Phân tích tác phẩm Chí khí anh hùng: 3 Dàn ý chi tiết và 15 Bài văn mẫu xuất sắc
Phân tích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 15 bài văn mẫu xuất sắc cùng 3 dàn ý chi tiết, giúp học sinh nắm vững cách viết và tự tin thể hiện bài làm của mình một cách chính xác và sáng tạo.

Đoạn trích Chí khí anh hùng khắc họa cuộc chia tay giữa Thuý Kiều và Từ Hải với sự dứt khoát, mạnh mẽ, làm nổi bật khí phách anh hùng của Từ Hải. Dưới đây là 3 dàn ý và 15 bài văn mẫu phân tích sâu sắc, mời bạn đọc tham khảo. Ngoài ra, bạn có thể xem thêm bài Cảm nhận về Độc Tiểu Thanh kí.
Dàn ý phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng
1. Mở bài:
- Tác giả: Nguyễn Du, đại thi hào và danh nhân văn hóa Việt Nam.
- Tác phẩm: Trích từ Truyện Kiều, khắc họa tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải.
2. Thân bài:
* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:
- Sau nửa năm sống cùng Kiều, Từ Hải đã nghĩ đến sự nghiệp lớn lao.
- “Động lòng bốn phương” thể hiện chí lớn và trách nhiệm của người nam nhi.
- “Trượng phu” là từ ngữ ca ngợi người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng đáng kính phục.
- “Thoắt” diễn tả sự thay đổi nhanh chóng trong tâm trạng và dáng vẻ của Từ Hải.
- Từ Hải nhanh chóng vượt qua tình cảm cá nhân để hướng đến sự nghiệp lớn của đời mình.
- “Mênh mang” làm nổi bật sự rộng lớn của trời đất và tư thế hiên ngang của Từ Hải giữa vũ trụ bao la.
- “Trông vời” thể hiện cái nhìn xa rộng và sáng suốt của Từ Hải.
- Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường, thể hiện quyết tâm và bản lĩnh của người anh hùng.
- Từ Hải ra đi không lưu luyến, coi Kiều là tri kỷ nhưng không để tình cảm cá nhân cản trở sự nghiệp lớn.
* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:
- Từ Hải hứa với Kiều rằng khi nào “mười vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngập đất, bóng tinh rợp đường”, và “Làm cho rõ mặt phi thường”, sự nghiệp ổn định, chàng sẽ cưới nàng, mang đến cho nàng cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
- Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: chàng tin chắc rằng một năm sau sẽ trở về trong vinh quang, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng của mình.
* Sự dứt khoát của Từ Hải:
- Chim bằng, loài chim biểu tượng cho sự dũng mãnh và ý chí, được tác giả ví với Từ Hải. Đã đến lúc chàng tung đôi cánh để theo đuổi khát vọng của mình.
- “Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí kiên định và quyết tâm sắt đá của Từ Hải.
* Nghệ thuật:
- Sử dụng tính chất ước lệ tượng trưng theo phong cách văn học trung đại, lời thơ sâu sắc và giàu hình ảnh.
3. Kết bài:
Đoạn trích Chí khí anh hùng là một đoạn trích đặc sắc và ý nghĩa, ca ngợi chí làm trai, khí phách của bậc đại trượng phu, và lí tưởng về người anh hùng mang ánh sáng hy vọng cho đời. Đồng thời, nó thể hiện tình cảm sâu sắc giữa Từ Hải và Kiều, cùng những ước vọng đẹp đẽ về tương lai.

Phân tích Chí khí anh hùng siêu hay - Mẫu 1
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ bày tỏ sự đồng cảm và trân trọng với những con người tài hoa nhưng bạc mệnh như Thúy Kiều, mà còn thể hiện ước mơ về hình tượng người anh hùng lý tưởng, người mang ánh sáng hy vọng giữa xã hội thối nát. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Chí khí anh hùng.
Sau nhiều năm lưu lạc, chịu đựng bao khổ ải và tủi nhục nơi phong trần, Thúy Kiều đã gặp Từ Hải. Người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất ấy như ánh sáng chói lọi giữa cuộc đời tăm tối của nàng. Từ Hải không chỉ cứu Kiều khỏi chốn lầu xanh, giúp nàng báo ân báo oán, mà còn coi nàng như tri kỷ. Vẻ đẹp về tầm vóc và lý tưởng của Từ Hải được Nguyễn Du khắc họa rõ nét qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.
Từ Hải trong Truyện Kiều được miêu tả với vẻ đẹp mạnh mẽ: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, dáng vóc tráng kiện, lực lưỡng của người anh hùng quen với chuyện binh đao. Nguyễn Du còn nhấn mạnh hai nét đẹp ấn tượng của Từ Hải: “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài”. Vì thế, Từ Hải không phải người an phận, sống cuộc đời cẩm y ngọc thực như Thúc Sinh, cũng không kiên nhẫn chờ đợi công danh qua thi cử như Kim Trọng. Với chàng, chinh chiến và thao lược là con đường tất yếu để khẳng định bản thân trong xã hội đầy biến động. Chỉ sau “nửa năm hương lửa đương nồng” với Kiều, Từ Hải đã dứt áo ra đi, từ bỏ cuộc sống êm đềm để thỏa chí làm trai:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Câu thơ thể hiện ý chí mạnh mẽ và quyết tâm làm nên nghiệp lớn của Từ Hải. Từ “thoắt” diễn tả sự dứt khoát, quyết tâm cao độ, sự chuyển đổi nhanh chóng từ cuộc sống êm đềm sang hành trình gian khổ vì sự nghiệp. Cụm từ “động lòng bốn phương” khắc họa tầm vóc lớn lao trong ý chí của Từ Hải, cùng khát vọng làm chủ một phương trời. Hai chữ “trượng phu” thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ của Nguyễn Du đối với hình tượng người anh hùng lý tưởng, người mang trong mình phẩm chất đạo đức cao đẹp, tráng chí bốn phương, và tấm lòng bao dung, thấu hiểu nhân tình thế thái.
“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Tráng chí và hoài bão lớn lao của Từ Hải được thể hiện qua câu thơ “trông vời trời bể mênh mang”, khi chàng hướng mắt về chân trời xa, khát khao vươn ra biển lớn, thoát khỏi cuộc sống tầm thường. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” khắc họa sự quyết đoán và tự tin của người anh hùng, sẵn sàng dấn thân vì sự nghiệp lớn.
Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều, vốn thông minh và nhạy bén, không hề ngăn cản dù trong lòng đầy buồn bã. Nàng xin được theo chàng để nâng khăn sửa áo, cùng sánh bước trên đường đời:
“Nàng rằng:"Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Trước đề nghị của Kiều, Từ Hải nhẹ nhàng khuyên nhủ nàng gác lại chuyện nữ nhi thường tình, ủng hộ chàng trên con đường lập nghiệp. Những lời này không chỉ là lời khuyên mà còn là sự động viên sâu sắc, khẳng định vị trí quan trọng của Kiều trong lòng Từ Hải.
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Từ Hải bộc lộ quyết tâm làm nên nghiệp lớn, sở hữu đội quân hùng mạnh “mười vạn tinh binh”, sức mạnh phi thường “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”. Chàng hứa sẽ trở về trong vinh quang, đưa Kiều về làm vợ, mang đến cho nàng cuộc sống hạnh phúc, không còn tủi nhục. Động lực lớn nhất của Từ Hải không chỉ là trả nợ công danh mà còn là mong muốn mang lại hạnh phúc cho Kiều.
Sau khi bày tỏ khát vọng, Từ Hải cũng bộc lộ nỗi lo lắng và tầm nhìn xa trông rộng khi nói với Kiều:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”.
Những ngày đầu lập nghiệp, Từ Hải chỉ có một mình, một gươm, một ngựa, chưa có nền tảng vững chắc. Đối với nam nhi, cảnh bốn bể là nhà, phiêu bạt khắp nơi là chuyện thường tình, nhưng với Thúy Kiều, thân phận liễu yếu đào tơ, điều đó thực sự gian khó. Từ Hải lo sợ Kiều phải chịu cảnh vất vả, mệt nhọc, khiến chàng không yên lòng để tập trung vào sự nghiệp lớn. Vì vậy, để Kiều ở nhà chờ chàng trở về là lựa chọn sáng suốt nhất. Để an ủi nàng, Từ Hải đã hứa hẹn:
“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Việc Từ Hải đặt ra mốc thời gian không chỉ thể hiện quyết tâm lập công danh nhanh chóng mà còn là lời an ủi, động viên sâu sắc dành cho Thúy Kiều, giúp nàng yên tâm chờ đợi. Sau những lời tâm tình, Từ Hải dứt khoát chia tay Kiều để lên đường. Hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” mang tính biểu tượng lớn, ẩn dụ cho sự thành công lẫy lừng của Từ Hải sau này, thể hiện tầm vóc sánh ngang với loài chim bằng, vùng vẫy giữa biển khơi. Cảnh chim bằng vỗ cánh bay lên khắc họa hình ảnh người anh hùng ra đi lập nghiệp, sánh ngang trời đất, không phụ chí nam nhi, không phụ hồng nhan.
Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều là một đoạn trích đặc sắc, tập trung khắc họa hình tượng người anh hùng Từ Hải với vẻ đẹp lý tưởng, tráng chí nam nhi phi thường, dứt khoát trong tình cảm nữ nhi thường tình, và sự tinh tế trong cách đối đáp với Thúy Kiều. Qua đó, mối tình Từ Hải – Thúy Kiều càng thêm đẹp đẽ, xứng đáng với mấy chữ “trai tài gái sắc”. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi để Thúy Kiều, dù trong chuỗi ngày lưu lạc 15 năm, cũng có những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi, dù chỉ là thoáng qua trong bi kịch dài của đời nàng.
Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 2
Tố Hữu từng dành những lời ngợi ca sâu sắc nhất cho đại thi hào Nguyễn Du:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi câu thơ trong tác phẩm đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi nhân dày công chắp bút. Ẩn sau số phận mỗi nhân vật là những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Trong số những đoạn trích của Truyện Kiều, “Chí khí anh hùng” là minh chứng tiêu biểu cho khát vọng tự do, công lý và sự nghiệp lớn lao của người anh hùng.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc, từ câu 2213 đến 2230. Khi Thúy Kiều đang chìm đắm trong đau khổ nơi lầu xanh, Từ Hải xuất hiện và cứu nàng khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi. Nhờ Từ Hải, Kiều được báo ân báo oán, hưởng hạnh phúc vợ chồng. Tuy nhiên, tình yêu không thể che khuất khát vọng lập nghiệp lớn của Từ Hải. Chỉ sau “nửa năm” chung sống, chàng đã lên đường thực hiện hoài bão. Đoạn trích miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Kiều để ra đi.
Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện”, Nguyễn Du đã dựng nên cảnh li biệt đầy xúc động giữa Từ Hải và Thúy Kiều, qua đó hoàn thiện hình tượng người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Bốn câu thơ đầu khắc họa rõ nét hình ảnh Từ Hải trước lúc lên đường:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
“Nửa năm” là khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc. Nguyễn Du đặt Từ Hải trong hai không gian đối lập: một bên là không gian khuê phòng “hương lửa đương nồng”, một bên là không gian vũ trụ bao la. Từ Hải, đấng “trượng phu”, không do dự mà quyết định lên đường. Các từ ngữ “thoắt”, “động lòng bốn phương” thể hiện quyết tâm nhanh chóng, dứt khoát. Ánh mắt “trông vời trời bể mênh mang” hướng về không gian rộng lớn, nơi chàng thỏa chí vẫy vùng. Hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” khắc họa tư thế tự tin, hiên ngang của người anh hùng.
Cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt và lưu luyến. Kiều không muốn ở lại một mình, nàng tha thiết xin đi theo Từ Hải:
“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Theo đạo Nho, phận nữ nhi “xuất giá tòng phu”. Kiều muốn đi theo Từ Hải là hợp tình hợp lý. Từ Hải là điểm tựa duy nhất của Kiều, người đã cứu nàng khỏi lầu xanh. Tình yêu và sự cảm thông khiến Kiều muốn gắn bó với chàng. Tuy nhiên, Từ Hải đáp lại:
“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Từ Hải khuyên Kiều vượt lên suy nghĩ truyền thống, không cần sống theo đạo tam tòng. Chàng từ chối khéo léo, thể hiện sự thấu hiểu và tình cảm tri kỷ với Kiều. Từ Hải còn vẽ ra viễn cảnh tương lai:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”
Bút pháp ước lệ tượng trưng cùng hình ảnh phóng đại “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh” khắc họa sự kỳ vĩ, hùng tráng của chiến công. Từ Hải muốn khẳng định danh tiếng và đón Kiều về với nghi lễ trang trọng. Đó là chí khí anh hùng gắn liền với tình yêu thương. Dù cứng rắn, Từ Hải vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm dành cho Kiều.
“Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Từ Hải biết rõ con đường mình đi “bốn bể không nhà”, đầy gian khổ, nhưng chàng vẫn quyết tâm lên đường và dùng lý do này để khuyên Kiều ở lại. Chàng mong nàng thấu hiểu và cảm thông cho nỗi khổ tâm của mình, cũng như những khó khăn ban đầu của sự nghiệp. Lời hứa “một năm sau” thể hiện quyết tâm và ý chí phi thường của Từ Hải. Qua cuộc đối thoại giữa Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du khắc họa hình tượng người anh hùng vừa giản dị, đời thường, vừa mang khát vọng lớn lao. Từ Hải không chỉ có hoài bão mà còn rất tâm lý, yêu thương và trân trọng Thúy Kiều.
Đoạn trích kết thúc với hai câu thơ ấn tượng, sử dụng hình ảnh ước lệ:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”
Nhịp thơ 2-2-2 cùng các động từ mạnh “quyết”, “dứt”, “ra đi” diễn tả sự dứt khoát, mạnh mẽ của Từ Hải. Chàng không chút do dự, luôn quyết đoán trong mọi hoàn cảnh. Hình ảnh “chim bằng” và ẩn dụ về gió mây tô đậm tư thế hiên ngang, phi thường của Từ Hải giữa vũ trụ bao la. Nguyễn Du đã chọn những hình ảnh đẹp nhất để tôn vinh Từ Hải, thể hiện cái nhìn lạc quan và bay bổng.
Qua ngòi bút của Nguyễn Du, “Chí khí anh hùng” được vẽ nên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, với hình ảnh “bốn bể”, “chim bằng”… lấy cái bao la của vũ trụ để khắc họa khát vọng lớn lao của Từ Hải. Tác giả còn thổi hồn vào tác phẩm cảm hứng lãng mạn, thể hiện tình yêu thương và niềm tin tưởng giữa Từ Hải và Thúy Kiều. Mối quan hệ của họ không chỉ là tình yêu đôi lứa mà còn là sự thấu hiểu sâu sắc, “tâm phúc tương tri”. Nguyễn Du đã lí tưởng hóa hình tượng Từ Hải – người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ, biểu tượng của khát vọng tự do và tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Như vậy, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao, ý chí sắt đá và tư thế hiên ngang. Nhờ đó, nhân vật Từ Hải luôn sống mãi trong lòng độc giả, trở thành biểu tượng bất hủ của văn học Việt Nam.
Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 3
Truyện Kiều được xem là đỉnh cao chói lọi của truyện thơ Nôm, là quốc hồn, quốc túy của dân tộc, một kiệt tác văn học Việt Nam. Đọc tác phẩm, ta không khỏi xót xa trước số phận bạc mệnh của nàng Kiều tài hoa, căm phẫn trước Hoạn Thư ích kỷ, Tú Bà độc ác, hay Mã Giám Sinh giả nhân giả nghĩa. Đồng thời, ta cũng đồng cảm với Thúc Sinh, dù nhu nhược nhưng trọng tình nghĩa. Và đặc biệt, ta không thể quên hình ảnh Từ Hải, người anh hùng lý tưởng với phẩm chất và chiến công phi thường. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa rõ nét cốt cách của người anh hùng này.
"Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong ”
Tình yêu giữa Từ Hải và Thúy Kiều vượt qua bao sóng gió để đến được với nhau. Dù tình cảm đang mặn nồng, Từ Hải vẫn nuôi chí lớn, quyết tâm lập công danh nơi biên ải xa xôi. Chàng tạm gác lại hạnh phúc gia đình để ra đi xây dựng sự nghiệp. Điều này cho thấy Từ Hải không chỉ là người của đam mê thông thường mà còn là người của chiến công và sự nghiệp hiển hách. Hình ảnh Từ Hải lên đường một mình một ngựa thể hiện khí phách của người anh hùng dũng cảm, dứt khoát, không để tình riêng vướng bận. Chàng mang trong mình khát khao vùng vẫy bốn bể năm châu, một lý tưởng cao đẹp của bậc anh hùng.
“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.”
Sự nghiệp vinh quang đang chờ đón Từ Hải phía trước. Chàng ra đi không chút do dự, một lòng hướng về chí lớn. Từ “thoắt” thể hiện sự nhanh chóng, quyết đoán của người anh hùng. Từ Hải không thể giam mình trong không gian chật hẹp khi chí lớn chưa thành. Quyết định ra đi không dễ dàng, nhưng đó là lựa chọn sáng suốt và vững vàng, thể hiện chí nguyện anh hùng trong con người Từ Hải.
"Kiều rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Trải qua bao bể dâu, Kiều hiểu rõ chí hướng của Từ Hải. Nàng không ngăn cản mà ủng hộ, mong muốn được cùng chồng sẻ chia gian nan nơi chiến trận. Đó là vẻ đẹp trong nhân cách của Kiều, một người phụ nữ thấu hiểu và trân trọng chí lớn của người mình yêu.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Từ Hải khẳng định tình cảm khăng khít giữa hai người nhưng cũng nhẹ nhàng trách Kiều chưa thoát khỏi suy nghĩ thông thường của phận nữ nhi. Chàng mong nàng mạnh mẽ, cứng cỏi hơn. Qua lời nói của Từ, tình yêu thương và sự trân trọng dành cho Kiều được bộc lộ rõ nét.
Trong mọi cuộc chia ly, người phụ nữ thường là người chờ đợi và u sầu hơn cả. Từ Hải hiểu rõ điều đó, nhưng phút chia tay này không quá bi lụy mà hướng tới những chiến công hiển hách, tạo niềm tin nơi Thúy Kiều:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”
Từ Hải hình dung về tương lai với mười vạn tinh binh, tiếng chiêng dậy đất, bóng cờ rợp trời trong hào khí chiến thắng. Chàng tin tưởng vào những gì mình làm và hứa sẽ trở về trong vinh quang, mang lại hạnh phúc cho Kiều. Lời hứa “một năm sau” thể hiện quyết tâm và bản lĩnh của Từ Hải.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đây không chỉ là lời hứa mà còn là lời thề hẹn đinh ninh. Từ Hải khuyên Kiều hãy yên lòng chờ đợi, vì chàng sẽ trở về trong vinh quang. Chí anh hùng của Từ Hải không chỉ là hoài bão, khát khao mà còn là trách nhiệm, đạo đức, và tấm lòng trượng nghĩa.
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Hành động của Từ Hải thể hiện sự quyết đoán, nhanh chóng: “quyết lời”, “dứt áo ra đi”. Chàng không để tình cảm quyến luyến làm lung lay ý chí, thể hiện sự nhất quán giữa suy nghĩ và hành động.
Nguyễn Du tinh tế khi sử dụng hình ảnh “chim bằng” và “gió mây”, những biểu tượng quen thuộc trong văn chương cổ điển, để khắc họa hình tượng người anh hùng với lý tưởng cao đẹp và bản lĩnh phi thường. Từ Hải sánh ngang tầm vóc vũ trụ, thỏa sức vùng vẫy giữa biển trời để thực hiện chí lớn của bậc đại trượng phu.
Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du thể hiện ước mơ về người anh hùng lý tưởng với khát vọng lớn lao và tấm lòng cao cả. Đồng thời, tác phẩm mang đến bài học quý giá cho thế hệ trẻ về mục đích và lý tưởng sống. Hãy can đảm tiến về phía trước, đặt ra mục tiêu và kiên trì theo đuổi. Dù gian nan, thử thách, hãy giữ vững niềm tin vào bản thân. Thành công sẽ đến với những ai tận lực và tận tâm.
Phân tích Chí khí anh hùng - Mẫu 4
Nguyễn Du, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của Việt Nam, được tôn vinh là đại thi hào. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại nhiều tác phẩm giá trị, nổi bật nhất là kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng tiêu biểu cho việc Nguyễn Du khắc họa chân dung và khát vọng vĩ đại của người anh hùng Từ Hải.
Nguyễn Du, tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ. Ông được tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc". Gia đình ông có truyền thống khoa bảng, xuất thân từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, sau di cư vào Hà Tĩnh. Nguyễn Du thông thạo cầm, thư, thi, họa, và là tác giả của nhiều thể loại thơ, đặc biệt là thơ Nôm với đỉnh cao là Truyện Kiều.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến 2230 trong Truyện Kiều, khắc họa Từ Hải như một nhân vật lý tưởng với ước mơ lãng mạn về người anh hùng phi thường. Bốn câu đầu thể hiện khát vọng lên đường của Từ Hải:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".
Từ Hải, một tráng sĩ với chí khí mạnh mẽ, quyết định rời xa Thúy Kiều để thực hiện lý tưởng. Hình ảnh "trời bể mênh mang" phản ánh ý chí lớn lao của chàng. Trước khi gặp Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng với câu nói "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai".
Cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải đầy nước mắt và nỗi buồn:
"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Thúy Kiều, trong lúc tình cảm đang nồng nàn, không muốn xa cách Từ Hải. Nàng muốn theo chồng để chia sẻ những khó khăn, dù biết trước là gian nan.
Từ Hải từ chối mong muốn của Kiều, phản ánh tinh thần của một người anh hùng chân chính:
"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"
Từ Hải coi Kiều là tri kỷ, hiểu mình hơn ai hết, nhưng vẫn trách nhẹ nàng vì chưa thoát khỏi tình cảm thông thường. Chàng khuyên Kiều vượt lên trên tình cảm đó để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Từ Hải hứa với Kiều:
"Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"
Chàng hứa sẽ trở về khi lập được sự nghiệp, với "mười vạn tinh binh" và "tiếng chiêng dậy đất", để cho Kiều một cuộc sống sung sướng. Từ Hải là người anh hùng với chí khí thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỷ.
Để từ chối khéo léo nguyện vọng đi theo của Kiều, Từ Hải đã dùng những lời lẽ đầy thuyết phục:
"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Từ Hải không muốn Kiều theo mình vì không muốn nàng phải chịu cảnh gian khổ. Bốn bể không nhà, làm sao một người con gái như Kiều có thể chịu đựng được? Việc gây dựng sự nghiệp không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, nên chàng không muốn vướng bận. Chàng hứa sẽ trở về sau một năm, an ủi Kiều bằng lời hứa chân thành. Từ Hải vừa là người chồng tâm lý, vừa là người anh hùng với khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải được miêu tả với sự dứt khoát:
"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".
Hành động "dứt áo ra đi" thể hiện sự quyết đoán, không vướng bận chuyện tình cảm cá nhân. Qua đó, Từ Hải hiện lên như một bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với trời đất. Hình ảnh chim bằng ẩn dụ cho thấy tư thế oai phong và sức mạnh vượt trội của chàng. Đây là cách nhìn lãng mạn của Nguyễn Du, thể hiện tâm hồn phóng khoáng và khát vọng lớn lao.
Với nghệ thuật sử dụng hình ảnh ước lệ, tượng trưng, cùng lời thoại đậm tính cách, Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải - một người anh hùng khí phách hiên ngang, hoài bão lớn lao và niềm tin mãnh liệt vào tài năng của mình. Nhân vật này được xây dựng bằng bút pháp ước lệ, ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao, góp phần tạo nên thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì tình cảm mà chùn bước.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - Mẫu 5
Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa sức vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Hay như:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầm vị ào ào gió thu”
( Chinh phụ ngâm_ Đoàn Thị Điểm)
Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.
Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:
Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”
Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:
Từ rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:
“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”
Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thảy bạn đọc.
Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - Mẫu 6
Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".
Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".
Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương". Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân. Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.
Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:
"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:
"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"
Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.
Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:
"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.
Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:
"Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng"
thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".
Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.
"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - Mẫu 7

Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - Mẫu 8

Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một năm trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:
“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 - 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.
......
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu phân tích Chí khí anh hùng
- Chia sẻ và khám phá: Bài đọc Cau - Tiếng Việt 4 Cánh Diều, Tập 1, Bài 3 - Hành trình vào thế giới ngôn ngữ
- Tự đánh giá: Đồng cỏ nở hoa - Hướng dẫn chi tiết Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều tập 1 Bài 2
- Bài đọc: Những hạt thóc giống - Sách Tiếng Việt 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 3
- Góc sáng tạo: Đố vui Ai chăm, ai ngoan? - Khám phá thú vị trong SGK Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều tập 1 Bài 2
- Bài đọc: Một người chính trực - Sách Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều, Tập 1, Bài 3