng, một người dân nghèo ở xóm ngụ cư, sống cùng mẹ già và làm nghề kéo xe bò thuê. Một lần, trên đường kéo xe thóc, anh gặp thị, một người phụ nữ nghèo khổ. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đồng ý theo Tràng về làm vợ. Khi về đến nhà, Tràng lo lắng chờ mẹ về để thưa chuyện. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, ban đầu ngạc nhiên nhưng sau khi nghe con giải thích, bà đã chấp nhận nàng dâu mới và động viên các con cố gắng vượt qua khó khăn. Sáng hôm sau, bữa ăn đạm bạc với rau chuối và cháo cám trở thành biểu tượng của tình yêu thương và hy vọng. Trong lúc ăn, họ bàn về tương lai, và khi nghe tiếng trống thúc thuế, Tràng nhớ đến hình ảnh lá cờ đỏ và khát vọng đổi đời.
Ý nghĩa nhan đề
- Từ 'vợ' là một danh từ thiêng liêng, chỉ người phụ nữ trong mối quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận. Theo truyền thống, hôn nhân cần có sự chứng kiến của họ hàng và cộng đồng. Còn 'nhặt' là hành động nhặt nhạnh những thứ bị bỏ rơi.
- Kim Lân đã tạo ra một nhan đề độc đáo và đầy ẩn ý. Thông thường, người ta chỉ 'nhặt' được đồ vật, nhưng trong tác phẩm này, nhân vật chính lại 'nhặt' được một người vợ. Qua đó, tác giả phản ánh sự khốn cùng của con người trong thời kỳ đói kém.
- Nhan đề 'Vợ Nhặt' không chỉ khái quát tình huống truyện mà còn là lời lên án mạnh mẽ đối với chế độ thực dân, đẩy người nông dân vào cảnh nghèo đói cùng cực, khiến họ chết như 'ngả rạ'.
- Nhan đề 'Vợ Nhặt' mang tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng chỉ là một trong vô số trường hợp tương tự. Qua đó, Kim Lân bày tỏ sự đồng cảm và xót xa trước cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945.
3.6 Nội dung chính
Truyện ngắn 'Vợ Nhặt' không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ: ngay trên bờ vực cái chết, họ vẫn khát khao sự sống, mong ước có một mái ấm gia đình và sẵn sàng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
3.7 Nghệ thuật đặc sắc
- Tình huống truyện độc đáo, lối kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn.
- Khắc họa bối cảnh chân thực: cảnh người chết đói nằm la liệt, bữa cơm đạm bạc trong ngày đói…
- Nhiều chi tiết giàu ý nghĩa: giọt nước mắt xót xa của bà cụ Tứ, nồi cháo cám đắng nghẹn…
- Miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, đối thoại tự nhiên và giàu cảm xúc…
3.8 Mở bài
Kim Lân là một nhà văn chuyên về truyện ngắn, và 'Vợ Nhặt' là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện không chỉ phản ánh tình cảnh bi thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ: ngay trên bờ vực cái chết, họ vẫn khát khao sự sống, mong ước có một mái ấm gia đình và sẵn sàng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
3.9 Kết bài
Truyện ngắn 'Vợ Nhặt' là một tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm không chỉ tái hiện chân thực cuộc sống của người dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 mà còn chứa đựng những thông điệp nhân văn sâu sắc về tình người và khát vọng sống.
4. Dàn ý phân tích Vợ Nhặt
(1). Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và tác phẩm 'Vợ Nhặt'.
(2) Thân bài
a. Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà
- Tràng:
- Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”...
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà, căn nhà trở nên sáng sủa hơn.
- Người vợ nhặt:
- “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa khuôn mặt đang ngại ngùng.
- Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con và ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị cảm thấy khó chịu và tủi thân vì phận mình là một người vợ theo không.
b. Tràng nhớ lại việc mình có được vợ
- Lần gặp đầu tiên: Câu nói của Tràng chỉ là lời hát vu vơ, không có ý định trêu ghẹo ai.
- Lần gặp thứ hai:
- Khi bị thị mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn một chặp bát bánh đúc dù bản thân cũng chẳng dư dả gì.
- Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng thoáng nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”.
- Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ.
c. Khi Tràng và người vợ nhặt về nhà, cuộc gặp gỡ với bà cụ Tứ
- Tràng:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ.
- Khi mẹ về: liền thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
- Người vợ nhặt:
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
- Bà cụ Tứ:
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”, thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Cách đối xử với con dâu: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn...
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
- Tràng:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo…).
- Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới.
- Thị:
- Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Bà cụ Tứ: Động viên, vun vén cho các con…
(3) Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
5. Vợ nhặt
Trước đây, mỗi chiều khi trời chạng vạng, Tràng thường đi làm về. Hắn bước đi loạng choạng trên con đường nhỏ hẹp, len lỏi qua xóm chợ của những người ngụ cư để về nhà.
Hắn vừa đi vừa cười tủm tỉm, đôi mắt nhỏ híp lại, đắm chìm trong ánh chiều tà. Hai bên quai hàm hắn bạch ra, rung rung khiến khuôn mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng như đang nghĩ về điều gì đó vừa thú vị vừa dữ dội. Hắn có thói quen vừa đi vừa lẩm bẩm những suy nghĩ của mình.
Bọn trẻ trong xóm, mỗi khi thấy bóng dáng to lớn của hắn từ dốc chợ đi xuống, liền ùa ra vây quanh, reo hò ầm ĩ:
- A a a... Anh Tràng! Anh Tràng đã về rồi các bạn ơi!
- Anh Tràng ơi, bế em đi...
- Anh Tràng ơi, đã uống rượu chưa?
- Anh Tràng ơi!...
Đứa thì túm áo phía trước, đứa thì kéo phía sau, đứa cù, đứa lôi chân không cho hắn đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Cái xóm ngụ cư nghèo nàn ấy mỗi chiều lại trở nên nhộn nhịp trong chốc lát.
Nhưng dạo này, lũ trẻ không còn ra đón Tràng nữa, chúng ngồi ủ rũ dưới những góc đường, chẳng buồn nhúc nhích. Trong ánh chiều nhá nhem, Tràng bước từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn tạ vắt trên cánh tay, cái đầu trọc lóc cúi về phía trước. Dường như những lo toan, vất vả trong ngày đè nặng lên cái lưng rộng như lưng gấu của hắn.
Cái đói đã len lỏi đến xóm này từ lúc nào. Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình kéo nhau lên, bồng bế, dắt díu nhau, khuôn mặt xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người làng đi chợ hay ra đồng mà không gặp ba bốn xác chết nằm co quắp bên đường. Không khí ngột ngạt bởi mùi hôi thối của rác rưởi và mùi tử khí.
Giữa cảnh tối tăm vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về cùng một người đàn bà. Khuôn mặt hắn rạng rỡ một niềm vui khác thường. Hắn cười tủm tỉm một mình, đôi mắt sáng lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn khoảng ba bốn bước. Thị cắp chiếc thúng nhỏ, đầu hơi cúi xuống, chiếc nón rách nghiêng che khuất nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ thấy lạ liền chạy ra xem. Sợ chúng đùa cợt như trước, Tràng vội nghiêm mặt, lắc đầu ra hiệu không đồng ý.
Mấy đứa trẻ đứng lại, nhìn Tràng chằm chằm, bỗng một đứa hét lên:
- Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ hét lên lần nữa - Chồng vợ hài hước quá!
Tràng bật cười:
- Đồ ranh con!
Người đàn bà tỏ ra khó chịu. Thị nhíu đôi lông mày, đưa tay lên chỉnh lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng trở nên hoang vắng, lạnh lẽo. Từng cơn gió từ cánh đồng thổi vào, lạnh buốt. Hai bên dãy phố, nhà cửa tối om, không một ánh đèn hay ngọn lửa nào le lói. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ gào lên từng hồi thê lương.
Nhìn theo bóng Tràng và người đàn bà lủi thủi đi về phía bến, người trong xóm cảm thấy lạ lùng. Họ đứng trong ngưỡng cửa, nhìn ra bàn tán. Dường như họ cũng hiểu được phần nào. Những khuôn mặt hốc hác, u tối của họ bỗng rạng rỡ hẳn lên. Có một luồng sinh khí lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ hỏi:
- Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Không phải đâu, từ ngày ông cụ Tứ mất, chưa thấy họ hàng nào lên thăm cả.
- Lạ thật!
Im lặng một lúc, có người bỗng cười khúc khích:
- Hay là vợ anh cu Tràng? Ù, khéo mà vợ anh cu Tràng thật đấy, trông chị ta thẹn thùng hay đáo để.
- Ôi trời! Giữa cảnh này mà còn rước thêm cái của nợ về. Biết có nuôi nổi nhau qua được cơn đói này không?
Họ cùng im lặng.
Người đàn bà như cũng cảm nhận được ánh mắt mọi người đổ dồn về phía mình, thị càng ngượng nghịu, bước chân loạng choạng. Tràng cũng biết điều đó, nhưng hắn lại thấy thích thú, mặt cứ vênh lên đầy tự mãn. Người đàn bà lẩm bẩm điều gì đó. Hắn quay lại hỏi:
- Gì thế?
- Không có gì.
Hắn cũng lẩm bẩm:
- Sao họ trông khỏe mạnh thế nhỉ? - Anh ta đột nhiên dừng lại, ngó nghiêng khắp nơi.
- Này bác Tràng! Bác Tràng! ...
Từ một khung cửa tối om, một cái đầu trọc thò ra, gọi giọng hối hả.
Tràng vội vàng quay lại.
- Về muộn lắm không? Vào chơi một lát đi.
Tràng đứng lại, từ chối khéo:
- Thôi, để hôm khác đi ông.
Cái đầu trọc nháy mắt, hất về phía người đàn bà đang đứng với vẻ hóm hỉnh:
- Ai đấy nhỉ?
- À... người quen thôi. Để hôm khác nhé ông.
Anh ta quay ngoắt lại, vội vã chạy theo người đàn bà, như kẻ đang xấu hổ muốn trốn chạy. Người đàn bà đã đi tới trước một ngôi miếu cũ. Tràng gọi với:
- Này, rẽ lối này này.
- Đằng này à?
- Ừ.
Hai người lặng lẽ rẽ vào một con đường nhỏ. Con đường sâu hun hút, len lỏi giữa hai bờ tre cao vút. Nơi đây yên tĩnh, thoáng đãng. Anh ta định nói vài lời tình tứ với cô ấy nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Anh cứ lúng túng, tay này xoa xoa vào vai kia, đi bên cạnh người đàn bà. Cô ấy cũng im lặng, đôi mắt đăm chiêu nhìn về phía trước. Tiếng gió vi vu trên ngọn tre và tiếng lá khô xào xạc dưới chân.
Trong khoảnh khắc ấy, Tràng dường như quên đi cuộc sống tăm tối, nghèo khổ thường ngày, quên cả cơn đói khát đang đe dọa, quên luôn những ngày tháng khó khăn phía trước. Trong lòng anh giờ đây chỉ còn tình cảm ấm áp giữa anh và người đàn bà đi bên cạnh. Một cảm giác mới mẻ, lạ lùng, chưa từng có ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó lan tỏa khắp cơ thể Tràng, như có bàn tay ai đó nhẹ nhàng vuốt ve sống lưng.
- Sắp đến chưa? - Người đàn bà đột ngột hỏi.
- Sắp thôi!
- Nhà có ai không?
- Chỉ có mình tôi với mấy u thôi.
Cô ấy khẽ cười tủm tỉm:
- Một mình mà còn mấy u nữa. Bé nhỏ thế đấy!
Tràng bật cười:
- À, đúng thế nhỉ.
Câu chuyện dần trở nên thân mật hơn. Anh bước sát lại gần cô ấy, suy nghĩ một lát, rồi đột nhiên giơ cái chai nhỏ vẫn cầm chặt trong tay lên khoe:
- Dầu thắp đèn đây này.
- Sang thế!
- Khá đấy. Hai hào đấy, đắt quá, nhưng thôi cũng chẳng sao.
- Hoang phí vừa thôi chứ.
Tràng chặc lưỡi:
- Vợ mới cưới thì cũng phải cho căn nhà sáng sủa một chút chứ, chẳng lẽ chưa tối đã vội vã vào ngay, hì hì...
- Đồ khỉ gió.
Thị vụt một cái vào lưng hắn, mặt đỏ bừng lên vì xấu hổ.
Hắn khoái chí, ngửa cổ cười lớn.
Mấy con chó giật mình chạy tọt vào trong lũy, thò mõm ra sủa vang trời. Tràng nhặt một hòn gạch, vung tay ném mạnh:
- Mẹ bố chúng mày, cắn cái gì thế!
- Vẫn chưa đến à?
- Còn lâu lắm.
- Khiếp thật.
Thị nhăn mặt, giãy lên. Hắn bật cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng lên, reo to:
- Đây rồi!...
Thị lặng lẽ theo hắn vào nhà, căn nhà vắng vẻ, đứng co ro trên mảnh vườn đầy cỏ dại mọc lổn nhổn. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, ngực gầy lép nhô lên, thở dài nhẹ. Tràng bước nhanh vào nhà, dẹp tấm phên rách sang một bên, dọn dẹp những niêu bát, quần áo bừa bộn trên giường và dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị, cười khẽ:
- Không có đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt. Tràng vỗ nhẹ xuống giường, nói đon đả:
- Ngồi đây đi!... Ngồi xuống đây, tự nhiên đi...
Người đàn bà nghe lời hắn, ngồi xuống mép giường. Cả hai đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng. Tràng đứng như trời trồng giữa nhà một lúc, rồi bỗng thấy lo lắng. Chính hắn cũng không hiểu tại sao mình lại sợ, hắn lấm lét bước nhanh ra sân, cất giọng gắt:
- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!
Hắn loanh quanh, chạy ra ngõ đứng ngóng, rồi lại chạy vào sân, liếc nhìn vào trong nhà. Thị vẫn ngồi ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt đầy vẻ bần thần.
Hắn thầm nghĩ: “Sao cô ấy lại buồn thế nhỉ?... Ồ, sao cô ấy lại buồn thế nhỉ?...”. Hắn nhổ bãi nước bọt vu vơ, rồi tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi giữa nhà, đến giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ, như không tin đó là sự thật. Hắn đã có vợ rồi sao? Hà! Chuyện xảy ra nhanh đến mức hắn cũng không ngờ, chỉ qua vài lần gặp gỡ mà đã thành vợ thành chồng…
Dạo gần đây, hắn thường xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi lần đi qua cửa nhà kho, hắn lại thấy mấy cô gái ngồi vêu ra đó. Hắn đoán họ ngồi đấy để nhặt hạt rơi vãi, hoặc chờ ai đó gọi làm việc. Một lần, hắn đang gò lưng kéo xe bò thóc lên dốc tỉnh, hắn hò một câu cho đỡ mệt. Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Thực ra hắn cũng không có ý chòng ghẹo ai, nhưng mấy cô gái lại đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười rúc rích:
- Kìa anh ấy gọi đấy! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy đi!
Thị cong cớn đáp:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại, vuốt mồ hôi trên mặt, cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ! - Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ khi sinh ra đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong và đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, thị bỗng từ đâu xuất hiện, sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn, giọng đầy giận dữ:
- Đồ điêu ngoa! Người thế mà cũng điêu!
Hắn ngước mắt nhìn thị, không hiểu chuyện gì. Thực ra, lúc đó hắn còn chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay, thị trông tả tơi quá, quần áo rách rưới như tổ đỉa, thân hình gầy gò, khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy rõ đôi mắt.
- Hôm ấy miệng hứa hẹn đủ điều, thế mà giờ biến mất. À, hắn chợt nhớ ra, hắn bật cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Nào, ngồi xuống đây ăn miếng trầu đi.
- Có ăn gì thì ăn, chứ trầu thì chả.
Thị vẫn đứng đó, vẻ mặt cứng cỏi.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ nhẹ vào túi:
- Rỗng túi rồi, hở!
Đôi mắt sâu hoắm của thị bỗng sáng lên, thị nhanh nhảu:
- Ăn thật nhé! Ừ, ăn thì ăn, sợ gì.
Thế là thị ngồi xuống, ăn một mạch bốn bát bánh đúc mà chẳng nói năng gì. Ăn xong, thị cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở phào:
- Hà, ngon quá! Về nhà chị ấy mà thấy hụt tiền thì chết chắc.
Hắn cười khẽ:
- Làm gì có vợ. Này, nói đùa thôi, nhưng nếu muốn về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế, Tràng cũng tưởng là đùa, ai ngờ thị lại đồng ý thật. Ban đầu, anh chàng cũng hơi lo, nghĩ bụng: thóc gạo này đến bản thân còn chưa chắc nuôi nổi, huống chi lại thêm người. Nhưng rồi không hiểu sao, hắn chặc lưỡi một cái:
- Chặc, kệ đi!
Hôm đó, hắn dẫn thị vào chợ tỉnh, mua cho thị một cái thúng nhỏ đựng vài thứ lặt vặt, rồi cùng nhau vào hàng cơm ăn một bữa no nê trước khi đẩy xe bò về...
Tràng đột nhiên dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ rặng tre lọng khọng bước vào ngõ. Bà vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán điều gì đó.
Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, gọi to vào trong nhà:
- U đã về đấy!
Hắn vội vàng chạy ra đón:
- Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.
Bà cụ Tứ chớp chớp đôi mắt nhìn Tràng, chậm rãi hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Thì u cứ vào nhà đã nào.
Bà lão bước theo con vào nhà, lòng đầy nghi hoặc. Đến giữa sân, bà đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Lạ thật, sao lại có người đàn bà ở trong nhà? Người đàn bà ấy đứng ngay đầu giường thằng con mình, lại còn chào mình bằng “u”? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? Bà lão chớp mắt liên tục, tự nhiên thấy mắt mình nhoè đi. Bà nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra. Bà quay lại nhìn con, ánh mắt đầy thắc mắc.
Tràng tươi cười:
- Thì u cứ vào ngồi lên giường đi, ngồi cho chỉnh chu cái đã nào.
Bà lão chậm rãi bước vào nhà. Người đàn bà tưởng bà già cả, điếc lác, nên cất tiếng chào lần nữa:
- U đã về ạ!
Ô hay, chuyện gì thế này? Bà lão bối rối ngồi xuống giường.
Tràng nhắc nhở mẹ:
- Kìa, nhà tôi nó chào u đấy.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần giải thích thêm:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với con đấy u ạ! Chúng con phải duyên phải kiếp với nhau... Cũng là cái số cả...
Bà lão cúi đầu im lặng. Bà đã hiểu ra. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy chợt thấu hiểu bao nỗi niềm, vừa đau đớn vừa xót xa cho số phận đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con khi nhà cửa khấm khá, mong sinh con đẻ cái để nối dõi. Còn mình thì... Nước mắt bà lão rơi xuống từ đôi mắt đã mờ đục... Liệu chúng nó có sống nổi qua cơn đói khát này không?
Bà lão thở dài, đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã sờn rách. Bà lão nhìn thị và nghĩ: Người ta chỉ vì hoàn cảnh khó khăn, đói khổ mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng nhờ thế mới có vợ... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo được cho con... Biết đâu qua được cơn khốn khó này, thằng con bà cũng có vợ, yên bề gia thất, còn nếu không may, trời bắt chết thì cũng đành chịu.
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở phào nhẹ nhõm, ngực nhẹ bẫng. Hắn ho khẽ, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá... Ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối bao trùm đôi mắt bà. Ngoài xa, dòng sông sáng trắng uốn lượn giữa cánh đồng tối. Mùi khét lẹt từ đống rấm đốt ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào. Bà lão thở dài. Bà nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời dài dằng dặc đầy cực khổ của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, liệu cuộc đời chúng nó có khá hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà với ánh mắt đầy xót xa. Giờ đây, nàng đã trở thành dâu con trong nhà. Người đàn bà khẽ cử động, vẫn e dè đứng nguyên tại chỗ. Bà lão nhẹ nhàng hạ giọng, ân cần nói:
- Nếu có thể làm được vài mâm cỗ thì tốt, nhưng nhà mình nghèo, chẳng ai chấp nhặt vào lúc này. Miễn sao hai đứa hòa thuận là mẹ vui rồi. Năm nay đói kém lắm. Hai đứa lấy nhau trong hoàn cảnh này, mẹ thương lắm...
Bà cụ nghẹn ngào, không nói được nữa, nước mắt lăn dài trên má. Tràng đứng ngoài nhìn thấy, bực bội bước vào nhà, đánh diêm thắp đèn. Ánh sáng vừa lóe lên, bà lão vội lau nước mắt, ngẩng đầu lên:
- Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên cho sáng một chút... Dầu bây giờ đắt lắm, con ạ.
Bà lão đứng dậy, mệt mỏi bước sang giường bên kia nằm xuống. Tràng lẩm bẩm: “Chán quá, chẳng hiểu sao lại khóc!”
Tiếng bà cụ Tứ vọng sang:
- Hôm nào nghỉ ở nhà, kiếm ít nứa về đan phên ngăn phòng đi, con ạ.
- Vâng.
Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn định bảo thị cởi áo đi ngủ, nhưng thấy thị ngồi im lặng dưới chân giường, hắn lại ngần ngại. Hắn lặng lẽ ngồi xuống ghế, cả hai đều ngượng ngùng, chẳng biết nói gì. Ánh đèn vàng le lói trong góc nhà tỏa ra hơi ấm, in hai cái bóng dài trên vách. Bên ngoài, gió từ mặt sông thổi vào, rì rào như tiếng người thầm thì. Trong không gian tĩnh lặng của đôi vợ chồng mới, tiếng ai đó khóc nỉ non vọng vào, lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà thở dài. Tràng quay lại, khẽ hỏi:
- Buồn à?
- Không.
- Sao lúc này nói chuyện dài dòng thế, đợi sốt cả ruột.
Thị liếc nhìn hắn, không đáp. Hắn dịch lại gần, cười khẽ:
- Thôi khuya rồi, đi ngủ đi.
Thị giơ tay, khẽ chạm vào trán hắn:
- Chỉ được cái nhanh nhẹn, còn thì dơ bẩn quá!
Hắn cười khành khạch, vươn cổ thổi tắt ngọn đèn. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng khóc nỉ non vọng lại càng rõ rệt...
Sáng hôm sau, khi mặt trời đã lên cao, Tràng mới choàng tỉnh giấc. Cơ thể hắn nhẹ nhõm, lâng lâng như vừa bước ra từ một giấc mơ. Việc hắn đã có vợ đến giờ vẫn khiến hắn ngỡ ngàng, như thể đó là chuyện không tưởng.
Hắn chắp tay sau lưng, thong thả bước ra sân. Ánh nắng chói chang của buổi sáng mùa hè chiếu thẳng vào đôi mắt còn đang cay xè của hắn. Hắn chớp mắt liên hồi và bỗng nhận ra xung quanh mình đã có sự thay đổi kỳ lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp. Những bộ quần áo rách nát vốn bị vứt lăn lóc trong góc nhà đã được đem ra phơi. Hai chiếc ang nước trước kia khô cạn giờ đã đầy ắp. Đống rác bẩn từng chất đống ngay lối đi cũng đã được dọn sạch.
Ngoài vườn, người mẹ đang cần mẫn nhổ cỏ. Vợ hắn đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất. Khung cảnh tuy đơn giản nhưng lại khiến hắn vô cùng xúc động. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương và gắn bó với ngôi nhà này một cách kỳ lạ. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái tại đây. Ngôi nhà như một tổ ấm che chở họ khỏi mưa nắng. Một niềm vui sướng bất ngờ trào dâng trong lòng hắn. Giờ đây, hắn mới thấy mình thực sự trưởng thành, có trách nhiệm lo lắng cho vợ con. Hắn hăng hái bước ra sân, muốn làm gì đó để góp phần tu sửa lại ngôi nhà.
Bà cụ Tứ thấy con trai đã dậy, liền nhẹ nhàng bảo con dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con vào dọn cơm đi kẻo muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lặng lẽ bước vào bếp. Tràng nhìn thị hôm nay và thấy khác hẳn, rõ ràng là một người phụ nữ hiền hậu, không còn vẻ chua ngoa như những lần hắn gặp ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị chăm chỉ hơn không? Bà mẹ Tràng cũng có vẻ nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường, khuôn mặt u ám của bà giờ rạng rỡ hẳn lên. Bà lão hăng hái dọn dẹp nhà cửa. Dường như mọi người đều nghĩ rằng nếu thu xếp nhà cửa gọn gàng, cuộc sống của họ sẽ khá lên, làm ăn sẽ thuận lợi hơn.
Bữa cơm trong ngày đói kém trông thật thảm hại. Trên cái mẹt rách chỉ có một ít rau chuối thái nhỏ và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà chỉ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về tương lai:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền, ta mua đôi gà về nuôi. Mẹ tin rằng chỗ đầu bếp kia làm chuồng gà thì tiện lắm. Chẳng mấy chốc mà có cả đàn gà đấy...
Tràng chỉ biết vâng dạ. Chưa bao giờ trong nhà này lại đầm ấm, hòa thuận đến thế. Câu chuyện vui vẻ trong bữa ăn bỗng chốc im bặt. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người chỉ được hai bát đã hết sạch.
Bà lão đặt đũa xuống, nhìn hai con với ánh mắt vui vẻ:
- Chúng mày đợi mẹ chút. Mẹ có cái này hay lắm.
Bà vội vàng chạy xuống bếp, lễ mễ bưng lên một nồi khói bốc nghi ngút. Bà đặt nồi xuống cạnh mẹt cơm, vừa khuấy vừa cười khúc khích:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon lắm đấy.
Người con dâu đón lấy bát chè, đưa lên mắt nhìn, đôi mắt thị tối sầm lại. Thị điềm nhiên đưa lên miệng. Tràng cầm bát thứ hai mẹ đưa, người mẹ vẫn tươi cười, ân cần nói:
- Cám đấy con ạ, hì. Ngon lắm, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta nhiều nhà còn chẳng có cám mà ăn đâu.
Tràng cầm đôi đũa, gắp một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn nhăn lại, miếng cám đắng chát và nghẹn ứ trong cổ. Bữa cơm từ đó chìm vào im lặng, mọi người cắm cúi ăn cho xong, tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len lỏi vào tâm trí từng người.
Ngoài đình bỗng vang lên tiếng trống dồn dập, gấp gáp. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hoảng hốt bay vù lên, lượn thành từng đám trên nền trời như những đám mây đen kịt.
Người con dâu khẽ thở dài, thị lẩm bẩm:
- Trống gì thế, mẹ nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì bắt gồng đay, đằng thì bắt đóng thuế. Trời đất này không biết có sống nổi không các con ạ... - Bà lão vội quay ra ngoài. Bà không dám để con dâu nhìn thấy mình khóc.
Người con dâu có vẻ ngạc nhiên, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế à?
Im lặng một lát, thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng ngẩn người ra suy nghĩ. Khuôn mặt to lớn của hắn đanh lại, đầy vẻ khó hiểu. Miếng cám trong miệng hắn đã nhạt nhẽo, chát chúa... Hắn đang nghĩ về những người phá kho thóc Nhật.
Tràng vội hỏi trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng im lặng. Trong đầu hắn chợt hiện lên hình ảnh đám người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Phía trước, một lá cờ đỏ lớn bay phấp phới.
Hôm đó, hắn thoáng nghe người ta nói họ là Việt Minh. Họ đi cướp thóc. Tràng không hiểu rõ, chỉ thấy sợ hãi, vội kéo xe thóc của Liên đoàn đi lối khác. Hóa ra họ đi phá kho thóc để chia cho người đói. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy ân hận, tiếc nuối một cách mơ hồ, khó hiểu.
Ngoài đình, tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập vang lên. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa, đứng dậy.
Trong tâm trí Tràng vẫn hiện rõ hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (trình bày quan điểm đồng tình) - Dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu lớp 7
- Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được trích từ tập truyện cùng tên của nhà văn Lê Minh Khuê.
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - 4 Dàn ý chi tiết và 24 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 9: Phân tích và cảm nhận sâu sắc về truyện ngắn 'Chiếc lược ngà' của nhà văn Nguyễn Quang Sáng (Kèm sơ đồ tư duy chi tiết) - Bao gồm 6 dàn ý mẫu và 18 bài văn phân tích hay nhất dành cho học sinh lớp 9
- Phân tích bài thơ Bánh trôi nước - Dàn ý chi tiết và 11 bài văn mẫu hay nhất dành cho học sinh lớp 7