Truyện ngắn Buổi học cuối cùng của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê là một tác phẩm giàu cảm xúc, khắc họa sâu sắc tình yêu nước thông qua tình yêu tiếng mẹ đẻ.
Truyện ngắn “Buổi học cuối cùng” được đặt trong bối cảnh lịch sử đầy biến động: Sau thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), hai vùng An-dát và Lo-ren, vốn giáp biên giới với Phổ, đã bị sáp nhập vào nước Phổ. Hệ quả là, các trường học tại đây buộc phải dạy và học bằng tiếng Đức.

EduTOPS sẽ cung cấp thông tin về tác giả An-phông-xơ Đô-đê và phân tích nội dung tác phẩm Buổi học cuối cùng. Các bạn học sinh có thể tham khảo chi tiết ngay dưới đây.
1. Trải nghiệm Buổi học cuối cùng qua bản đọc truyện đầy cảm xúc.
Nghe đọc truyện Buổi học cuối cùng:
2. Khám phá cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê
- An-phông-xơ Đô-đê (1840 - 1897) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Pháp.
- Ông nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn học kinh điển, mang đậm dấu ấn nhân văn và tình yêu quê hương.
- Phong cách văn chương của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, khắc họa chân thực những nỗi đau và tình cảm thiêng liêng dành cho đất nước.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Một thời niên thiếu, Buổi học cuối cùng, và nhiều tác phẩm khác.
3. Khám phá tác phẩm Buổi học cuối cùng - Một kiệt tác văn học đầy cảm xúc và ý nghĩa lịch sử.
3.1 Xuất xứ của tác phẩm Buổi học cuối cùng
Truyện “Buổi học cuối cùng” được đặt trong bối cảnh lịch sử đầy biến động: Sau thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), hai vùng An-dát và Lo-ren, vốn giáp biên giới với Phổ, đã bị sáp nhập vào nước Phổ. Hệ quả là, các trường học tại đây buộc phải dạy và học bằng tiếng Đức.
- Tác phẩm kể về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp tại một ngôi trường làng thuộc vùng An-dát, mang đậm tình yêu nước và nỗi niềm tiếc nuối.
3.2 Bố cục của tác phẩm Buổi học cuối cùng
Bố cục gồm ba phần chính:
- Phần 1. Từ đầu đến “mà vắng mặt con”: Miêu tả quang cảnh trên đường đến trường và không khí lạ thường trong lớp học.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!”: Diễn biến xúc động của buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
- Phần 3. Phần còn lại: Kết thúc buổi học và những cảm xúc đọng lại trong lòng nhân vật.
3.3 Tóm tắt tác phẩm Buổi học cuối cùng
Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp muộn và ngạc nhiên trước không khí yên tĩnh khác thường. Thầy Ha-men thông báo đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Phrăng cảm thấy tiếc nuối và ân hận vì đã lãng phí thời gian, thường xuyên trốn học. Buổi học diễn ra trong sự trang nghiêm, từ tiết tập đọc, tập viết đến tiết Lịch sử. Thầy Ha-men chia sẻ những lời sâu sắc về giá trị của tiếng Pháp. Khi đồng hồ điểm mười hai giờ, buổi học kết thúc. Thầy Ha-men xúc động không nói nên lời và viết lên bảng dòng chữ: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
3.4 Nội dung chính của tác phẩm Buổi học cuối cùng
Văn bản Buổi học cuối cùng đã khắc họa sâu sắc tình yêu nước và ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, qua đó truyền tải thông điệp về giá trị văn hóa và bản sắc.
Nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Buổi học cuối cùng
Tác phẩm sử dụng ngôi kể thứ nhất, kết hợp với nghệ thuật miêu tả nhân vật tinh tế qua hành động, cử chỉ, và ngôn ngữ, tạo nên sức hấp dẫn và chiều sâu cảm xúc.
4. Dàn ý phân tích tác phẩm Buổi học cuối cùng
(1) Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác phẩm Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê, một câu chuyện giàu cảm xúc và ý nghĩa lịch sử.
(2) Thân bài
a. Nhân vật chú bé Phrăng
- Ban đầu, Phrăng định trốn học vì không thuộc bài, nhưng sau đó quyết định đến trường.
- Cậu ngạc nhiên trước không khí yên tĩnh khác thường trong lớp học.
- Choáng váng khi nghe thầy Ha-men thông báo đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
- Phrăng tự trách mình vì thói ham chơi, lười học trước đây.
- Cậu chăm chú lắng nghe bài giảng của thầy và thấm thía những lời dạy sâu sắc.
- Xúc động trước hình ảnh cao đẹp và đáng kính của thầy Ha-men.
b. Nhân vật thầy Ha-men
- Thầy Ha-men trở nên dịu dàng và khác biệt so với ngày thường.
- Thầy mặc bộ y phục trang trọng, chỉ dành cho những dịp đặc biệt.
- Thầy ca ngợi tiếng Pháp như một biểu tượng của Tổ quốc và văn hóa dân tộc.
- Tâm trạng thầy đầy xúc động, thể hiện qua giọng nói nghẹn ngào và những hành động đầy ý nghĩa.
(3) Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung sâu sắc và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm Buổi học cuối cùng, một kiệt tác văn học giàu tính nhân văn.
5. Buổi học cuối cùng
Buổi sáng hôm ấy, tôi đến lớp muộn và rất lo sợ bị thầy Ha-men quở mắng, đặc biệt là vì tôi chưa thuộc bài về các phân từ. Tôi thoáng nghĩ đến việc trốn học để rong chơi ngoài đồng nội.
Trời hôm ấy thật ấm áp và trong trẻo một cách lạ thường.
Tiếng sáo hót ven rừng và trên cánh đồng Ríp-pe, cùng với tiếng lính Phổ đang tập luyện sau xưởng cưa, khiến tôi bị cám dỗ hơn là những quy tắc ngữ pháp khô khan. Nhưng cuối cùng, tôi đã cưỡng lại được và vội vã chạy đến trường.
Khi đi ngang qua trụ sở xã, tôi thấy nhiều người đang đứng trước bảng cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính nơi này đã mang đến những tin tức không vui: thất trận, trưng thu, và những mệnh lệnh từ ban chỉ huy Đức. Tôi tự hỏi: “Lại có chuyện gì nữa đây?” nhưng không dừng lại.
Bác phó rèn Oát-stơ, đang đọc cáo thị cùng cậu học việc, thấy tôi chạy qua liền gọi to:
- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!
Tôi nghĩ bác đang chế nhạo mình, nhưng vẫn hối hả bước vào sân nhỏ nhà thầy Ha-men, thở hổn hển.
Thông thường, buổi học bắt đầu trong tiếng ồn ào như chợ vỡ: tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng học sinh đồng thanh đọc bài, và tiếng thước kẻ của thầy Ha-men gõ xuống bàn:
- Yên lặng nào!
Tôi định lẻn vào chỗ ngồi trong lúc hỗn độn, nhưng hôm đó, mọi thứ yên tĩnh lạ thường như một buổi sáng chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi lại với cây thước sắt kẹp dưới nách. Tôi đỏ mặt tía tai khi phải bước vào giữa sự im lặng đó.
Nhưng thầy Ha-men không giận dữ, thầy nhìn tôi và nói dịu dàng:
- Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.
Tôi bước qua ghế dài và ngồi xuống. Lúc này, tôi mới nhận ra thầy Ha-men mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu - bộ trang phục chỉ dùng vào những dịp đặc biệt. Lớp học có vẻ trang trọng và khác lạ. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là thấy những người dân làng ngồi im lặng ở cuối lớp, trong đó có cụ Hô-de, cựu xã trưởng, bác phát thư, và nhiều người khác.
Ai nấy đều mang vẻ buồn rầu. Cụ Hô-de cầm quyển tập đánh vần cũ kỹ, đặt ngang trên lòng, với cặp kính lớn đặt trên trang sách.
Tôi còn đang ngạc nhiên về mọi thứ thì thầy Ha-men bước lên bục, giọng thầy vẫn dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
- Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Theo lệnh từ Béc-lin, từ nay chỉ được dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới sẽ đến vào ngày mai. Hôm nay là buổi học tiếng Pháp cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Những lời đó khiến tôi choáng váng. A! Lũ khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã.
Buổi học tiếng Pháp cuối cùng của tôi!...
Mà tôi thì mới chỉ biết viết nguệch ngoạc! Vậy là tôi sẽ không bao giờ được học nữa ư, phải dừng lại ở đây ư!... Giờ đây, tôi tự giận mình vì đã lãng phí thời gian, vì những buổi trốn học đi bắt tổ chim hay trượt trên hồ. Những cuốn sách mà trước đây tôi còn thấy chán ngán, nặng nề, giờ đây lại giống như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải chia tay. Thầy Ha-men cũng vậy. Cứ nghĩ đến việc thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, tôi quên hết những lần thầy phạt, thầy dùng thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc bộ y phục đẹp nhất, và giờ tôi hiểu tại sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp. Điều đó như muốn nói rằng họ tiếc vì đã không đến trường thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là cách họ bày tỏ lòng biết ơn với thầy giáo sau bốn mươi năm phụng sự tận tụy, và để thể hiện sự trung thành với Tổ quốc đang dần rời xa…
Tôi đang suy nghĩ miên man thì bỗng nghe thầy gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi có thể đọc trôi chảy quy tắc về phân từ, đọc thật to, thật rõ ràng, không mắc lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì tôi cũng cam lòng; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu, đứng đung đưa trước ghế, lòng buồn bã, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men nói:
- Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con đã bị trừng phạt đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn nhiều thời gian. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến… Ôi! Tai họa lớn của xứ An-dát chúng ta là luôn trì hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây, những kẻ kia có quyền nói với chúng ta: “Thế nào! Các người tự nhận là người Pháp, vậy mà các người không biết đọc, biết viết tiếng của mình!...” Dù sao, Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng trách nhất! Tất cả chúng ta đều có phần đáng tự trách.
Cha mẹ các con không quá quan tâm đến việc học của các con. Họ thích các con làm việc đồng áng hoặc vào nhà máy sợi để kiếm thêm chút tiền. Cả thầy cũng không có gì để tự trách ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học bài đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá, thầy có ngại ngần cho các con nghỉ học đâu?...
Rồi thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững chắc nhất: chúng ta phải giữ gìn nó và đừng bao giờ lãng quên, bởi khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói của mình thì họ vẫn nắm giữ chìa khóa tự do…
Sau đó, thầy cầm quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi ngạc nhiên vì sao mình lại hiểu dễ dàng đến thế. Tất cả những gì thầy nói, tôi đều thấy rõ ràng, dễ hiểu. Tôi chưa bao giờ chăm chú nghe giảng đến thế, và thầy cũng chưa bao giờ kiên nhẫn giảng giải như vậy. Cứ như thể trước khi ra đi, thầy muốn truyền lại toàn bộ kiến thức của mình, muốn nhồi nhét tất cả vào đầu chúng tôi ngay lập tức.
Kết thúc bài giảng, chúng tôi chuyển sang phần viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị những tờ mẫu mới, trên đó viết bằng “chữ rông” thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức, và không gian im lặng đến mức chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Đôi khi có vài con bọ dừa bay vào, nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những học trò nhỏ nhất cũng đang cặm cụi viết từng nét với tất cả sự nghiêm túc, như thể đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà, chim bồ câu gù khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự hỏi:
- Liệu người ta có bắt cả chúng cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Thỉnh thoảng, tôi ngước mắt khỏi trang giấy và thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục, đăm đăm nhìn những đồ vật xung quanh như muốn khắc sâu hình ảnh ngôi trường nhỏ bé này vào tâm trí… Bạn hãy nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảng sân trước mặt và lớp học không thay đổi. Chỉ có những chiếc ghế dài, bàn học đã nhẵn bóng vì dùng nhiều, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông thầy tự tay trồng giờ đây quấn quanh khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp ấy hẳn phải đau lòng biết bao khi phải chia tay tất cả, khi nghe tiếng người em gái đi lại, đóng hòm xiểng ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ sẽ phải rời xa mãi mãi.
Tuy nhiên, thầy Ha-men vẫn kiên cường dạy chúng tôi cho đến phút cuối. Sau tiết viết tập là bài Lịch sử, rồi những học trò nhỏ đồng thanh đọc bài như hát: Ba Be Bi Bo Bu. Ở cuối lớp, cụ Hô-de đeo kính lên, nâng cuốn sách vỡ lòng bằng cả hai tay, đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cụ cũng chăm chú, giọng run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kỳ lạ, khiến chúng tôi vừa muốn cười, vừa muốn khóc… Ôi! Tôi sẽ mãi mãi nhớ buổi học cuối cùng này!
Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, tiếp theo là tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc, tiếng kèn của lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, mặt tái nhợt. Chưa bao giờ tôi thấy thầy cao lớn và uy nghi đến thế.
- Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…
Nhưng có điều gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không thể nói hết câu.
Thầy quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”.
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, không nói thêm lời nào, chỉ giơ tay ra hiệu cho chúng tôi:
“Kết thúc rồi… đi đi thôi!”.
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt văn bản 'Điều gì giúp bóng đá Việt Nam chiến thắng' - 3 bài tóm tắt mẫu về yếu tố thành công của bóng đá Việt Nam
- Phân tích tác phẩm Chí khí anh hùng: 3 Dàn ý chi tiết và 15 Bài văn mẫu xuất sắc
- Bài đọc: Những cậu bé với trí tưởng tượng phong phú - Sách Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 3
- Hướng dẫn Soạn bài Trở gió - Ngữ văn lớp 7 trang 44 sách Kết nối tri thức tập 1: Chi tiết và sâu sắc
- Tự đánh giá: Khám phá vẻ đẹp và ý nghĩa của Cây tre Việt Nam trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, Cánh diều tập 1, Bài 3