Phân tích và nghị luận văn học sâu sắc về đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu trong tác phẩm Quan Âm Thị Kính
Văn mẫu lớp 11: Phân tích và nghị luận sâu sắc về tình mẫu tử trong đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu cung cấp hướng dẫn chi tiết cùng 2 bài văn mẫu xuất sắc. Tài liệu này sẽ là nguồn tham khảo quý giá giúp học sinh nắm vững cách viết bài văn nghị luận văn học ấn tượng và sâu sắc.

TOP 2 bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu do EduTOPS biên soạn sẽ giúp học sinh rèn luyện kỹ năng viết và phát triển phong cách cá nhân. Hy vọng rằng, thông qua những bài văn mẫu này, các em sẽ ngày càng tiến bộ và tự tin hơn trong việc thể hiện khả năng viết lách của mình. Dưới đây là những bài văn mẫu chất lượng nhất, mời các bạn cùng tham khảo. Ngoài ra, các bạn có thể khám phá thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11 Chân trời sáng tạo.
Dàn ý nghị luận Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
a, Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
b, Thân bài
- Nguyên nhân dẫn đến bi kịch đau thương của Thị Kính, buộc nàng phải đổi tên thành Kính Tâm
- Kính Tâm quyết định nhận nuôi đứa trẻ bất chấp những lời dị nghị và sự phản đối từ sư Cụ và những người xung quanh
- Bất chấp mọi lời đàm tiếu, Kính Tâm vẫn kiên quyết nuôi dưỡng đứa bé, và lòng nhân ái của nàng đã khiến sư Cụ cảm động
- Dù người đời vẫn tiếp tục chỉ trích, Kính Tâm vẫn dành trọn tình yêu thương và chăm sóc đứa trẻ như con ruột của mình
- Niềm hy vọng của Kính Tâm rằng đứa trẻ sẽ trưởng thành và đạt được thành công rực rỡ trong tương lai
c, Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung sâu sắc và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm
- Thông điệp ý nghĩa mà em rút ra được từ đoạn trích này
Nghị luận về Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Truyện thơ Nôm là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn học Việt Nam, mang giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc. Những tác phẩm này không chỉ lưu giữ kinh nghiệm sống, phong tục tập quán mà còn phản ánh tinh thần và bản sắc dân tộc. Với thể thơ lục bát mượt mà, ca từ giản dị và âm hưởng sâu lắng, truyện thơ Nôm đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Trong số đó, đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” từ tác phẩm “Quan Âm Thị Kính” là một câu chuyện đầy ý nghĩa, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tấm lòng nhân hậu và sự hy sinh cao cả.
Đoạn trích kể về hành động cao đẹp của Thị Kính khi nhận nuôi đứa con của Thị Mầu, dù bản thân nàng phải chịu đựng nỗi oan ức và sự vu khống từ người đời.
Thị Kính vốn là con gái nhà nghèo, kết hôn với Thiện Sỹ, con trai của một phú ông. Một đêm nọ, khi Thiện Sỹ đang đọc sách và ngủ quên, Thị Kính nhìn thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, cho rằng đó là điềm gở, nàng định dùng kéo cắt đi. Đúng lúc Thiện Sỹ tỉnh dậy, hiểu lầm rằng vợ mình có ý định hãm hại nên hô hoán lên. Cha mẹ chồng là Sùng ông và Sùng bà nổi giận, đuổi Thị Kính về nhà cha mẹ đẻ. Đau khổ vì nỗi oan, Thị Kính định kết liễu cuộc đời, nhưng nghĩ đến cha mẹ già không ai chăm sóc, nàng quyết định cải trang thành nam nhi và đi tu tại chùa Vân Tự, đổi tên thành Kính Tâm.
Trong làng có Thị Mầu, một cô gái có tính cách lẳng lơ, đem lòng yêu say đắm Kính Tâm. Khi mang thai với người đầy tớ, Thị Mầu bị làng tra hỏi, nàng ta đổ tội cho Kính Tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu thêm một nỗi oan ức khác. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem đứa bé đến “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vốn là một nhà sư chân chính, ngày đêm tụng niệm, Kính Tâm bất ngờ nghe tiếng khóc của trẻ con. Dù biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ gây ra nhiều dị nghị, nhưng trái tim nhân hậu của Kính Tâm không cho phép nàng bỏ mặc đứa trẻ. Thị Mầu, với sự trơ trẽn của mình, đã không ngần ngại đẩy gánh nặng lên vai Kính Tâm.
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn Kính Tâm, vốn thanh tịnh và an nhiên, nay bị xáo trộn bởi nỗi oan ức. Dù biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ khiến nàng phải chịu thêm nhiều lời đàm tiếu, nhưng lòng nhân ái và tình yêu thương đã thôi thúc nàng hành động. Kính Tâm quyết định nuôi dưỡng đứa trẻ, coi đó như một hành động tích đức.
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
Sư phụ của Kính Tâm, khi biết chuyện, đã tỏ ra nghi ngờ và khuyên nàng không nên nhận nuôi đứa trẻ. Tuy nhiên, tấm lòng nhân hậu và nghĩa cử cao đẹp của Kính Tâm đã khiến sư phụ phải thay đổi suy nghĩ.
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm đã thuyết phục sư phụ bằng lý lẽ rằng việc cứu một sinh mệnh còn quý giá hơn cả việc xây dựng chín tầng tháp. Tấm lòng nhân ái của nàng đã khiến sư phụ cảm động và công nhận sự cao đẹp trong hành động của nàng.
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu kia tu có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Ca dao xưa có câu nói về việc tò vò nuôi con của người khác, nhưng khi con lớn lên, chúng sẽ bỏ đi. Điều này cũng phần nào phản ánh sự hy sinh thầm lặng của Kính Tâm khi nuôi dưỡng đứa con của Thị Mầu.
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?”
“Mẹ vò” trong trường hợp này cũng tương tự, dù biết rằng “nuôi con nhện” không phải là con ruột của mình, và dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn chăm lo cho đứa trẻ không thiếu thứ gì. Ngày đêm, Kính Tâm nâng niu, chăm sóc, xin sữa để nuôi dưỡng đứa bé, mong nó khôn lớn thành người. Miệng đời thật tàn nhẫn, họ không ngừng bàn tán rằng Kính Tâm sẽ không thể tu thành chính quả. Nhưng sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa ở, Kính Tâm và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ chưa bao giờ là dễ dàng, nhưng mỗi ngày nghe tiếng trẻ thơ ríu rít, mọi nỗi lo âu dường như tan biến:
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
...
Không gian tĩnh lặng, thanh tịnh của ngôi chùa linh thiêng giờ đây hòa lẫn với “tiếng ru” con của Kính Tâm. Ta có thể cảm nhận được rằng, tình mẫu tử không chỉ tồn tại giữa cha mẹ và con cái ruột thịt, mà còn hiện hữu trong tấm lòng từ bi của Kính Tâm. Dù không phải là con đẻ, nhưng Kính Tâm vẫn làm tròn bổn phận của một người cha mẹ, đứa trẻ được nuôi dưỡng trong điều kiện đầy đủ, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, tượng trưng cho sự chăm sóc sức khỏe chu đáo. Ba năm trôi qua, đứa bé đã lớn lên, mang nét giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người đã từ bỏ thân phận nữ nhi để tìm đến cửa Phật. Bậc làm cha mẹ nào cũng mong con cái mình trưởng thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, nàng mong ước đứa con của mình sẽ trở thành người tài giỏi, nối nghiệp ông cha, và thành công hơn cả thế hệ trước.
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ngôn từ giản dị nhưng sâu sắc của thể thơ lục bát, cùng lời thơ điêu luyện, đã làm nổi bật hình tượng Thị Kính như một biểu tượng cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Qua cuộc đời Thị Kính, tác giả đã phản ánh bức tranh xã hội đầy mâu thuẫn và bất công. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những ai đang tìm đến cửa Phật như một lối thoát. Để đạt được đạo quả, ta phải trải qua khổ hạnh và oan ức, giống như Thị Kính, dù chịu nhiều oan trái nhưng tấm lòng từ bi và thiện lành đã giúp nàng vượt qua mọi nghịch cảnh.
Nghị luận Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Truyện thơ Nôm là một kho tàng văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam, mang trong mình giá trị to lớn về kinh nghiệm sống, phong tục tập quán và kiến thức lịch sử. Với thể thơ lục bát mượt mà, truyện thơ Nôm không chỉ truyền tải cảm xúc sâu lắng mà còn phản ánh đậm nét bản sắc dân tộc. Trong kho tàng ấy, đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” từ tác phẩm “Quan Âm Thị Kính” là một câu chuyện kinh điển, để lại ấn tượng sâu sắc về tấm lòng nhân hậu và sự hy sinh cao cả của Thị Kính. Dù bị vu oan và ép buộc nhận nuôi đứa con của Thị Mầu, Thị Kính vẫn quyết định chăm sóc đứa bé như con ruột của mình.
Thị Kính xuất thân từ một gia đình nghèo khó, kết hôn với Thiện Sỹ, con trai của một phú ông. Một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngủ quên trong lúc đọc sách, Thị Kính nhìn thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng. Cô định cắt đi điềm gở đó, nhưng Thiện Sỹ tỉnh dậy và hiểu lầm rằng vợ mình có ý định hãm hại. Anh hô hoán lên, khiến cha mẹ là Sùng ông và Sùng bà nổi giận, đuổi Thị Kính về quê. Đau khổ vì nỗi oan, Thị Kính định kết liễu cuộc đời, nhưng nghĩ đến cha mẹ già không ai chăm sóc, cô quyết định cải trang thành nam nhi và đi tu tại chùa Vân Tự, đổi tên thành Kính Tâm.
Trong làng có Thị Mầu, một cô gái có tính cách lẳng lơ, đem lòng yêu say đắm Kính Tâm. Khi mang thai với người đầy tớ, Thị Mầu bị làng tra hỏi, cô ta đổ tội cho Kính Tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu thêm một nỗi oan ức khác. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem đứa bé đến “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
…
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Kính Tâm, một nhà sư chân chính, ngày đêm tụng niệm, bỗng giật mình khi nghe tiếng khóc của trẻ con. Dù biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ gây ra nhiều dị nghị, nhưng trái tim nhân hậu của Kính Tâm không cho phép nàng bỏ mặc đứa trẻ. Thị Mầu, với sự trơ trẽn của mình, đã không ngần ngại đẩy gánh nặng lên vai Kính Tâm.
Cơ thiển kể đã khắt khe
…
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn Kính Tâm, vốn thanh tịnh và an nhiên, nay bị xáo trộn bởi nỗi oan ức. Dù biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ khiến nàng phải chịu thêm nhiều lời đàm tiếu, nhưng lòng nhân ái và tình yêu thương đã thôi thúc nàng hành động. Kính Tâm quyết định nuôi dưỡng đứa trẻ, coi đó như một hành động tích đức.
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm đã thuyết phục sư phụ bằng lý lẽ rằng việc cứu một sinh mệnh còn quý giá hơn cả việc xây dựng chín tầng tháp. Tấm lòng nhân ái của nàng đã khiến sư phụ cảm động và công nhận sự cao đẹp trong hành động của nàng.
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
…
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Dù biết rằng “nuôi con nhện” không phải là con ruột của mình, và dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn chăm lo cho đứa trẻ không thiếu thứ gì. Ngày đêm, Kính Tâm nâng niu, chăm sóc, xin sữa để nuôi dưỡng đứa bé, mong nó khôn lớn thành người. Miệng đời thật tàn nhẫn, họ không ngừng bàn tán rằng Kính Tâm sẽ không thể tu thành chính quả. Nhưng sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa ở, Kính Tâm và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ chưa bao giờ là dễ dàng, nhưng mỗi ngày nghe tiếng trẻ thơ ríu rít, mọi nỗi lo âu dường như tan biến.
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
...
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
Trong không gian yên tĩnh và thanh tịnh của ngôi chùa linh thiêng, tiếng ru con của Kính Tâm vang lên nhẹ nhàng. Tình mẫu tử không chỉ tồn tại giữa cha mẹ và con cái ruột thịt, mà còn hiện hữu trong tấm lòng từ bi của Kính Tâm. Dù không phải là con đẻ, Kính Tâm vẫn làm tròn bổn phận của một người cha mẹ, chăm sóc đứa trẻ với đầy đủ điều kiện, từ “lọ phương hoạt ấu” đến “lọ thầy bảo anh”, tượng trưng cho sự chăm sóc sức khỏe chu đáo. Ba năm trôi qua, đứa bé đã lớn lên, mang nét giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người đã từ bỏ thân phận nữ nhi để tìm đến cửa Phật. Bậc làm cha mẹ nào cũng mong con cái mình trưởng thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, nàng mong ước đứa con của mình sẽ trở thành người tài giỏi, nối nghiệp ông cha, và thành công hơn cả thế hệ trước.
Nhà văn Aimatov từng nói: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” Khi trang sách khép lại, tác phẩm mới thực sự sống trong tâm trí và cảm xúc của người đọc. Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ngôn từ giản dị nhưng sâu sắc của thể thơ lục bát, cùng lời thơ điêu luyện, đã làm nổi bật hình tượng Thị Kính như một biểu tượng cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Qua cuộc đời Thị Kính, tác giả đã phản ánh bức tranh xã hội đầy mâu thuẫn và bất công. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những ai đang tìm đến cửa Phật như một lối thoát. Để đạt được đạo quả, ta phải trải qua khổ hạnh và oan ức, giống như Thị Kính, dù chịu nhiều oan trái nhưng tấm lòng từ bi và thiện lành đã giúp nàng vượt qua mọi nghịch cảnh.
- Bài đọc: Ai tài giỏi nhất - Sách Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 1, Bài 5
- Soạn bài Ôn tập học kì I - Ngữ văn lớp 7 trang 130 sách Kết nối tri thức tập 1: Hướng dẫn chi tiết và hiệu quả
- Bài đọc: Cây táo đã nảy mầm - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo, Tập 1, Bài 4
- Luyện tập viết đoạn văn bày tỏ tình cảm và cảm xúc - Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tập 1 Bài 5
- Đọc hiểu: Những mùa hoa trên cao nguyên đá - Bài 8, Tiếng Việt lớp 4 tập 1 Chân trời sáng tạo