Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Sơ đồ tư duy) - 4 Dàn ý & 23 bài văn mẫu lớp 9 xuất sắc nhất
Vũ Nương, một người con gái thùy mị, nết na với tư dung tốt đẹp, nhưng số phận lại trớ trêu khiến nàng phải gánh chịu nhiều oan khuất và bất công. Thông qua 23 bài phân tích nhân vật Vũ Nương sâu sắc nhất, học sinh lớp 9 sẽ thấu hiểu hơn những nỗi đau tột cùng mà nàng phải trải qua.

Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ không chỉ khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn phản ánh những bất công mà họ phải đối mặt. Cùng EduTOPS khám phá chi tiết qua bài viết dưới đây:
TOP 23 bài phân tích nhân vật Vũ Nương xuất sắc và sâu sắc nhất
- Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Vũ Nương
- Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương (4 mẫu)
- Phân tích nhân vật Vũ Nương ngắn gọn
- Phân tích Vũ Nương siêu hay
- Phân tích Vũ Nương hay nhất
- Phân tích nhân vật Vũ Nương chi tiết (17 mẫu)
- Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
- Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương
- Viết đoạn văn phân tích nhân vật Vũ Nương
Sơ đồ tư duy Phân tích nhân vật Vũ Nương

Dàn ý phân tích nhân vật Vũ Nương
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" và nhân vật chính Vũ Nương.
2. Thân bài:
a) Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương:
- Là nhân vật chính của câu chuyện, tên thật là Vũ Thị Thiết.
- Là một người phụ nữ đức hạnh nhưng phải chịu số phận bi kịch.
b) Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương:
- Người vợ thủy chung, son sắt:
- Vì biết chồng có tính hay ghen nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép.
- Khi tiễn chồng ra trận, nàng không mong vinh hoa phú quý mà chỉ cần chồng bình yên trở về.
- Trong ba năm chồng đi lính, nàng một mình chăm con, chung thủy đợi chờ.
- Vừa là người mẹ hiền, vừa là đứa con dâu hiếu thảo:
- Hết mực chăm sóc mẹ chồng, chạy chữa thuốc thang, lễ bái thần phật. Nàng còn lo chu toàn việc ma chay tế lễ cho mẹ chồng như "đối với cha mẹ đẻ mình".
- Một mình chăm sóc và nuôi dạy đứa con nhỏ; dùng cái bóng của mình để tạm thời thay thế hình ảnh người cha trong tâm trí của con.
- Một con người trọng danh dự, sống tình nghĩa, vị tha:
- Hết mực thanh minh khi bị vu oan là thất tiết.
- Chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của bản thân.
- Khi được giải oan, nàng vẫn chọn từ biệt chồng con, trở về thủy cung để báo đáp ơn cứu mạng của Linh Phi.
c) Số phận của nhân vật Vũ Nương:
- Chung thủy, hết lòng vì gia đình nhưng lại bị chồng nghi oan là thất tiết.
- Đến khi được giải oan thì lại chẳng thể trở về dương thế nữa.
Tác giả đã giữ nguyên bi kịch để phản ánh hiện thực, lên án xã hội nam quyền độc đoán và bất công, nơi đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng.
3. Kết bài:
- Tổng kết lại những cảm nhận sâu sắc về nhân vật Vũ Nương.
.....
Phân tích nhân vật Vũ Nương ngắn gọn
Nguyễn Dữ, một bậc học rộng tài cao sống vào thế kỉ XVI, đã để lại dấu ấn qua tác phẩm “Truyền kì mạn lục”. Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện đặc sắc, khắc họa nhân vật Vũ Nương với vẻ đẹp và số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trước hết, vẻ đẹp của Vũ Nương được Nguyễn Dữ giới thiệu ngay từ đầu. Nàng là người con gái thùy mị, nết na, với tư dung tốt đẹp. Tác giả đã khắc họa Vũ Nương như một người phụ nữ toàn diện, không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn sâu sắc về phẩm chất. Khi lấy chồng, nàng thể hiện sự khéo léo, tế nhị. Dù Trương Sinh hay ghen, Vũ Nương luôn nhẫn nhịn để giữ hòa khí gia đình.
Khi chồng đi lính, Vũ Nương là người vợ chu đáo, giàu đức hy sinh, yêu thương và chung thủy. Trước khi chồng ra trận, nàng ân cần dặn dò, không mong vinh hoa phú quý, chỉ cầu chồng bình an trở về. Trong thời gian chồng vắng nhà, nàng luôn nhớ nhung, buồn tủi: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.” Dù bị chồng nghi oan, nàng vẫn nghĩ đến chồng, gửi Phan Lang chiếc thoa vàng làm tin.
Vũ Nương còn là người phụ nữ đảm đang, lo toan gia đình với mẹ già, con nhỏ. Khi chồng đi vắng, nàng một mình sinh con, chăm sóc và yêu thương con hết mực. Đêm đêm, nàng dùng cái bóng trên tường để dỗ dành con, nói đó là cha của nó. Nàng cũng là người con dâu hiếu thảo, tận tình chăm sóc mẹ chồng ốm đau, lo thuốc thang, lễ bái thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu toàn như đối với cha mẹ đẻ. Cuối cùng, Vũ Nương là người phụ nữ nhẫn nhịn, biết đấu tranh cho lẽ công bằng. Khi bị chồng nghi oan, nàng vẫn giữ lời phân trần thấu tình đạt lý, khẳng định sự chung thủy. Trước khi chết, nàng nguyền để chứng minh sự trong sạch của mình và nhắn gửi lập đàn giải oan. Có thể nói, Vũ Nương là hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tuy nhiên, Vũ Nương lại mang số phận bất hạnh. Ngay từ đầu, nàng đã phải chịu cảnh cô đơn khi chồng đi lính. Vừa mới lấy nhau chưa được bao lâu, Trương Sinh đã phải ra trận, để lại Vũ Nương một mình với mẹ già và con nhỏ. Trong ba năm chồng đi vắng, nàng chu toàn mọi việc gia đình nhưng luôn mang nỗi nhớ thương da diết. Chi tiết “cái bóng” không chỉ thể hiện sự quan tâm của nàng với con mà còn phản ánh nỗi nhớ chồng khôn nguôi. Số phận bi kịch của nàng càng được đẩy lên cao khi bị chồng nghi oan thất tiết. Dù đã giải thích, Trương Sinh vẫn không tin, buộc nàng phải chọn cái chết để minh oan. Nhưng chính sự trong sạch của nàng đã khiến nàng không chết mà được đưa về thủy cung. Cuối cùng, nàng được trở về gặp chồng con lần cuối và được giải oan.
Vũ Nương là hiện thân của vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhưng nàng lại phải chịu số phận đầy bất hạnh. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã lên án xã hội nam quyền bất công và bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ.
Phân tích Vũ Nương siêu hay
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
Lời ca dao đầy xót xa ấy đã khắc họa số phận bấp bênh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ như những “hạt mưa”, “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, không thể tự quyết định cuộc đời mình. Trong văn học viết, Nguyễn Dữ đã mang đến một hình tượng người phụ nữ đầy ám ảnh qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”, được lấy cảm hứng từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”. Ngay từ đầu, Nguyễn Dữ đã khắc họa Vũ Nương là một người phụ nữ “thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp”. Chỉ một câu văn ngắn gọn, tác giả đã tóm gọn vẻ đẹp toàn diện của nàng, từ nhan sắc đến đức hạnh. Trương Sinh, vì mến cái đẹp ấy, đã không ngần ngại xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về.
Vũ Nương là hiện thân của người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết và luôn khao khát một mái ấm hạnh phúc. Dù Trương Sinh đa nghi, hay ghen, nàng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình xảy ra bất hòa. Khi chồng ra trận, nàng tiễn chồng với lời dặn dò đầy tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa cách, nàng vẫn một lòng chung thủy, không hề bén gót đến những nơi vui chơi. Nỗi nhớ chồng cứ dài theo năm tháng, khiến lòng nàng quặn thắt mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi. Khi sinh con, nàng đã dùng cái bóng trên tường để an ủi đứa con thơ, bù đắp cho nó hình bóng người cha vắng mặt.
Không chỉ là người vợ thủy chung, Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi mẹ chồng ốm nặng, nàng tận tình chăm sóc, thuốc thang, lễ bái thần phật, mong bà mau khỏi bệnh. Trước khi qua đời, bà đã để lại lời trăng trối đầy xúc động: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Sự hiếu thảo của Vũ Nương khiến ta nhớ đến Thúy Kiều trong "Truyện Kiều” của Nguyễn Du, một người con gái sẵn sàng hy sinh bản thân vì gia đình.
Bi kịch của Vũ Nương bắt đầu khi Trương Sinh trở về. Nghe lời con thơ, chàng nghi ngờ vợ thất tiết. Dù nàng hết lời thanh minh, Trương Sinh vẫn không tin, đẩy nàng đến bước đường cùng. Vũ Nương đã chọn cái chết để minh oan, nhưng lòng nàng vẫn đau đáu nhớ về chồng con. Dù ở chốn thủy cung, nàng vẫn mong được giải oan và trở về sum họp. Cuối cùng, trong buổi lễ giải oan, nàng đã hiện về để nói lời tạ từ, khép lại cuộc đời đầy bi kịch nhưng trọn vẹn nghĩa tình.
Vũ Nương xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, nhưng số phận lại đẩy nàng vào bi kịch. Nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến với những hủ tục hà khắc, của chiến tranh phi nghĩa chia cắt gia đình, và của người chồng đa nghi, độc đoán.
Trước hết, nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến với những định kiến khắt khe về người phụ nữ. Chiến tranh đã chia cắt gia đình nàng, khiến nàng một mình gánh vác mọi trách nhiệm. Nhưng bi kịch lớn nhất là khi Trương Sinh, vì câu nói ngây thơ của con, đã nghi ngờ và đẩy nàng đến cái chết. Nam quyền độc đoán đã khiến nàng phải chịu đựng nỗi oan khuất không lối thoát.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến, nơi quyền lực và sự giàu có được đặt lên trên nhân phẩm và hạnh phúc con người. Nàng là hiện thân của những người phụ nữ bị chà đạp, bị tước đoạt quyền sống và quyền hạnh phúc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, kết hợp yếu tố kì ảo, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công nhân vật Vũ Nương. Nàng là người vợ thủy chung, người mẹ yêu con, và người con dâu hiếu thảo, nhưng lại phải chịu số phận bi thảm.
Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ và lên án những thế lực tàn nhẫn đã chà đạp lên hạnh phúc của họ. Tác phẩm “cho thấy cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn thuở…để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm làm nhức nhói trái tim người đọc bao đời nay” (Nguyễn Đình Chú).
Phân tích Vũ Nương hay nhất
"Truyền kì mạn lục" là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thời trung đại. Trong đó, thiên truyện thứ mười sáu mang tên "Chuyện người con gái Nam Xương" đã khắc họa thành công hình ảnh Vũ Nương - một người phụ nữ với những phẩm chất đáng quý. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã thể hiện sự trân trọng và cảm thương sâu sắc dành cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được giới thiệu là một người phụ nữ "tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Tuy nhiên, nàng lại xuất thân từ một gia đình nghèo khó. Trương Sinh - chồng nàng, tuy giàu có nhưng lại ít học. Sự khác biệt về xuất thân và tính cách có lẽ chính là mầm mống dẫn đến bi kịch của nàng.
Trước hết, Vũ Nương hiện lên là một người vợ tần tảo, thủy chung và hết lòng vì gia đình. Biết chồng có tính hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, "không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa". Trước khi chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy, dặn dò chồng: "chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm", chỉ mong chồng bình yên trở về. Hạnh phúc mà nàng khao khát chỉ đơn giản là sự sum vầy, đoàn tụ của gia đình.
Không chỉ là người vợ thủy chung, Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo và người mẹ hết mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng một mình gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Nàng tận tình chăm sóc mẹ chồng, vừa thuốc thang, vừa cúng bái thần phật khi bà đau ốm. Lời trăng trối của bà mẹ dành cho nàng: "Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ" đã thể hiện sự cảm kích và yêu thương dành cho đứa con dâu hiếu thuận. Nàng còn dùng cái bóng của mình để khỏa lấp nỗi nhớ cha trong lòng đứa con thơ, luôn muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho con.
Vũ Nương còn là người phụ nữ trọng danh dự, sống có ơn nghĩa. Khi bị chồng nghi ngờ, nàng đã hết lời giải thích, đau khổ khi thấy công sức mình bỏ ra để vun vén gia đình bị đổ vỡ. Trương Sinh gán cho nàng tội thất tiết - một tội lỗi nặng nề trong xã hội phong kiến. Để chứng minh sự trong sạch, nàng đã chọn cái chết, một hành động quyết liệt nhằm bảo vệ danh dự. Khi được giải oan, nàng không trở về đoàn tụ với chồng con mà chọn ở lại thủy cung để báo đáp ơn cứu mạng của Linh Phi, thể hiện lối sống ơn nghĩa, thủy chung.
Số phận của Vũ Nương là một chuỗi bi kịch. Chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa con nhỏ, Trương Sinh đã nghi oan vợ mình. Dù nàng hết lời thanh minh, chồng vẫn mắng nhiếc, đuổi đánh. Sự gia trưởng và ghen tuông vô cớ của người đàn ông đã đẩy nàng đến cái chết đầy đau thương. Dù cuối cùng nàng được giải oan, nhưng bi kịch vẫn còn đó: Vũ Nương không trở về đoàn tụ với chồng con mà chọn ở lại thủy cung. Đây chính là cách Nguyễn Dữ lên án xã hội phong kiến đầy bất công.
Vũ Nương là hình mẫu tiêu biểu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: xinh đẹp, đức hạnh, hết lòng vì gia đình, trọng danh dự và sống thủy chung. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã thể hiện sự trân trọng và cảm thương sâu sắc dành cho những người phụ nữ nhỏ bé, đồng thời lên án chế độ nam quyền hà khắc và cổ hủ.
Phân tích nhân vật Vũ Nương chi tiết và sâu sắc
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 1
"Truyền kì mạn lục" là một kiệt tác văn xuôi của nền văn học cổ Việt Nam thế kỷ XVI, đánh dấu tập truyện văn xuôi đầu tiên được viết bằng chữ Hán.
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, một tác phẩm trong tập truyền kì mạn lục, kể về Vũ Nương, một người phụ nữ đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn, đã phải chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình trước sự ghen tuông vô căn cứ của chồng.
Nguyễn Dữ được coi là một trong những tác giả văn xuôi tiêu biểu của thế kỷ XVI. Hình tượng người con gái Nam Xương đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả qua nhiều thế hệ. Lê Thánh Tông đã bày tỏ sự xúc động qua bài thơ "Miếu vợ chàng Trương":
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương..."
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc sống đau khổ và bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Vũ Nương, một người vợ đức hạnh, đã phải tự kết liễu cuộc đời để chứng minh lòng chung thủy. Tác phẩm này không chỉ là một bản cáo trạng về chế độ xã hội mà còn là một bài ca về chủ nghĩa nhân đạo, khiến người đọc không khỏi xúc động trước số phận của Vũ Nương.
Vũ Nương không chỉ có nhan sắc mà còn có đức hạnh, luôn đối xử tốt với mẹ chồng và chồng. Dù chồng nàng, Trương Sinh, là người ít học và đa nghi, nàng vẫn giữ được sự hòa thuận trong gia đình, chứng tỏ sự cam chịu và khiêm nhường của mình.
Khi Trương Sinh ra trận, Vũ Nương đã tiễn chồng với những lời lẽ đầy tình cảm và sự lo lắng: "Chẳng mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi". Những hành động và lời nói của nàng thể hiện rõ nét đức tính "công-dung-ngôn-hạnh" mà một người phụ nữ lý tưởng cần có.
Trong thời gian chồng đi vắng, Vũ Nương đã một mình chăm sóc con nhỏ và mẹ chồng ốm yếu, thể hiện lòng hiếu thảo và sự chung thủy son sắt. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu, một người vợ, và một người mẹ.
Sự chu đáo của Vũ Nương trong việc chăm sóc mẹ chồng và tổ chức tang lễ cho bà đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của nàng. Lòng chung thủy của Vũ Nương còn được thể hiện qua việc nàng nuôi dạy con thơ và chờ đợi chồng trở về.
Tuy nhiên, sự ngây thơ của đứa con trai đã dẫn đến hiểu lầm lớn khi Trương Sinh trở về. Chàng đã không nghe lời giải thích của vợ và hàng xóm, dẫn đến bi kịch đau lòng cho Vũ Nương.
Vũ Nương, một người vợ đức hạnh và chung thủy, đã phải chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Chỉ đến khi nàng mất, Trương Sinh mới nhận ra sự oan khuất của vợ mình.
Câu chuyện của Vũ Nương không chỉ là câu chuyện cá nhân mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến và sự độc đoán của nam quyền. Nguyễn Dữ đã khéo léo lồng ghép chủ đề này vào tác phẩm của mình.
Hình ảnh Vũ Nương và nhiều phụ nữ khác trong xã hội phong kiến đã phải chịu đựng số phận "Bảy nổi, ba chìm", phản ánh qua câu thơ:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Cái chết của Vũ Nương không chỉ là định mệnh mà còn là lời lên án mạnh mẽ đối với sự ghen tuông ích kỷ, sự nông nổi và thô bạo của người đàn ông - người chồng thiếu học vấn và đa nghi như Trương Sinh. Đó cũng là sự phản ánh chế độ phong kiến hà khắc, dung túng cho sự tàn nhẫn và bất công - một xã hội mà quyền lực nam giới thống trị.
Vũ Nương trong tác phẩm là một nhân vật mang vẻ đẹp truyền thống, nhưng phải gánh chịu nỗi oan khuất lớn lao và buộc phải chứng minh sự trong sạch của mình bằng cái chết. Cái chết đầy đau đớn và bất công ấy xuất phát từ sự hiểu lầm, từ lời nói ngây thơ của đứa trẻ, khiến người chồng Trương Sinh nghi ngờ và đánh mất người vợ quý giá của mình. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch đau lòng này bắt nguồn từ chiến tranh loạn lạc và hệ tư tưởng phong kiến coi trọng nam quyền trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 2
"Chuyện người con gái Nam Xương" trích từ tác phẩm “Truyền kì mạn lục", một áng văn xuôi chữ Hán của Nguyễn Dữ thế kỷ 16. Được ca ngợi là “thiên cổ kì bút", truyện kể về bi kịch gia đình ở Nam Xương bên dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, thời kỳ loạn lạc đầy biến động. Vũ Nương, nhân vật chính, là người phụ nữ bạc mệnh với những phẩm chất tiêu biểu cho đức hạnh của phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương, tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân từ gia đình nghèo khó, nhưng nàng sở hữu cả nhan sắc lẫn đức hạnh: "tính tình thùy mị, nết na, lại có tư dung tốt đẹp". Nàng là cô gái đức hạnh nên Trương Sinh, con nhà giàu có, đã xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, Vũ Nương luôn khéo léo giữ gìn hòa khí, biết chồng có tính đa nghi nên nàng luôn cẩn trọng. Khi Trương Sinh phải ra trận, nàng tiễn chồng với lời chúc "bình yên", không mong công danh phù phiếm mà chỉ cầu hạnh phúc gia đình. Những năm tháng xa cách, nỗi nhớ chồng của Vũ Nương được thể hiện qua những dòng tâm sự đầy xúc động: "... mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Đây cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong thời loạn lạc:
... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm)
Nguyễn Dữ đã khéo léo thể hiện tâm trạng nhớ thương của Vũ Nương, đồng thời ca ngợi lòng chung thủy của nàng. Vũ Nương không chỉ là người vợ đảm đang mà còn là người con dâu hiếu thảo và người mẹ đôn hậu. Khi chồng ra trận, nàng một mình chăm sóc mẹ chồng ốm yếu và nuôi dạy con thơ. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy Vũ Nương là hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Sau khi Trương Sinh trở về, bi kịch xảy ra khi chàng nghe lời con trẻ nghi ngờ vợ. Dù Vũ Nương hết lời giải thích và hàng xóm can ngăn, Trương Sinh vẫn không tin, đẩy nàng vào đường cùng. Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình, trở thành biểu tượng của người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng". Bi kịch của nàng không chỉ là nỗi đau gia đình mà còn là hậu quả của chiến tranh và xã hội phong kiến hà khắc.
Phần cuối truyện đậm chất kỳ ảo với những tình tiết như Phan Lang gặp Vũ Nương dưới thủy cung, Vũ Nương gửi lại chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn giải oan. Hình ảnh nàng hiện lên giữa dòng sông với kiệu hoa và cờ tán rực rỡ, nhưng nàng không thể trở về dương gian. Câu nói của nàng: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đã khắc sâu nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh.
Tóm lại, Vũ Nương là hình tượng người phụ nữ đức hạnh nhưng bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với tấm lòng xót thương sâu sắc. Dù mang yếu tố kỳ ảo, "Chuyện người con gái Nam Xương" vẫn là áng văn giàu giá trị nhân đạo, phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Người đọc không khỏi xúc động khi nhớ lại lời thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "Lại bài viếng Vũ Thị":
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện này, tác giả đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương - nhân vật chính với cuộc đời đầy bi kịch và đau thương.
Chỉ với vài nét phác họa đơn giản, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống. Vũ Nương không chỉ khiến người đọc yêu mến bởi vẻ ngoài xinh đẹp mà còn bởi tâm hồn cao quý. Nàng là người vợ thấu hiểu, biết giữ gìn lễ nghĩa. Dù biết chồng có tính đa nghi, nàng không hề oán trách mà luôn cố gắng giữ gìn hòa thuận gia đình. Khi chồng phải ra trận, nàng ân cần dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Với Vũ Nương, sự an toàn của chồng mới là điều quý giá nhất.
Trong những năm chồng đi lính, Vũ Nương một mình gánh vác trách nhiệm gia đình. Nàng vừa chăm sóc con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng hết lời an ủi. Khi bà qua đời, nàng lo ma chay chu đáo “như đối với cha mẹ đẻ mình”. Với con trai, nàng luôn mong con có một gia đình trọn vẹn. Đêm đêm, khi con hỏi về cha, nàng chỉ vào bóng mình trên tường và bảo đó là cha Đản.
Tưởng rằng một người phụ nữ đức hạnh như Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đời nàng lại chìm trong bi kịch. Khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ ngây thơ, chàng nghi ngờ vợ không chung thủy. Dù Vũ Nương hết lời giải thích, Trương Sinh vẫn không tin, đẩy nàng vào đường cùng. Nàng đã chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Cái chết của Vũ Nương không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là lời tố cáo sự ghen tuông mù quáng và vũ phu của xã hội phong kiến.
Tuy nhiên, Vũ Nương không chết thật. Nàng được Linh Phi cứu và sống ở thủy cung. Khi gặp Phan Lang, một người cùng làng được cứu sống, nàng giãi bày nỗi oan khuất và nhờ chàng chuyển lời đến Trương Sinh: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Khi Trương Sinh hiểu ra sự thật, chàng lập đàn giải oan. Vũ Nương hiện về thăm chồng con, nhưng nàng không thể trở lại dương gian. Đó phải chăng là nỗi bất hạnh lớn nhất của nàng?
“Chuyện người con gái Nam Xương” được xây dựng từ cốt truyện dân gian, nhưng thành công của Nguyễn Dữ là khắc họa nhân vật Vũ Nương bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế. Tác giả đã sử dụng yếu tố kỳ ảo để tô đậm vẻ đẹp tâm hồn của nàng: một người phụ nữ nặng tình nghĩa, coi trọng nhân phẩm và vị tha, dù ở thế giới khác vẫn luôn quan tâm đến chồng con.
Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nguyễn Dữ đã thành công khi xây dựng nhân vật này, để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc và suy ngẫm sâu sắc.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 4
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết đầy bi thương của Vũ Nương, tác phẩm đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đầy đau khổ và bi kịch của một người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nàng phải tự vẫn để chứng minh lòng chung thủy của mình. Ngay từ đầu, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương - một người phụ nữ nết na, đức hạnh: một người con dâu hiếu thảo, một người vợ đảm đang, nhân hậu và khiêm tốn.
Sau khi kết hôn với Trương Sinh, Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng xảy ra bất hòa, dù chồng nàng là người ít học và đa nghi. Sự khiêm nhường và cam chịu của nàng đã góp phần tạo nên sự đầm ấm trong gia đình, bất chấp sự độc đoán của chế độ nam quyền.
Khi chồng phải ra trận, Vũ Nương không hề oán trách mà còn ân cần dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Ước mong giản dị này thể hiện tình yêu thương sâu sắc của nàng dành cho chồng, bởi bước ra chiến trường là đối mặt với hiểm nguy và cái chết.
Trong thời gian chồng đi lính, Vũ Nương một mình gánh vác trách nhiệm gia đình. Nàng vừa nuôi dạy con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng ốm yếu. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu đáo như đối với cha mẹ đẻ. Lòng hiếu thảo và sự chung thủy của Vũ Nương còn thể hiện qua việc nàng nuôi con và chờ chồng suốt những năm tháng xa cách. Để dỗ con ngủ, nàng chỉ vào bóng mình trên tường và bảo đó là cha Đản - một hành động ngây thơ nhưng lại trở thành nguyên nhân của bi kịch sau này.
Nỗi oan khuất của Vũ Nương bắt nguồn từ tính đa nghi và sự độc đoán của Trương Sinh. Khi trở về, chàng nghe lời con trẻ ngây thơ và nghi ngờ vợ không chung thủy. Dù Vũ Nương hết lời giải thích và hàng xóm can ngăn, Trương Sinh vẫn không tin, đẩy nàng vào đường cùng. Không còn cách nào để minh oan, nàng đã chọn cái chết để bảo vệ danh dự và tiết hạnh của mình.
Một người vợ hiền lành, đức hạnh như Vũ Nương phải chết oan chỉ vì sự ghen tuông mù quáng của chồng. Mãi đến sau khi nàng mất, Trương Sinh mới nhận ra sự thật, nhưng đã quá muộn. Đây chính là lời tố cáo mạnh mẽ đối với sự độc đoán của nam quyền trong xã hội phong kiến.
Thân phận của Vũ Nương cũng là thân phận chung của nhiều người phụ nữ trong xã hội xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là lời tố cáo sự ghen tuông ích kỷ, sự hồ đồ và vũ phu của người đàn ông trong xã hội phong kiến. Đó cũng là sự phản ánh chế độ nam quyền hà khắc, dung túng cho sự bất công và độc ác.
Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn gửi gắm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 5
“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam. Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” nổi bật với những giá trị sâu sắc mà tác giả gửi gắm qua nhân vật Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”. Tác phẩm kể về cuộc đời của Vũ Nương - một người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Trương Sinh, một chàng trai trong làng, đã yêu mến nàng và xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Dù biết chồng hay ghen, Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Thế nhưng, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ, Trương Sinh đã nghi ngờ vợ không chung thủy. Dù nàng hết lòng giải thích, mọi nỗ lực đều vô ích. Cuối cùng, Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi hiểu ra sự thật, Trương Sinh hối hận và lập đàn giải oan, nhưng mọi chuyện đã quá muộn.
Truyện bắt đầu bằng lời giới thiệu: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương…”. Nhân vật chính Vũ Nương là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên, nhưng nàng lại xuất thân từ gia đình nghèo khó. Dù vậy, nàng hội tụ đầy đủ những phẩm chất “công - dung - ngôn - hạnh” của người phụ nữ truyền thống.
Chỉ với vài lời giới thiệu ngắn gọn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống. Vũ Nương không chỉ xinh đẹp mà còn có tâm hồn cao quý. Nàng là người vợ hiểu chuyện, biết giữ gìn lễ nghĩa. Dù chồng có tính đa nghi, nàng vẫn không oán trách mà luôn cố gắng giữ hòa khí gia đình. Khi chồng phải ra trận, nàng ân cần dặn dò: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Đó là ước mong giản dị nhưng đầy tình yêu thương của một người vợ luôn mong muốn hạnh phúc gia đình.
Trong những năm chồng đi lính, Vũ Nương một mình gánh vác trách nhiệm gia đình. Nàng vừa nuôi dạy con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng ốm yếu. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu đáo như đối với cha mẹ đẻ. Với con trai, nàng luôn mong con có một gia đình trọn vẹn. Để dỗ con ngủ, nàng chỉ vào bóng mình trên tường và bảo đó là cha Đản. Thế nhưng, khi Trương Sinh trở về, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ, chàng đã nghi ngờ vợ không chung thủy. Dù Vũ Nương hết lời giải thích, Trương Sinh vẫn không tin, đẩy nàng vào đường cùng. Cuối cùng, nàng đã chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Số phận của Vũ Nương thật đáng thương. Công lao nuôi con, chăm sóc mẹ chồng đều đổ xuống sông xuống biển. Đáng buồn hơn, mọi oan ức lại bắt nguồn từ hình ảnh cái bóng. Vì nhớ chồng, nàng đã nói dối con rằng cái bóng là cha Đản. Bé Đản ngây thơ tin theo, và khi Trương Sinh trở về, chàng đã hiểu lầm vợ mình thất tiết. Bi kịch từ đó nối tiếp nhau, đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng. Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Cuộc đời Vũ Nương là đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa, khi hôn nhân không phải do họ lựa chọn mà bị sắp đặt bởi gia đình. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh gặp nhiều bất hạnh, từ chiến tranh chia cắt đến sự ghen tuông, đa nghi của chồng. Chính những điều này đã đẩy nàng đến bi kịch phải tìm đến cái chết để rửa sạch nỗi oan.
Thành công của tác phẩm không chỉ nằm ở nội dung sâu sắc mà còn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình. Cách tạo tình huống truyện độc đáo và chi tiết quan trọng đã thúc đẩy câu chuyện một cách tự nhiên và hấp dẫn.
Có thể thấy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm nổi bật nhất trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, với nhân vật Vũ Nương - tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 6
Viết về người phụ nữ là một đề tài quen thuộc trong văn học. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, các tác giả như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ một cách sâu sắc. Nguyễn Dữ cũng là một trong những cây bút tiêu biểu với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, qua nhân vật Vũ Nương, ông đã thể hiện những giá trị nhân văn đáng quý.
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc của thế kỷ XVI, sống trong thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn, chiến tranh liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Không đồng tình với xã hội bất công, ông đã thể hiện tình cảm ấy qua tác phẩm “Truyền kì mạn lục” gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm tiêu biểu.
Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người phụ nữ thùy mị, nết na và có tư dung tốt đẹp. Trong cuộc sống gia đình, nàng là người vợ hiền thục, biết giữ gìn hòa thuận dù chồng là Trương Sinh - một người ít học và đa nghi. Khi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải ra trận, Vũ Nương vẫn một lòng chung thủy, dặn dò chồng: “Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên”. Nàng không ham danh vọng mà chỉ mong muốn hạnh phúc gia đình, đồng thời thấu hiểu nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận.
Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền và con dâu thảo. Nàng sinh con, chăm sóc mẹ chồng ốm yếu, và khi bà qua đời, nàng lo ma chay chu đáo như đối với cha mẹ mình. Qua lời trăng trối của mẹ chồng, tác giả đã khẳng định công lao và nhân cách của Vũ Nương: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”. Vũ Nương chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Tưởng rằng với những phẩm chất tốt đẹp, Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc. Nhưng thực tế, nàng lại rơi vào bi kịch oan khuất. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ, nàng bị chồng nghi ngờ thất tiết. Trương Sinh, với tính đa nghi và độc đoán, đã ruồng rẫy, đánh đập và đuổi nàng đi. Dù Vũ Nương hết lời giải thích và được hàng xóm bênh vực, mọi nỗ lực đều vô ích. Nàng đau đớn thốt lên: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
Mọi lời biện minh không thể lay chuyển được sự hồ đồ và ghen tuông mù quáng của Trương Sinh. Vũ Nương đã phải chịu đựng nỗi đau tột cùng khi bị đối xử bất công và không thể bảo vệ danh dự của mình. Nàng tìm đến bên bờ sông Hoàng Giang và than rằng: “Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu… Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió... đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
Lời nguyền đau đớn của Vũ Nương không thể cứu nàng khỏi bi kịch. Là người phụ nữ có ý thức sâu sắc về phẩm giá, nàng đã chọn cái chết để bảo toàn danh dự. Vũ Nương gieo mình xuống sông, kết thúc cuộc đời đầy bất hạnh.
Tác giả đã xây dựng tình tiết truyện đầy kịch tính, đẩy câu chuyện đến đỉnh điểm khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ qua lời nói ngây thơ của con trẻ. Bé Đản chỉ vào cái bóng trên tường và bảo đó là cha mình. Chi tiết này không chỉ tố cáo sự độc đoán của chế độ phong kiến mà còn cho thấy số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời, tác phẩm cũng là lời phê phán mạnh mẽ đối với chế độ đã đẩy họ vào bi kịch không lối thoát.
Phân tích nhân vật Vũ Nương - Mẫu 7
“Truyền kì mạn lục” là một kiệt tác văn học trung đại Việt Nam, gồm hai mươi truyện ngắn, trong đó “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm quen thuộc nhất với độc giả. Qua câu chuyện này, Nguyễn Dữ đã khắc họa hình ảnh Vũ Nương - biểu tượng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Nguyễn Dữ đặt Vũ Nương vào một hoàn cảnh sống khắc nghiệt: xã hội phong kiến nam quyền với những lễ giáo hà khắc dành cho phụ nữ. Họ phải sống phụ thuộc vào đàn ông: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Không chỉ vậy, Vũ Nương còn phải đối mặt với chiến tranh loạn lạc, chia cắt gia đình. Những bi kịch liên tiếp ập đến với cuộc đời nàng.
Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, Vũ Nương vẫn tỏa sáng với nhiều phẩm chất đẹp. Nàng là người con gái Nam Xương, thùy mị, nết na, và có tư dung tốt đẹp. Vũ Nương đại diện cho người phụ nữ xưa, hội tụ đủ công, dung, ngôn, hạnh. Nàng là người vợ chu toàn, luôn giữ gìn hòa thuận gia đình dù chồng có tính đa nghi. Khi chồng đi lính, nàng không oán trách mà chỉ mong chồng trở về bình an. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, chăm sóc mẹ chồng tận tình và yêu thương con hết mực. Để con không thiếu vắng tình cha, nàng đã nói dối, chỉ vào chiếc bóng và bảo đó là cha Đản.
Dù mang nhiều phẩm chất tốt đẹp, Vũ Nương không thể thoát khỏi số phận bất hạnh. Cuộc hôn nhân với Trương Sinh không xuất phát từ tình yêu mà do cha mẹ sắp đặt. Trương Sinh vì mến nhan sắc và đức hạnh của nàng nên đã cưới về. Sự chênh lệch gia thế và thiếu tình yêu đã đẩy Vũ Nương vào những bi kịch không lối thoát.
Dù hôn nhân không có tình yêu, Vũ Nương vẫn hết lòng vun vén hạnh phúc gia đình. Chiến tranh đã cướp đi người chồng, để lại nàng một mình gánh vác trách nhiệm. Nàng chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy con thơ, nhưng khi Trương Sinh trở về, bi kịch lại ập đến. Đứa con ngây thơ tiết lộ chiếc bóng là “cha”, khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ không chung thủy. Dù Vũ Nương giải thích, mọi nỗ lực đều vô ích. Nàng chọn cái chết để minh oan. Sau khi nhảy xuống sông, nàng được cứu sống ở thủy cung và gặp Phan Lang. Nàng nhờ Phan Lang nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan. Khi sự thật được sáng tỏ, Trương Sinh hối hận, nhưng Vũ Nương không thể trở về. Bi kịch của nàng là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công.
Với nghệ thuật kể chuyện tài tình và xây dựng nhân vật sâu sắc, Nguyễn Dữ đã khắc họa Vũ Nương qua đối thoại, tâm lý và yếu tố kì ảo. Nàng là hiện thân của người phụ nữ phong kiến với đức hạnh toàn vẹn, nhưng số phận lại đầy bi thương.
Vũ Nương trở thành biểu tượng cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. “Chuyện người con gái Nam Xương” không chỉ ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của họ mà còn bày tỏ sự thương cảm sâu sắc dành cho những số phận chịu nhiều oan trái.
Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện ngắn trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Câu chuyện kể về cuộc đời đầy éo le của Vũ Nương, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu số phận bi thương. Qua nhân vật này, tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương, tên thật là Vũ Thị Thiết, là người con gái “quê ở Nam Xương”. Nguyễn Dữ không miêu tả chi tiết ngoại hình của nàng, nhưng qua vài dòng ngắn gọn, ta vẫn thấy được vẻ đẹp toàn diện của nàng: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chính vì vậy, Trương Sinh đã đem lòng yêu mến và “xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Biết chồng có tính đa nghi, Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng xảy ra bất hòa. Nàng là hiện thân của “công, dung, ngôn, hạnh” - những tiêu chuẩn đạo đức của người phụ nữ xưa.
Không chỉ là người vợ thủy chung, Vũ Nương còn là người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi tiễn chồng ra trận, nàng không mong chồng trở về với vinh hoa phú quý mà chỉ cầu mong sự bình yên: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Ba năm chồng đi lính là ba năm nàng một mình gánh vác gia đình, chăm sóc mẹ chồng và nuôi dạy con thơ, luôn giữ trọn lòng thủy chung.
Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Trong ba năm chồng vắng nhà, nàng một mình chăm lo mọi việc, từ sinh con, nuôi dạy con đến chăm sóc mẹ chồng ốm đau. Khi mẹ chồng bệnh nặng, nàng không chỉ thuốc thang chu đáo mà còn dùng lời lẽ ngọt ngào để an ủi. Tấm lòng hiếu thảo của nàng được mẹ chồng ghi nhận: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Là một người mẹ, Vũ Nương yêu thương con hết mực. Để con không cảm thấy thiếu vắng tình cha, nàng thường chỉ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Hành động này xuất phát từ tình yêu thương vô bờ nhưng lại trở thành nguyên nhân dẫn đến bi kịch. Sự ngây thơ của đứa trẻ và tính đa nghi của Trương Sinh đã đẩy nàng vào cảnh oan khuất.
Vũ Nương là người phụ nữ coi trọng danh dự và nhân phẩm. Khi bị chồng nghi oan là “thất tiết”, nàng đã dùng mọi lý lẽ để minh oan: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc binh đao. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Thế nhưng, trong xã hội trọng nam khinh nữ, lời nói của nàng chẳng có trọng lượng. Để bảo vệ danh dự, nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
Khi Vũ Nương trầm mình xuống sông, nàng được Đức Linh Phi cứu sống và sống ở thủy cung. Nàng cảm kích ơn cứu mạng và thề “sống chết không bỏ” nơi đây. Sau khi được lập đàn giải oan, nàng hiện về trong kiệu hoa, cảm tạ Trương Sinh rồi biến mất, trở về thủy cung, không thể đoàn tụ cùng gia đình.
Vũ Nương là hiện thân của người phụ nữ phong kiến với những phẩm chất cao quý: hiếu thảo, thủy chung, yêu thương chồng con. Thế nhưng, số phận của nàng lại là một bi kịch đau đớn, bắt nguồn từ tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và những định kiến hà khắc của xã hội cũ. Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ mà còn bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc dành cho số phận bất hạnh của họ.
Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của Vũ Nương
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ thường phải gánh chịu nhiều bất công do những định kiến hà khắc của chế độ nam quyền. Câu nói “hồng nhan bạc mệnh” dường như đã trở thành lời nguyền dành cho những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Điều này được thể hiện rõ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp của nàng mà còn phơi bày những bi kịch đau thương mà nàng phải chịu đựng.
Vũ Nương là người phụ nữ “thùy mị nết na” với “tư dung tốt đẹp”. Sau khi kết hôn với Trương Sinh, nàng luôn cẩn trọng giữ gìn hạnh phúc gia đình, không để xảy ra bất hòa dù chồng có tính đa nghi. Trong ba năm chồng đi lính, nàng đã chứng tỏ mình là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ yêu thương con hết mực. Khi mẹ chồng ốm nặng, nàng tận tâm chăm sóc, thuốc thang và dùng lời lẽ ngọt ngào để an ủi. Dù mẹ chồng qua đời, nàng vẫn lo liệu ma chay chu đáo như với cha mẹ ruột. Để con không thiếu vắng tình cha, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và nói đó là cha Đản. Hành động này xuất phát từ tình yêu thương con trẻ và nỗi nhớ chồng da diết. Thế nhưng, những phẩm chất tốt đẹp của nàng lại không được đền đáp xứng đáng. Thay vì hạnh phúc, nàng phải đối mặt với bi kịch oan khuất.
Bi kịch của Vũ Nương bắt nguồn từ chiến tranh và sự đa nghi của Trương Sinh. Chiến tranh đã chia cắt gia đình, khiến nàng phải sống trong cô đơn suốt ba năm. Khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ ngây thơ, chàng đã nghi ngờ vợ không chung thủy. Sự đa nghi và tính ghen tuông của Trương Sinh, được củng cố bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, đã khiến chàng hành xử tàn nhẫn, đánh đập và đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương, trong đau đớn và tủi nhục, đã chọn cái chết để minh oan. Dù sau này được giải oan, nàng vẫn không thể trở về nhân gian. Nàng hiểu rằng xã hội phong kiến vẫn còn đó những bất công, và hạnh phúc đã mãi mãi không thể vãn hồi.
Vũ Nương là hiện thân của người phụ nữ phong kiến với vẻ đẹp toàn diện nhưng phải chịu số phận bi thương. Nỗi đau của nàng phản ánh sự bất công mà nhiều phụ nữ khác cũng phải gánh chịu. Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ không chỉ bày tỏ sự đồng cảm với thân phận người phụ nữ mà còn gửi gắm khát vọng về một xã hội công bằng và nhân ái hơn.
Viết đoạn văn phân tích nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương là hiện thân của vẻ đẹp và số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tên thật là Vũ Thị Thiết, nàng nổi tiếng với vẻ đẹp đoan trang và “tư dung tốt đẹp”. Nàng không chỉ xinh đẹp mà còn sở hữu nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ thủy chung, son sắt. Biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình xảy ra bất hòa. Khi tiễn chồng ra trận, nàng không mong chồng trở về với vinh hoa phú quý mà chỉ cầu mong sự bình an. Trong ba năm chồng đi lính, nàng một mình gánh vác gia đình, chăm sóc mẹ chồng ốm đau và nuôi dạy con thơ. Thế nhưng, sự hi sinh của nàng lại không được đền đáp xứng đáng. Bị chồng nghi oan là “thất tiết”, nàng đã dùng mọi cách để minh oan nhưng vô ích. Cuối cùng, nàng chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch. Dù sau này được giải oan, nàng vẫn quyết định ở lại thủy cung để báo đáp ơn cứu mạng của Linh Phi. Vũ Nương là biểu tượng của sự vị tha, bao dung và tình yêu thương gia đình sâu sắc. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự trân trọng và thương cảm dành cho người phụ nữ trong xã hội nam quyền đầy bất công.
**Lời khuyên dành cho học sinh:** Để phân tích nhân vật Vũ Nương một cách hiệu quả, các em cần tập trung vào các khía cạnh như vẻ đẹp ngoại hình, phẩm chất đạo đức, và bi kịch cuộc đời của nàng. Hãy sử dụng các dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm để làm rõ luận điểm. Đồng thời, đừng quên liên hệ với bối cảnh xã hội phong kiến để hiểu sâu hơn về nguyên nhân dẫn đến bi kịch của nhân vật. Khi viết, hãy chú ý đến cách diễn đạt mạch lạc và sử dụng các biện pháp tu từ để bài văn thêm sinh động.
- Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (trình bày quan điểm đồng tình) - Dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu lớp 7
- Nghị luận về Bạo lực học đường hiện nay (Sơ đồ tư duy) - 6 Dàn ý & 38 bài văn mẫu lớp 9 xuất sắc nhất
- Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận - 4 Dàn ý chi tiết và 21 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân - 2 Dàn ý & 26 bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm - Sơ đồ tư duy và 26 bài văn mẫu chọn lọc