Tổng hợp 23 bài tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy - Văn mẫu lớp 6 đặc sắc và ý nghĩa
Bánh chưng, bánh giầy là một truyền thuyết dân gian quen thuộc, in sâu vào tâm thức của người Việt Nam. EduTOPS mang đến Bài văn mẫu lớp 6: Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy, giúp học sinh khám phá sâu hơn về giá trị văn hóa và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm.

Với 23 mẫu tóm tắt đa dạng, nội dung chi tiết sẽ giúp các bạn học sinh lớp 6 nắm bắt trọn vẹn cốt truyện và ý nghĩa sâu sắc của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy, từ đó phát triển kỹ năng phân tích và cảm thụ văn học.
Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy - Đầy đủ và chi tiết nhất
Bài văn mẫu số 1 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Khi về già, vua Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho con. Tuy nhiên, nhà vua có đến hai mươi người con trai. Trong ngày lễ Tiên vương, vua ra lệnh: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại vô cùng lo lắng. Một đêm nọ, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo hãy dùng gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, bọc lá xanh bên ngoài, đặt nhân vào trong. Tỉnh dậy, Lang Liêu làm theo lời thần. Đến ngày lễ, các hoàng tử mang đủ sơn hào hải vị đến dâng vua. Khi thấy mâm bánh của Lang Liêu, vua Hùng gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ, giải thích nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Vua nghe xong rất hài lòng, quyết định chọn bánh của Lang Liêu dâng lên Tiên vương và truyền ngôi cho chàng.
Bài văn mẫu số 2 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho con. Dù có hai mươi người con trai, ngôi báu chỉ có thể trao cho một người. Vua ra lệnh cho các hoàng tử chuẩn bị mâm lễ cúng Trời Đất và tổ tiên. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, hy vọng được truyền ngôi. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại băn khoăn không biết nên làm gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo hãy dùng gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, bọc lá xanh bên ngoài, đặt nhân vào trong. Tỉnh dậy, Lang Liêu chọn gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, vo sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói thành hình vuông, nấu chín nhừ. Để đổi vị, chàng cũng dùng gạo nếp đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành bánh hình tròn. Đến ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử mang đủ sơn hào hải vị đến dâng vua. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước mâm bánh của Lang Liêu, rất hài lòng, liền gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần, giải thích nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Vua ngẫm nghĩ rồi chọn hai thứ bánh đem lễ Trời Đất và Tiên vương. Lang Liêu được truyền ngôi. Từ đó, người dân chăm lo trồng trọt, và hàng năm vào dịp Tết, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất.
Bài văn mẫu số 3 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua tuổi đã cao nên muốn truyền ngôi cho con. Trong ngày lễ Tiên vương, vua ra lệnh: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc đồng áng, trong nhà chỉ có khoai lúa. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Tỉnh dậy, Lang Liêu nghe theo lời thần, dùng gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh hình vuông và hình tròn. Đến ngày lễ, các hoàng tử mang đủ sơn hào hải vị, trong khi mâm cỗ của Lang Liêu chỉ có hai loại bánh. Vua Hùng ngạc nhiên, gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần, giải thích nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Vua nghe xong rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Vua đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng, tượng trưng cho Trời, và bánh hình tròn là bánh giầy, tượng trưng cho Đất. Lá bọc bên ngoài ngụ ý sự đùm bọc lẫn nhau. Từ đó, nhân dân chăm lo trồng trọt, chăn nuôi, và tục gói bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết trở thành nét văn hóa đặc sắc.
Bài văn mẫu số 4 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, khi tuổi đã cao, nhà vua muốn truyền ngôi cho con. Tuy nhiên, vua có đến hai mươi người con trai nên không biết chọn ai. Trước ngày lễ Tiên vương, vua ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ. Riêng Lang Liêu, con trai thứ mười tám của vua, lại rất buồn lòng. Mẹ chàng trước kia bị vua ghẻ lạnh, ốm rồi qua đời, nên so với anh em, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Từ nhỏ quen với việc đồng áng, trong nhà chỉ có khoai lúa, chàng không biết lấy gì để dâng lên vua cha. Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Tỉnh dậy, chàng nghe theo lời thần, dùng gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh hình vuông và hình tròn để dâng lên vua. Nhà vua rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Vua đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng, tượng trưng cho Trời, và bánh hình tròn là bánh giầy, tượng trưng cho Đất. Lá bọc bên ngoài ngụ ý sự đùm bọc lẫn nhau. Từ đó, nhân dân chăm lo trồng trọt, chăn nuôi, và tục làm bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết trở thành nét văn hóa đặc trưng.
Bài văn mẫu số 5 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn chọn trong số hai mươi người con trai một người tài đức để nối ngôi nên đã đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, ai làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau chuẩn bị lễ vật thật hậu, thật ngon. Riêng Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì từ nhỏ chỉ quen với việc trồng khoai, trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo, liền lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai loại bánh, một hình tròn, một hình vuông, để dâng lên vua. Vua thấy bánh ngon, lại mang ý nghĩa sâu sắc, bèn lấy hai thứ bánh ấy dâng lên Trời, Đất và Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng, rồi truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, tục gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.
Bài văn mẫu số 6 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu có hai mươi người con trai và muốn chọn một người xứng đáng nối ngôi. Vua ra lệnh rằng, trong lễ Tiên Vương, ai làm vừa lòng vua sẽ được truyền ngôi. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại rất buồn lòng vì từ nhỏ chỉ quen với việc trồng trọt, trong nhà chỉ có lúa gạo, ngô khoai, không biết lấy gì để dâng lên vua. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo hãy dùng những hạt gạo quý giá mà chàng có để làm lễ vật. Nghe theo lời thần, Lang Liêu chọn gạo nếp ngon nhất làm ra hai loại bánh, một hình vuông và một hình tròn. Đến ngày lễ, vua rất hài lòng với mâm bánh của Lang Liêu, bèn đặt tên bánh hình vuông là bánh chưng, tượng trưng cho đất, và bánh hình tròn là bánh giầy, tượng trưng cho trời. Vua dùng bánh của Lang Liêu để lễ Trời, Đất và Tiên Vương, rồi truyền ngôi cho chàng. Từ đó, nhân dân ta có truyền thống làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết.
Bài văn mẫu số 7 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi nên đã ra điều kiện: các con của vua ai làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được nối ngôi. Các hoàng tử đua nhau lên rừng xuống biển tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên tổ tiên, hy vọng được vua cha truyền ngôi. Riêng Lang Liêu, hoàng tử thứ mười tám, mẹ mất sớm nên rất lo lắng, không biết phải dâng gì lên vua cha. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo cách làm một loại bánh, sau này được gọi là bánh chưng và bánh giầy. Lang Liêu bắt tay vào làm, chọn gạo nếp thơm ngon, dùng lá gói bên ngoài tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ, gói thành bánh hình vuông. Xôi sau khi giã nhuyễn được nặn thành bánh hình tròn. Hai loại bánh này, một vuông một tròn, tượng trưng cho trời và đất. Khi các hoàng tử khác dâng lên vua cha đủ thứ sơn hào hải vị, Lang Liêu dâng lên hai loại bánh. Vua thấy lạ, hỏi han, chàng kể lại câu chuyện giấc mơ và ý nghĩa của bánh. Vua rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, sự tích bánh chưng, bánh giầy ra đời và trở thành nét văn hóa đặc trưng của người Việt.
Bài văn mẫu số 8 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Truyện cổ tích Bánh chưng, bánh giầy kể về vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho người con vừa có đức vừa có tài. Vua có hai mươi người con trai, nên nhân dịp lễ Tiên Vương, ông ra điều kiện: ai tìm được thức ngon vật lạ vừa ý vua để dâng lên bàn thờ tổ tiên sẽ được truyền ngôi. Các hoàng tử đua nhau sắm lễ vật thật hậu, thật ngon lạ để dâng lên tổ tiên, hy vọng được vua cha truyền ngôi. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc đồng áng, không biết phải làm thế nào. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo cách làm một loại bánh từ gạo nếp, đậu xanh và thịt heo, nặn thành hai loại bánh: hình tròn tượng trưng cho trời, hình vuông tượng trưng cho đất. Đến ngày lễ, sau khi các hoàng tử khác dâng lễ vật không vừa ý vua, Lang Liêu dâng lên hai loại bánh. Vua cha thấy bánh vừa ngon lại mang ý nghĩa sâu sắc, bèn quyết định truyền ngôi cho chàng. Từ đó, tục gói bánh chưng, bánh giầy trở thành nét văn hóa đặc trưng của người Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về, thể hiện lòng thành kính đối với tổ tiên.
Bài văn mẫu số 9 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong số những người con trai nên đã đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau chuẩn bị của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ chỉ quen với việc “chăm lo đồng áng, trồng khoai trồng lúa,” nên không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Nghe theo lời thần, Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, đặt tên là bánh chưng; hình tròn tượng trưng cho Đất, đặt tên là bánh giầy. Vua rất hài lòng với mâm bánh của Lang Liêu, quyết định truyền ngôi cho chàng. Ngày nay, bánh chưng và bánh giầy đã trở thành hai món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Bài văn mẫu số 10 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho con. Tuy nhiên, vua có đến hai mươi người con trai nên không biết chọn ai. Vua đưa ra điều kiện: người nối ngôi phải nối được trí vua, không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương. Các hoàng tử đua nhau sai người đi khắp nơi tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, mẹ chàng trước kia bị vua ghẻ lạnh rồi qua đời, để lại chàng một mình. So với các anh em, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Tuy là con vua, chàng sống giản dị, quen với việc đồng áng, trồng lúa trồng khoai, nên không biết phải làm gì. Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo hãy dùng gạo nếp quen thuộc làm lễ vật dâng vua. Chàng lấy gạo nếp vo sạch, dùng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, luộc chín trong một ngày một đêm. Cũng từ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành bánh hình tròn. Lang Liêu đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên Vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho chàng. Từ đó, hàng năm, mỗi dịp Tết đến, bánh chưng và bánh giầy trở thành món ăn không thể thiếu trong văn hóa người Việt.
Bài văn mẫu số 11 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho con. Tuy nhiên, vua có đến hai mươi người con trai nên không biết chọn ai. Vì vậy, vua đặt ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau lên rừng xuống biển tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên Tiên Vương. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc chăm lo đồng áng, trồng khoai trồng lúa, nên không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo. Tỉnh dậy, Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, đặt tên là bánh chưng; hình tròn tượng trưng cho Đất, đặt tên là bánh giầy. Vua Hùng rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, nhân dân ta có tục làm bánh chưng, bánh giầy trong những dịp lễ Tết.
Bài văn mẫu số 12 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã lớn tuổi nên muốn truyền ngôi cho con trai. Vua đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau chuẩn bị của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc “chăm lo đồng áng, trồng khoai trồng lúa,” nên không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Nghe theo lời thần, Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, đặt tên là bánh chưng; hình tròn tượng trưng cho Đất, đặt tên là bánh giầy. Vua rất hài lòng với mâm bánh của Lang Liêu, quyết định truyền ngôi cho chàng. Từ đó, nhân dân thường làm bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết để thể hiện lòng thành kính với tổ tiên.
Bài văn mẫu số 13 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời vua Hùng thứ sáu, khi tuổi đã cao, nhà vua muốn truyền ngôi cho con. Trước ngày lễ Tiên Vương, vua ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau đi khắp nơi tìm kiếm của ngon vật lạ. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, mẹ mất sớm, từ nhỏ đã quen với việc đồng áng, trong nhà chỉ có khoai lúa. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Tỉnh dậy, Lang Liêu nghe theo lời thần, dùng gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, đặt tên là bánh chưng; hình tròn tượng trưng cho Đất, đặt tên là bánh giầy. Vua rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Lá bọc bên ngoài ngụ ý sự đùm bọc lẫn nhau. Từ đó, nhân dân ta chăm lo trồng trọt, chăn nuôi, và tục gói bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết trở thành nét văn hóa đặc trưng.
Bài văn mẫu số 14 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã lớn tuổi nên muốn truyền ngôi cho con. Vua có mười hai người con trai đều tài giỏi, nên không biết chọn ai. Vì vậy, vua đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau sai người đi tìm kiếm của ngon vật lạ khắp đất nước. Riêng Lang Liêu, so với các anh em, là người thiệt thòi nhất. Chàng sống giản dị, quen với việc chăm lo đồng áng. Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo hãy dùng gạo nếp quen thuộc làm lễ vật. Tỉnh dậy, chàng lấy gạo nếp vo sạch, dùng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, luộc chín trong một ngày một đêm. Cũng từ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành bánh hình tròn. Lang Liêu đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên Vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho chàng. Từ đó, hàng năm, mỗi dịp Tết đến, bánh chưng và bánh giầy trở thành món ăn không thể thiếu trong văn hóa người Việt.
Bài văn mẫu số 15 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Ngày xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua muốn truyền ngôi cho một trong mười hai người con trai. Vua đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau chuẩn bị của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc “chăm lo đồng áng, trồng khoai trồng lúa,” nên không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Nghe theo lời thần, Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, đặt tên là bánh chưng; hình tròn tượng trưng cho Đất, đặt tên là bánh giầy. Vua rất hài lòng với mâm bánh của Lang Liêu, quyết định truyền ngôi cho chàng. Ngày nay, bánh chưng và bánh giầy đã trở thành hai món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Bài văn mẫu số 16 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời vua Hùng thứ sáu, khi tuổi đã cao, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con trai. Để chọn người phù hợp, nhân dịp lễ cúng Tiên Vương, vua ra điều kiện: ai dâng lễ vật vừa ý vua sẽ được truyền ngôi. Các hoàng tử đua nhau sai người đi khắp nơi tìm kiếm của ngon vật lạ. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, từ nhỏ đã mất mẹ, quen với việc đồng áng, không biết phải làm gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo hãy làm bánh từ gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, nặn thành hai loại bánh: bánh tròn tượng trưng cho trời, bánh vuông tượng trưng cho đất. Đến ngày lễ, các hoàng tử khác dâng lễ vật nhưng không vừa ý vua. Khi Lang Liêu dâng bánh, vua cha thấy vừa ngon lại mang ý nghĩa sâu sắc, bèn chọn làm lễ vật tế lễ và truyền ngôi cho chàng. Từ đó, tục gói bánh chưng, bánh giầy trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt, thể hiện lòng thành kính với tổ tiên.
Bài văn mẫu số 17 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi tuổi đã cao, muốn truyền ngôi cho con. Vua có đến hai mươi người con trai, ai cũng tài giỏi nên không biết chọn ai. Vì vậy, vua đưa ra điều kiện: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau sai người đi tìm kiếm của ngon vật lạ khắp đất nước. Riêng Lang Liêu, so với các anh em, là người thiệt thòi nhất. Chàng sống giản dị, quen với việc chăm lo đồng áng. Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo hãy dùng gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, tượng trưng cho Trời và Đất. Tỉnh dậy, chàng làm theo lời thần, làm ra hai loại bánh dâng lên vua cha. Vua rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.
Bài văn mẫu số 18 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã lớn tuổi nên muốn tìm người nối ngôi. Vua có đến hai mươi người con trai, nên không biết chọn ai. Vua truyền lệnh cho các hoàng tử chuẩn bị mâm lễ cúng Trời Đất và tổ tiên. Các hoàng tử đua nhau chuẩn bị của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, từ nhỏ đã quen với việc chăm lo đồng áng, trồng khoai trồng lúa, nên không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo. Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình tròn tượng trưng cho Trời, hình vuông tượng trưng cho Đất. Vua rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Ngày nay, bánh chưng và bánh giầy đã trở thành hai món ăn không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Bài văn mẫu số 19 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua tuổi đã cao nên muốn truyền ngôi cho con. Tuy nhiên, vua có đến hai mươi người con trai nên không biết chọn ai. Đến ngày lễ Tiên Vương, vua ra lệnh: “Không cần phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa lòng vua trong lễ Tiên Vương sẽ được truyền ngôi.” Các hoàng tử đua nhau sai người đi khắp nơi tìm kiếm của ngon vật lạ để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại băn khoăn không biết phải chuẩn bị lễ vật gì. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra bảo: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo.” Tỉnh dậy, Lang Liêu lấy gạo nếp quen thuộc làm ra hai loại bánh: hình vuông tượng trưng cho Trời, hình tròn tượng trưng cho Đất. Đến ngày lễ, các hoàng tử mang đủ sơn hào hải vị đến dâng vua. Khi thấy mâm bánh của Lang Liêu, vua Hùng ngạc nhiên, gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần, giải thích nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Vua nghe xong rất hài lòng, quyết định chọn bánh của Lang Liêu dâng lên Tiên Vương và truyền ngôi cho chàng.
Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy - Ngắn gọn và súc tích
Bài văn mẫu số 1 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi về già, muốn truyền ngôi cho con. Vua ra lệnh: ai tìm được lễ vật cúng Tiên Vương vừa ý sẽ được truyền ngôi. Các hoàng tử đua nhau lên rừng xuống biển tìm kiếm của ngon vật lạ. Riêng Lang Liêu, mất mẹ từ nhỏ, sống quen với đồng ruộng, không biết phải tìm lễ vật ở đâu. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo hãy làm hai loại bánh từ gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn: bánh tròn tượng trưng cho trời, bánh vuông tượng trưng cho đất. Lang Liêu làm theo lời thần. Đến ngày giỗ, chàng dâng lễ vật lên vua cha. Vua Hùng rất hài lòng, quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.
Bài văn mẫu số 2 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Ngày xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, khi về già, vua muốn truyền ngôi cho con. Vua ra điều kiện: không phân biệt con trưởng hay con thứ, chỉ cần làm vừa lòng Tiên Vương sẽ được nối ngôi. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ từ rừng đến biển để dâng lên vua cha. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, sau khi nằm mơ thấy thần, đã làm hai loại bánh: một hình vuông, một hình tròn để dâng vua. Vua rất hài lòng, mang bánh lễ Tiên Vương và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, bánh chưng và bánh giầy trở thành lễ vật không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của người Việt.
Bài văn mẫu số 3 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu có hai mươi người con trai. Khi về già, vua muốn truyền ngôi cho con và đưa ra điều kiện: các con phải tìm lễ vật dâng lên Tiên Vương. Lang Liêu, người con thứ mười tám, vốn chịu nhiều thiệt thòi. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo. Chàng làm theo lời thần, làm ra hai loại bánh: một hình vuông, một hình tròn. Vua rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.
Bài văn mẫu số 4 - Tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu có hai mươi người con trai. Khi về già, vua muốn truyền ngôi cho con và đưa ra điều kiện: các con phải tìm lễ vật dâng lên trong lễ cúng Tiên Vương. Các hoàng tử đua nhau sai người đi khắp nơi tìm kiếm của ngon vật lạ. Riêng Lang Liêu, người con thứ mười tám, vốn chịu nhiều thiệt thòi. Một đêm, chàng nằm mơ thấy thần hiện ra mách bảo. Chàng làm theo lời thần, làm ra hai loại bánh: một hình vuông, một hình tròn. Vua rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Lời khuyên dành cho học sinh: Khi phân tích truyện Bánh chưng, bánh giầy, hãy chú ý đến ý nghĩa biểu tượng của hai loại bánh, sự sáng tạo của Lang Liêu và bài học về sự trung thực, sáng tạo trong cuộc sống. Để viết tốt, hãy lập dàn ý rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh và liên hệ với thực tế.
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt tác phẩm Học thầy, học bạn (5 bài mẫu) - Tuyển tập văn hay lớp 6
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt Lễ cúng thần lúa của người Chơ-ro (3 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu hay dành cho học sinh lớp 6
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt tác phẩm Lẵng quả thông (3 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu hay dành cho học sinh lớp 6
- Văn mẫu lớp 6: Tóm tắt tác phẩm Trái Đất - người mẹ thiên nhiên của muôn loài (3 bài mẫu) - Tuyển tập văn mẫu lớp 6 hay nhất
- Tóm tắt tác phẩm Tuổi thơ tôi - 9 bài văn mẫu lớp 6 đặc sắc