Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều (Sơ đồ tư duy) - 4 Dàn ý chi tiết & 25 bài văn mẫu lớp 9 xuất sắc nhất
TOP 25 bài Phân tích Chị em Thúy Kiều xuất sắc nhất, đi kèm 4 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, hỗ trợ học sinh lớp 9 khám phá vẻ đẹp tài sắc vượt trội của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng và nghệ thuật đòn bẩy tinh tế của Nguyễn Du.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều, nằm ở phần mở đầu tác phẩm Truyện Kiều, đã khắc họa chân dung hai chị em với những nét riêng biệt, tạo nên bức tranh vừa hài hòa vừa tương phản. Hãy cùng EduTOPS khám phá chi tiết để nâng cao kỹ năng học Văn lớp 9.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du
- Sơ đồ tư duy Phân tích Chị em Thúy Kiều (2 mẫu)
- Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều (4 mẫu)
- Phân tích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
- Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều hay
- Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất
- Phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
- Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều (20 mẫu)
- Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học Chị em Thúy Kiều
Sơ đồ tư duy Phân tích Chị em Thúy Kiều
Mẫu 1

Mẫu 2

Dàn ý phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều
1, Mở bài
- Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
- Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du, giàu tính hiện thực, nhân đạo và mang nhiều giá trị nghệ thuật to lớn.
- Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Thuý Kiều, đặc biệt miêu tả tài sắc của Thuý Kiều và Thuý Vân.
2, Thân bài
a, Bốn câu đầu giới thiệu về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân
- Ngắn gọn: là hai con gái đầu lòng, Thúy Kiều là chị cả, Thúy Vân là em.
- Tác giả dùng từ “tố nga” để khẳng định đây là hai cô gái đẹp; “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” nói về nhân cách, phẩm hạnh trong sáng, thuần khiết.
⇒ Khẳng định: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
b, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân (4 câu tiếp)
- Câu thơ đầu: giới thiệu và khái quát đặc điểm của nhân vật
- “Trang trọng”: nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân.
- Tác giả so sánh vẻ đẹp của Thúy Vân với trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết: những hình ảnh đẹp trong thiên nhiên.
⇒ Tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, lấy chuẩn mực thiên nhiên đo vẻ đẹp con người.
- Từ ngữ “thua”, “nhường” cùng chân dung được miêu tả đầy đặn, đoan trang: tác giả báo trước tính cách số phận của Thúy Vân êm đềm, hoà hợp, suôn sẻ.
c, Gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều (12 câu tiếp)
- Câu thơ đầu khái quát tài sắc của Thuý Kiều: “càng sắc sảo, mặn mà”
⇒ Vẻ đẹp trưởng thành, tinh anh, thông tuệ, có tài có sắc.
- Tác giả tiếp tục dùng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu.
⇒ Tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt: đôi mắt là “cửa sổ tâm hồn”, thể hiện hết vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của nhân vật.
- Tả tài năng, tâm hồn Thúy Kiều:
- Tinh thông cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ), đặc biệt ca ngợi tài chơi đàn “ăn đứt hồ cầm một trương”.
- Tâm hồn đa sầu, đa cảm: “thiên bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác cho thấy tâm hồn nhạy cảm, thương người, thương đời của Kiều.
⇒ Thúy Kiều đẹp toàn diện cả sắc, tài, tình, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”
- Miêu tả Thuý Kiều, tác giả dùng những từ chỉ mức độ: ghen, hờn ⇒thiên nhiên phải ghen tị, hờn giận trước vẻ đẹp và tài năng, tâm hồn của Thúy Kiều, từ đó báo hiệu một cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.
d, Nhận xét về nghệ thuật:
- Thủ pháp ước lệ tượng trưng: lấy từ chỉ thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Đây là thủ pháp thường thấy trong văn học Trung đại.
- Thủ pháp đòn bẩy: tác giả tả Thúy Vân trước, chỉ dùng bốn câu thơ để tả vẻ đẹp của Thúy Vân, dùng mười hai câu thơ tả cả tài sắc và tâm hồn Thúy Kiều nên càng làm tăng thêm vẻ đẹp toàn diện của Thúy Kiều.
- Sử dụng từ ngữ có tính chất tiên đoán số phận: tiên đoán số phận Thúy Vân êm đềm qua hình ảnh thiên nhiên “thua, nhường”, số phận Thúy Kiều trắc trở qua hình ảnh thiên nhiên “ghen, hờn”.
3, Kết bài
Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
- Đoạn trích miêu tả tài sắc chị em Thuý Kiều cho thấy Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Lòng thương cảm bộc lộ ngay từ những dự đoán số phận nhân vật.
- Ngôn ngữ giàu cảm xúc, vận dụng một cách linh hoạt các biện pháp nghệ thuật ước lệ, so sánh, ẩn dụ.
.....
Phân tích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du và của nền thi ca cổ điển dân tộc, sáng ngời tinh thần nhân đạo. Trên phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự,... đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn tuyệt bút của thi hào Nguyễn Du. Mượn vật tả người, lấy ý họa hình, quả thực là sức mạnh phi thường trong ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.
Hai chị em Thúy Kiều mang vẻ đẹp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như “tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thiện, toàn bích:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau vẻ đẹp của hai chị em, Nguyễn Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời”; rất quý phái. Nàng sở hữu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn mượt hơn mây, làn da trắng sáng hơn tuyết. Quả là mĩ miều xưa nay hiếm có.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Bức chân dung của Thúy Vân hiện lên cao khiết, trinh sạch và gần gũi trong ánh nhìn và tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy hòa hợp với trần thế, khiến cho vạn vật tôn vinh, ngưỡng mộ. Với cách miêu tả ấy, Nguyễn Du ngầm dự báo Thúy Vân sẽ có một cuộc đời êm đẹp, hạnh phúc.
Không hề dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu tả tiếp vẻ đẹp của Thúy Kiều. Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiều hiện lên trên ngòi bút của bậc thiên tài:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trên cái nền vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều tỏa hiện với vẻ đẹp lộng lẫy có thể khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác với bức chân dung của Thúy Vân, ở bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ miêu tả hai đặc điểm. Mắt nàng trong như sắc nước mùa thu, hàng chân mày thanh tú, diễm lệ như dáng núi mùa xuân. Chỉ hai thôi mà đã lộ rõ sắc đẹp phi thường của nàng rồi, thực là kì bút.
Đó là một vẻ đẹp vừa đằm thắm vừa sắc sảo, mặn mà, ẩn đầy nội lực tồn sinh. Phía sau vẻ đẹp hình thức là một nguồn sức mạnh huyền bí, có sức lôi cuốn và quyến rũ đến mê dại. Bởi thế, vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho đất trời phải “ghen”, phải “hờn”.
Ở đây, ngòi bút tả người của thi hào có sự biến hóa đa dạng. Kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, vận dụng tinh tế và hiệu quả thi liệu cổ điển tạo nên sức mạnh biểu đạt kì lạ. Cao hơn thế, thi hào còn mạnh mẽ khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp của Thúy Kiều là hiếm có thì tài năng và tuyệt kĩ của nàng là chưa từng có, chưa từng xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng, điều đó như dự báo rằng cuộc đời Thúy Kiều sẽ gặp nhiều trắc trở, tai ương bởi những phẩm chất và năng lực ngoại hạng của mình.
Sau bức chân dung tuyệt sắc của hai đại mĩ nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn để miêu tả tài năng của Thúy Kiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Trước hết, nàng là người thông minh bẩm sinh. Vừa sở hữu vẻ đẹp siêu phàm, vừa có trí tuệ xuất chúng, quả thực người như thế xưa nay hiếm thấy. Có lẽ Nguyễn Du đã quá ưu ái khi xây dựng nhân vật của mình chăng? Mọi thú vui tao nhã của người xưa, nàng đều thông thạo, thậm chí đạt đến trình độ tinh thông. Cầm, kì, thi, họa, âm luật, thi luật, kể cả tác thuật, nàng đều thành thạo. Người như thế, ai mà không say mê? Bức chân dung của Thúy Kiều đã đạt đến mức toàn mỹ, vượt xa mọi giới hạn tưởng tượng của con người. Nàng chính là một vị thần tiên giáng trần. Bởi là thần tiên, nàng không thể hòa hợp với những quy luật khắc nghiệt và giả dối của thế gian, nên cuộc đời mới trải qua bao thăng trầm, dâu bể đến thế chăng?
Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt mỹ trong “Đoạn trường tân thanh”. Thi hào Nguyễn Du, với cảm hứng nhân đạo và tài năng thơ ca xuất chúng, đã khắc họa Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp đến mức nhuần nhị, thấm sâu vào lòng người. Ông đã dành cho nhân vật tình cảm yêu mến và sự trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình giữa bút pháp ước lệ, tượng trưng, cùng việc sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, cùng lớp ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng gợi cảm, đã vẽ nên bức chân dung của một tuyệt thế giai nhân bằng thơ, trở thành kiệt tác sáng giá nhất trong nền văn học nước nhà. Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều hay
Nếu Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của nền văn học Việt Nam hiện đại lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên thì đại thi hào Nguyễn Du lại lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người. Sự khác biệt này được ông thể hiện tài hoa qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều". Đây là một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất của tác phẩm bất hủ mang tên "Truyện Kiều". Tác phẩm này đã làm nên tên tuổi Nguyễn Du và lưu danh ông đến hàng thế kỉ sau.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã giới thiệu một cách trực tiếp về thân thế, và thứ bậc trong gia đình của chị em Thúy Kiều:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Họ là con gái đầu lòng của Vương viên ngoại - một gia đình xếp vào hạng "thường thường bậc trung" của triều nhà Minh ở Trung Quốc. Thúy Kiều là chị cả, tiếp đến là cô em gái Thúy Vân. Cả hai nàng đều là những người con gái đẹp. Vẻ đẹp ấy được so sánh ngang bằng với vẻ đẹp của công chúa Hằng Nga trên cung trăng. Dáng vóc của hai nàng thanh tú như cành mai, tinh thần, tâm hồn trong trắng như tuyết. Tuy rằng mỗi người có những nét đẹp khác nhau nhưng đó đều là vẻ đẹp toàn diện "mười phân vẹn mười". Thử hỏi trong nhân gian có mấy ai đẹp một cách hoàn hảo đến như thế?
Theo trình tự thông thường, đáng lẽ ra Nguyễn Du phải miêu tả lần lượt vẻ đẹp của người chị rồi mới miêu tả vẻ đẹp của người em nhưng ở đây ông đã làm điều ngược lại. Phải chăng đây là một dụng ý của tác giả? Thúy Vân được Nguyễn Du dành trọn bốn câu thơ để khắc họa vẻ đẹp "trang trọng" của người con gái:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da".
Thúy Vân đẹp một cách "trang trọng", "đoan trang" khác với người phụ nữ bình thường. Khuôn mặt nàng tròn, đầy đặn như ánh trăng đêm rằm mỗi tháng. Nổi bật trên gương mặt thanh tú ấy là đôi lông mày cong, nở nang. Vẻ đẹp của Thuý Vân khiến hoa, ngọc cũng mỉm cười để nhường chỗ cho nàng. Đến cả mây cũng thua nàng về sự óng ả, mềm mượt của mái tóc, tuyết cũng thua nàng về độ trắng của màu da. "Trăng", "hoa", "ngọc", mây", "tuyết" được coi là chuẩn mực của cái đẹp trong quan niệm xưa. Nguyễn Du dùng những thứ ấy để miêu tả vẻ đẹp của nàng Vân đã giúp chúng ta nhận thấy rõ Thuý Vân đẹp một cách cao sang, quyền quý. Dân gian ta thường hay ví trắng như tuyết, dường như tuyết là trắng nhất. Vậy mà màu da của Thúy Vân khiến tuyết cũng phải nhường. Có vẻ như thiên nhiên đều cúi đầu, nép mình trước vẻ đẹp kiêu sa, đứng đắn của nàng. Hai động từ "thua", "nhường" đã thể hiện rất rõ điều ấy. Con người thường hay tin vào số phận, đã có nhiều người đọc đến những câu thơ này cho rằng Thúy Vân sẽ có một cuộc đời êm ấm, ít sóng gió hơn người chị gái của mình bởi vẻ đẹp làm thiên nhiên thán phục.
Khác với vẻ đẹp quý phái của Thúy Vân, Kiều đẹp một vẻ "sắc sảo mặn mà":
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh".
"Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" nhưng "so bề tài sắc" thì Thúy Kiều lại có phần đẹp hơn, tài năng hơn cô em gái. Tác giả chỉ khắc họa vài nét tiêu biểu trên gương mặt Thúy Kiều nhưng cũng đủ để bạn đọc thấy được vẻ đẹp cuốn hút của nàng. Điểm cuốn hút nhất khi chúng ta nhìn vào ngoại hình của người con gái đó là đôi mắt. Kiều sở hữu một đôi mắt trong như làn nước mùa thu và đôi lông mày thanh như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày của nàng được Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả: "Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào". Chính vẻ đẹp riêng biệt ấy đã khiến cho hoa, liễu nảy sinh lòng ghen ghét, đố kị. Tạo hóa đánh ghen với vẻ đẹp của Thúy Kiều. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng các động từ "ghen", "hờn" đã thể hiện thái độ không vừa lòng của tạo hóa. Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều bằng ngôn từ giàu hình ảnh và giàu sức gợi, đồng thời ông cũng dự báo trước về số phận bạc bẽo của nàng. Thủ pháp đòn bẩy miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến Thúy Kiều có tác dụng làm nổi bật lên bức chân dung của nàng Kiều. Đối với Thúy Vân, tác giả chỉ khắc họa nàng ở vẻ đẹp ngoại hình nhưng đối với Thúy Kiều, ông đã khắc họa nàng cả ở vẻ đẹp của ngoại hình lẫn tài năng thiên phú:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".
Cái đẹp của nàng làm cho người khác say mê mà đánh mất cả thành cả nước. Nguyễn Du đã khẳng định trong nhân gian duy nhất chỉ Thúy Kiều mới có được vẻ đẹp như vậy. Còn về tài năng thiên phú thì may mắn có người ngang sức với Thúy Kiều. Sự thông minh của nàng được trời phú nên nàng thông thạo cả cầm, kì, thi, họa. Thúy Kiều thuộc lòng các cung bậc: Cung, thương, giốc, chủy, vũ trong ngũ âm. Tài năng nổi bật nhất và cũng là tài năng không ai sánh kịp được nàng là tài đàn Hồ cầm. Nàng đã sáng tác một bản nhạc cho riêng mình có tên "Bạc mệnh". Bản nhạc đó cất lên khiến bất cứ ai nghe cũng thương xót, não lòng.
Nguyễn Du đã dành bốn câu thơ cuối đoạn trích để thể hiện tính cách kiêu sa, cao quý của hai chị em:
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai".
Theo tục lệ của Trung Quốc, những thiếu nữ đến tuổi 15 bắt đầu cài trâm, nghĩa là họ đã đến tuổi lấy chồng. Tuy nhiên, hai chị em vẫn sống trong sự bình yên, "Êm đềm trướng rủ màn che", và mặc kệ những chàng trai đến ngỏ lời. Cách từ chối của họ không phải là sự vô cảm mà là một thái độ đài các, kiêu sa đầy tự trọng. Dù đã đến tuổi "cập kê", họ vẫn không vội vàng tơ tưởng đến chuyện hôn nhân.
Trong đoạn trích này, thể thơ lục bát nhịp nhàng kết hợp với bút pháp ước lệ tượng trưng đã giúp Nguyễn Du khắc họa chân dung của hai tuyệt thế giai nhân với những vẻ đẹp độc đáo. Có thể nói, nhà thơ đã thể hiện tài năng xuất chúng trong việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều. Đồng thời, ông cũng gợi mở bức tranh số phận với những sắc thái khác nhau của họ.
Phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất
“Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”. Thật vậy, “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu của vị đại thi hào dân tộc, một “Danh nhân văn hóa lớn của thế giới”. Ở đó, người đọc vừa say mê trước vẻ đẹp toàn vẹn của người thiếu nữ vừa đau đớn, thương xót cho một phận đời bạc bẽo. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của tác phẩm, khắc họa cuộc sống, vẻ đẹp và dự báo tương lai của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ở những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du giới thiệu với độc giả hai người con gái của viên ngoại họ Vương:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Thoạt đầu, bốn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu nữ xinh đẹp “hai ả tố nga”, người em tên Thúy Vân còn người chị là Thúy Kiều. Mỗi người mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp tuyệt mỹ, tỏa sắc, tỏa hương “mười phân vẹn mười”. Đó là một vẻ đẹp tròn đầy, cả vẻ bề ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Cốt cách của họ được Nguyễn Du ví như “mai” như “tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mộc mạc.
Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân hiện lên rõ nét, ngắn gọn trong bốn câu thơ tiếp theo:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Nàng Vân có một vẻ đẹp mà không ai có thể có được “khác vời”. Đó là vẻ đẹp đầy sự sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng là một thiếu nữ đài các. Nét đẹp của nàng Vân được họa nên bằng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn mặt tròn trịa, phúc hậu tựa mặt trăng, đôi lông mày rậm rạp, sắc nét.
Những hình ảnh ước lệ như càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng. Tính cách nhã nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa nở, lời nói đều là lời vàng, ý ngọc. Vẻ đẹp đó đã đạt tới mức khiến sự vật xung quanh phải e thẹn, kính nể “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Những hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho một cuộc sống êm đềm, thuận lợi của Thúy Vân.
Nhà thơ miêu tả về Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đẹp của Thúy Kiều. Khi miêu tả Vân chỉ gói gọn trong bốn câu thơ nhưng khi nói về Kiều, thi nhân đã dành hẳn mười hai câu thơ, đủ để nhận thấy tác giả có cảm tình thế nào với phận hồng nhan, bạc mệnh này:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phải kiêng dè, Kiều lại đẹp hơn nhiều lần: “càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. “Sắc sảo” chính là nét đẹp trưởng thành, thông tuệ. Để có thể khắc họa một cách chân thực nhất sắc đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để thủ pháp ước lệ, các hình ảnh tượng trưng, đặc biệt tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong trẻo, bình lặng và ẩn chứa nhiều tâm sự.
Từ đôi mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu, cặp lông mày được ví là “nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt. Đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ.
Nhưng tại sao không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng như lá liễu mà phải ví như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên, khúc khủy, lên xuống gập ghềnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên của nàng còn có thể làm “nghiêng thành, nghiêng nước”, giao tranh kịch liệt mà hoa, liễu cũng phải hờn ghen. Phải chăng số trời đã báo trước về cuộc sống mai sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, ngược lại luôn phải chịu nhiều điều bất hạnh, bi thương.
Phân tích chị em Thúy Kiều ta thấy về nhan sắc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Tư tưởng Nho giáo cho rằng người phụ nữ không cần quá xuất sắc về mọi mặt thì đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, tiêu biểu cho hình mẫu của Thúy Vân; còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì bạc mệnh.
Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng thời bấy giờ đến thơ ca của thi sĩ. Nhà thơ cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thúy Kiều vốn là thần đồng từ nhỏ, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa nàng đều thông thạo, giỏi giang.
Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng có thể tự mình sáng tác nhạc, phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau thương của nàng “một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”, thật khiến cho người ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với chữ tai một vần.”
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du mở ra không gian sống khá giả, êm đềm của hai thiếu nữ:
Phong lưu rất mực hồng quần ,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Xinh đẹp, tài năng, đã đến tuổi lấy chồng và được nhiều người theo đuổi “ong bướm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo “trướng rủ màn che”, cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, hạnh phúc.
Phân tích Chị em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực của Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống động và sắc nét qua thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu tinh tế. Bên cạnh đó, bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh so sánh nhân hóa đặc sắc được lồng ghép khéo léo đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; vừa xuýt xoa trước vẻ đẹp hội tủ đủ: sắc, tài , tình, mệnh vừa khiến người ta nhói lòng trước sự báo số mệnh của nàng Thúy Kiều.
“Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Chẳng biết Nguyễn Du sở hữu bao nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để vẽ nên bức tranh có một không hai ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân thật và gần gũi, mà khi nhìn ngắm người ta có thể cảm nhận được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước mắt thương cảm về số phận phía trước chẳng mấy hoan hỉ của Thúy Kiều. Ngay bây giờ và đến mãi về sau, Truyện Kiều luôn là áng văn chương bất hủ truyền tụng đời đời.
Phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
Nhà thơ Chế Lan Viên từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. “Truyện Kiều” với những vần lục bát tuyệt mỹ đã trở thành niềm tự hào của nền văn học Việt Nam. Nguyễn Du, với ngòi bút tài hoa, đã khắc họa thiên nhiên, tâm trạng con người thành những bức tranh sống động, đầy quyến rũ. Tình yêu và sự trân trọng của ông dành cho nhân vật đã để lại những rung cảm sâu sắc về cái đẹp. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là minh chứng cho nghệ thuật miêu tả tinh tế và trái tim đầy yêu thương của Nguyễn Du.
“Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Đoạn trích được xây dựng với kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều.
“Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái của ông bà Vương viên ngoại được Nguyễn Du miêu tả như những nàng “tố nga” xinh đẹp, thanh cao. Lời giới thiệu về hai chị em không chỉ khắc họa vẻ đẹp bên ngoài mà còn thể hiện tâm hồn trong sáng, thuần khiết. Thứ bậc trong gia đình được thể hiện qua câu: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Nguyễn Du nhấn mạnh cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn trong trắng như tuyết của hai nàng. Hình ảnh ẩn dụ và phép tiểu đối không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của hai chị em mà còn khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ nơi người đọc. Mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, nhưng cả hai đều hoàn mỹ từ ngoại hình đến tâm hồn, đúng như nhận định của tác giả: “mười phân vẹn mười”. Điều này thể hiện sự lí tưởng hóa của Nguyễn Du về cái đẹp.
Nguyễn Du đã sử dụng những ước lệ văn chương cổ điển với tình cảm trân trọng, yêu mến. Ông khen ngợi cả hai chị em, nhưng tập trung miêu tả từng người một cách tinh tế. Đầu tiên là chân dung Thúy Vân qua bốn câu thơ.
“Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ với bốn câu thơ, Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp tươi tắn, đoan trang của Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng được so sánh với trăng, hoa, ngọc, và mây tuyết, những hình ảnh tượng trưng cho sự trong trẻo, cao quý. Khuôn mặt tròn đầy, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc đen óng, làn da trắng mịn – tất cả tạo nên một vẻ đẹp hoàn hảo, khiến thiên nhiên cũng phải “thua”, “nhường”. Nguyễn Du sử dụng những tính từ như “đầy đặn”, “nở nang” để nhấn mạnh vẻ đẹp viên mãn của tuổi trẻ. Qua đó, ta thấy được dự cảm về một cuộc đời bình yên, hạnh phúc của Thúy Vân.
Nếu Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp phúc hậu, thì Thúy Kiều lại được Nguyễn Du dành nhiều tâm huyết hơn để khắc họa vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Thúy Kiều không chỉ đẹp mà còn tài năng hơn hẳn Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng không chỉ là sự duyên dáng, yêu kiều mà còn toát lên sự sắc sảo, lộng lẫy. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp đòn bẩy, lấy vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để làm nổi bật Thúy Kiều. Ông không miêu tả chi tiết mà chỉ gợi tả, đặc biệt qua đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Đôi mắt trong như nước mùa thu, đôi mày cong như dáng núi mùa xuân, toát lên vẻ đẹp và tâm hồn sâu thẳm. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn, thể hiện sức sống mãnh liệt và tuổi trẻ tràn đầy. Qua đó, Nguyễn Du cũng gợi lên những dự cảm về số phận đầy sóng gió của nàng.
Nguyễn Du không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn thông qua đó dự đoán số phận nhân vật. Ông dùng từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân, và “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Sự khác biệt này cho thấy hai hướng số phận khác nhau của hai chị em. Tả Thúy Vân, câu thơ nhẹ nhàng, thanh thản; tả Thúy Kiều, câu chữ lại đầy trăn trở. Qua đó, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du, ông yêu thương, nâng niu cả hai, nhưng với Thúy Kiều là sự lo lắng, băn khoăn.
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng”
Nguyễn Du không chỉ ca ngợi nhan sắc mà còn đề cao trí tuệ và tài năng của Thúy Kiều. Nàng không chỉ đẹp mà còn thông minh, tài hoa, thể hiện qua những tài năng như đàn, thơ, và khả năng ứng xử. Qua đó, Nguyễn Du khẳng định giá trị của người phụ nữ không chỉ ở nhan sắc mà còn ở trí tuệ và tâm hồn.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đạt đến mức độ lý tưởng, từ thơ ca, hội họa đến âm nhạc, nàng đều thành thạo. Đặc biệt, Kiều rất tinh thông Hồ cầm. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng các từ ngữ như “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” để khắc họa sự hoàn hảo của nàng. Tài năng của Thúy Kiều, qua ngòi bút của Nguyễn Du, có thể so sánh với tài thơ xuất chúng của cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
Quả thật, “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”! Điều này giúp ta hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả tài năng của Thúy Vân. Tạo hóa dường như đã dành tất cả cho Thúy Kiều, rồi lại tỏ ra ghen tị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Những câu thơ của Nguyễn Du vừa ngợi ca, vừa chất chứa nỗi lo lắng, băn khoăn. Có lúc, ông phải thốt lên:
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Nhưng làm sao tránh được khi “Thiên bạc mệnh” đã vận vào Kiều? Trái tim nhân đạo bao la của Nguyễn Du cũng không thể cứu nàng khỏi vòng xoáy nghiệt ngã của số phận.
Đoạn trích khép lại với bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, đức hạnh và mẫu mực của hai chị em Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Vẻ đẹp chung của hai chị em được tóm gọn trong cuộc sống nhung lụa, giàu sang. Hai cô gái họ Vương đang ở độ tuổi đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người – tuổi dậy thì trong trắng, vô tư. Dù đã đến tuổi cài trâm, họ vẫn sống trong sự êm đềm của gia đình gia giáo, không màng đến chuyện “ong bướm”. Nguyễn Du một lần nữa khẳng định nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em. “Êm đềm”, “mặc ai” không phải là sự vô cảm mà là phong thái cao quý của người đẹp. Ngôn từ của Nguyễn Du tinh tế, sâu sắc, không hề hời hợt.
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã thể hiện tài năng bậc thầy của mình. Ngòi bút ông linh hoạt, khi tỉ mỉ, khi phóng khoáng; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ và ngôn ngữ dân gian. Qua đó, ông không chỉ làm nghệ thuật mà còn gửi gắm tâm tư, tình cảm. Để rồi, khi đọc Truyện Kiều, người đời không chỉ yêu mến nhân vật mà còn cảm nhận được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều: Nghệ thuật miêu tả và tình yêu thương của Nguyễn Du
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 1
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới, đã để lại cho đời kiệt tác “Truyện Kiều” – một tác phẩm văn học có giá trị lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu tác phẩm, khắc họa vẻ đẹp tuyệt mỹ của hai chị em Thúy Kiều. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung sống động về hai tuyệt thế giai nhân, mỗi người một vẻ nhưng đều đạt đến độ hoàn mỹ hiếm có.
Mở đầu đoạn trích, tác giả phác họa vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều. Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã làm hiện lên hình ảnh hai người con gái tuyệt sắc:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, điển hình trong thơ cổ điển, để miêu tả vẻ đẹp của hai chị em. Hình ảnh “mai cốt cách, tuyết tinh thần” gợi lên dáng vẻ thanh cao, mảnh mai như cành mai, và tâm hồn trong trắng, thuần khiết như tuyết. Dù mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, cả hai đều đạt đến sự hoàn hảo “mười phân vẹn mười”.
Tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân qua những hình ảnh chọn lọc và ngôn từ tinh tế:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du khắc họa vẻ đẹp phúc hậu, cao quý của Thúy Vân. Khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, lông mày đậm nét như con ngài, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn hơn tuyết. Vẻ đẹp của nàng tạo sự hòa hợp với thiên nhiên, dự báo một cuộc đời bình yên, hạnh phúc.
Sau khi miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du dành 12 câu thơ để khắc họa vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm. Đây là nghệ thuật đòn bẩy, làm nổi bật sự vượt trội của Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Thúy Kiều không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn. Nguyễn Du tập trung miêu tả đôi mắt của nàng – cửa sổ tâm hồn. “Làn thu thủy” gợi lên đôi mắt trong veo, long lanh như nước mùa thu, còn “nét xuân sơn” khắc họa đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn, và có thể làm nghiêng nước nghiêng thành.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.
Thúy Kiều không chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn tài năng toàn diện. Nàng thông minh bẩm sinh, giỏi thơ vẽ, tinh thông âm nhạc, và đặc biệt là tài đàn hồ cầm. Khúc nhạc “bạc mệnh” do nàng sáng tác phản ánh tâm hồn đa cảm và dự báo số phận éo le của nàng. Vẻ đẹp và tài năng của Kiều khiến tạo hóa phải ghen ghét, dự báo một cuộc đời đầy sóng gió.
Bốn câu thơ cuối khép lại đoạn trích, miêu tả cuộc sống phong lưu, đức hạnh của hai chị em Thúy Kiều. Dù đã đến tuổi cập kê, họ vẫn sống trong sự êm đềm, khuôn phép của gia đình:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Đoạn thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, phác họa cuộc sống bình yên, ấm áp của những thiếu nữ khuê các.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ xuất sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc, kết hợp nét vẽ hàm súc, gợi cảm cùng biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, đã tạo nên bức chân dung sống động về hai chị em Thúy Kiều. Điều đáng quý là bức chân dung ấy được dựng lên từ tình yêu thương và sự trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho con người.
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 2
Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc và nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, được vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều”, kiệt tác của ông, được xem là quốc hồn quốc túy của Việt Nam. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu tác phẩm, giới thiệu và khắc họa vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Bốn câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du phác họa vẻ đẹp chung của hai nàng:
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Hai chị em được ví von như “hai ả tố nga”, biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ thời xưa. Nguyễn Du giới thiệu rõ vai vế trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Cả hai đều mang dáng vẻ thanh tao, mềm mại như cành mai, với tâm hồn trong trắng, thuần khiết như tuyết. “Mai” và “tuyết” là những hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp tinh túy, và hai nàng chính là sự kết tinh của những vẻ đẹp ấy. Vẻ đẹp của họ được nâng lên mức lý tưởng, “mười phân vẹn mười”.
Bức chân dung Thúy Vân được khắc họa qua bốn câu thơ tiếp theo. Vẻ đẹp của nàng toát lên sự “trang trọng khác vời”, quý phái như những tiểu thư khuê các. “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” gợi lên khuôn mặt phúc hậu, tròn trịa, rạng rỡ như trăng rằm, với đôi lông mày cong thanh tú như con ngài, tạo nên sự hài hòa, cân đối.
"Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Nụ cười của Thúy Vân tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Từ “thốt” được Nguyễn Du sử dụng tinh tế, cho thấy nàng là người ăn nói nhẹ nhàng, đúng mực. Mái tóc nàng mượt mà, bồng bềnh hơn cả mây, làn da trắng mịn hơn tuyết.
Khác với Thúy Vân, vẻ đẹp của Thúy Kiều không được miêu tả chi tiết mà được chấm phá qua những nét vẽ tinh tế, bắt trọn cái thần, cái hồn của nàng:
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
Nguyễn Du khẳng định rằng, “So bề tài sắc”, Thúy Kiều vẫn vượt trội hơn em. Vẻ đẹp của nàng vừa sắc sảo, vừa đằm thắm, với đôi mắt trong như làn nước mùa thu, đôi lông mày cong mềm mại như dáng núi mùa xuân. Đặc biệt, nếu Thúy Vân khiến thiên nhiên “thua”, “nhường”, thì Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải “ghen”, “hờn”. Điều này không chỉ khẳng định vẻ đẹp tuyệt sắc của nàng mà còn dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, trắc trở.
Không chỉ miêu tả nhan sắc, Nguyễn Du còn dành nhiều câu thơ để khắc họa tài năng của Thúy Kiều, đặc biệt là tài đàn: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nàng thông thạo cầm kỳ thi họa, nhưng nổi bật nhất là tài đàn:
"Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương"
Thúy Kiều còn tự sáng tác khúc “Bạc mệnh”, thể hiện tâm hồn đa sầu đa cảm của nàng. Khúc đàn không chỉ là tiếng lòng mà còn như một lời tiên tri về số phận truân chuyên của nàng. Thúy Kiều là sự kết hợp hoàn hảo giữa sắc đẹp, tài năng và tâm hồn sâu sắc.
Dù cả hai chị em đều là những giai nhân tuyệt sắc, họ vẫn sống một cuộc đời khuôn phép, như những bông hoa chưa từng hé nở, mặc kệ những lời ong bướm xung quanh.
Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" khắc họa bức chân dung hai giai nhân tuyệt sắc, đồng thời thể hiện tài năng và tấm lòng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 3
Trong kho tàng thơ ca cổ điển viết về giai nhân, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được xem là một tuyệt tác. Hai mươi bốn câu thơ lục bát đã khắc họa chân dung hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân với vẻ đẹp sắc nước hương trời, tài năng và đức hạnh vẹn toàn.
Với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai tuyệt thế giai nhân:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Thúy Vân là em, Thúy Kiều là chị. Hai chị em đều là những “ả tố nga” – những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của họ được so sánh với mai và tuyết, biểu tượng của sự thanh cao và trong trắng:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn của hai chị em. Mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, nhưng cả hai đều đạt đến độ hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”. Vẻ đẹp của họ không chỉ vượt lên trên khuôn mẫu mà còn trở thành chuẩn mực của cái đẹp.
Sau khi giới thiệu chung về hai chị em, Nguyễn Du đi vào miêu tả chi tiết vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ “trang trọng” đã khắc họa vẻ đẹp đài các, cao sang của Thúy Vân. Vẻ đẹp ấy được so sánh với những gì tinh túy nhất của thiên nhiên:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn diện từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói. Khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, đôi lông mày đậm nét như con ngài, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà hơn mây, làn da trắng mịn hơn tuyết. Vẻ đẹp của nàng tạo sự hòa hợp với thiên nhiên, dự báo một cuộc đời bình yên, hạnh phúc.
Trong khi Thúy Vân được miêu tả chi tiết, Nguyễn Du lại chọn cách phác họa Thúy Kiều bằng những nét vẽ thông thoáng, tinh tế:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được đặt trong sự so sánh với Thúy Vân để làm nổi bật sự vượt trội về cả sắc đẹp lẫn tài năng. Nguyễn Du không miêu tả chi tiết khuôn mặt, giọng nói hay mái tóc của Kiều mà tập trung khắc họa đôi mắt – cửa sổ tâm hồn, thể hiện sự sắc sảo và tinh anh của trí tuệ.
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ miêu tả đôi mắt Kiều như một bức tranh sơn thủy hữu tình, với làn nước mùa thu trong vắt và dáng núi mùa xuân thanh tú. Đôi mắt ấy không chỉ long lanh, sáng ngời mà còn ẩn chứa vẻ đẹp tinh khôi, khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ vượt trội thiên nhiên mà còn khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn. Thiên nhiên không còn “thua”, “nhường” mà trở nên đố kỵ, ghen ghét. Nếu Thúy Vân đẹp như những gì tinh khôi nhất của đất trời, thì Thúy Kiều lại mang vẻ đẹp của sông núi, không gian bao la và thời gian vô tận. Vẻ đẹp ấy có thể làm nghiêng nước, đổ thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du sử dụng điển tích để cực tả vẻ đẹp tuyệt thế của Kiều. Đằng sau nhan sắc ấy là tài năng và tâm hồn đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều tinh thông cầm, kỳ, thi, họa, và tài năng nào cũng đạt đến độ điêu luyện. Nàng giỏi âm luật, thông thạo ngũ âm, và tiếng đàn hồ cầm của nàng vượt trội hơn bất kỳ nghệ sĩ nào. Để tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du sử dụng hàng loạt từ ngữ mang tính tuyệt đối: “vốn sẵn”, “pha nghề”, “làu bậc”, “đủ mùi”. Không chỉ giỏi ca hát, chơi đàn, Kiều còn sáng tác nhạc. Khúc “Bạc mệnh” do nàng sáng tác là tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Tài năng của Kiều không chỉ là biểu hiện của trí tuệ mà còn là tấm lòng nhân hậu, nghĩa tình. Vẻ đẹp của nàng là sự kết hợp hoàn hảo giữa sắc, tài và tình. Tuy nhiên, sự hoàn mỹ ấy lại dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, bởi “hồng nhan bạc mệnh”.
Nguyễn Du dành lời ca ngợi cho cả hai chị em, nhưng ngòi bút của ông có sự khác biệt khi miêu tả từng người. Thúy Vân đẹp ở ngoại hình, còn Thúy Kiều đẹp cả về tài năng, nhan sắc và tâm hồn. Điều này không chỉ tạo nên vẻ đẹp riêng biệt mà còn hé mở hai số phận khác nhau. Hai bức chân dung của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân cho thấy tài năng miêu tả tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn trích là bốn câu thơ miêu tả cuộc sống phong lưu, đức hạnh của hai chị em:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”
Hai chị em không chỉ có sắc đẹp, tài năng mà còn sống một cuộc đời phong lưu, đức hạnh. Cả hai đều đã đến tuổi cập kê, nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như một sự bảo vệ, che chở cho hai chị em, hai bông hoa chưa từng hé nở. Nguyễn Du đã gạt bỏ mọi vẩn đục của cuộc đời để tôn vinh đức hạnh và sự trong trắng của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài năng thi ca, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều bằng những nét đẹp nhất của ngôn từ. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ không chỉ thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng mà còn khẳng định tài năng xuất chúng của đại thi hào dân tộc.
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 4
Có ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều là một kiệt tác hàng trăm năm nay, được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với người đọc”. Quả thật, bằng tài năng và tâm huyết, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là minh chứng tiêu biểu cho tài năng miêu tả và khắc họa nhân vật của ông.
Đoạn trích không chỉ khắc họa rõ nét hai chị em Thúy Kiều mà còn hé lộ tính cách và số phận của họ. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu hai chị em:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai chị em được gọi là “tố nga”, chỉ những người con gái đẹp thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân mang vóc dáng thanh mảnh như cành mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Mỗi người một vẻ đẹp riêng, nhưng cả hai đều đạt đến sự hoàn hảo, trở thành chuẩn mực của cái đẹp đương thời.
Sau khi giới thiệu chung, Nguyễn Du đi vào miêu tả chi tiết từng nhân vật. Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp đoan trang, khiến người đọc ngỡ ngàng:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thúy Vân toát lên sự đoan trang, phúc hậu. Khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, đôi lông mày đậm nét như con ngài, nụ cười tươi như hoa, làn da trắng mịn như tuyết, mái tóc mượt mà hơn mây. Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật ẩn dụ và so sánh, lấy hình ảnh thiên nhiên như “trăng, hoa, mây, tuyết” để khắc họa vẻ đẹp tự nhiên, sống động của nàng. Vẻ đẹp ấy hài hòa với thiên nhiên, khiến mây phải “thua”, tuyết phải “nhường”, dự báo một cuộc đời bình yên, hạnh phúc.
Nếu Thúy Vân đẹp với vẻ phúc hậu, cao quý, thì Thúy Kiều lại vượt trội cả về sắc lẫn tài. Nguyễn Du dành mười hai câu thơ để đặc tả Kiều, trong đó bốn câu khắc họa chân dung:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong xã hội cũ, thiên nhiên được coi là chuẩn mực của cái đẹp. Nguyễn Du khéo léo sử dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nếu Thúy Vân đẹp đoan trang, phúc hậu, thì Thúy Kiều lại sắc sảo, mặn mà, toàn vẹn cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp của Kiều được khắc họa qua đôi mắt trong như nước mùa thu, đôi mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Hình ảnh ước lệ kết hợp với ẩn dụ đã tạo nên một chân dung hoàn hảo. Vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”, dự báo một số phận đầy sóng gió.
Nếu Thúy Vân chỉ được miêu tả qua nhan sắc, thì Thúy Kiều còn được ngợi ca cả tài năng:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Thúy Kiều không chỉ đẹp tuyệt trần mà còn tài năng xuất chúng, hiếm có người thứ hai sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về tài năng thời xưa hội tụ ở “cầm, kỳ, thi, họa”, và Thúy Kiều không chỉ thành thạo mà còn xuất sắc trong tất cả. Đặc biệt, nàng nổi bật với tài “cầm”. Tiếng đàn của nàng vang lên từ một tâm hồn đa sầu đa cảm, và có lẽ bản nhạc nàng sáng tác trong tuổi thanh xuân chính là “thiên bạc mệnh”, dự báo một tương lai đầy sóng gió:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Với tất cả tài năng và phẩm chất của mình, cuộc sống êm đềm hiện tại của Kiều dường như chỉ là sự tĩnh lặng trước cơn bão táp sắp ập đến. Như dân gian từng nói: “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện cuộc sống bình yên, ngày qua ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, dưới “trướng rủ màn che”, hai chị em đã gần đến tuổi tìm đấng phu quân. Tuy nhiên, chữ “mặc” trong câu thơ cuối thể hiện thái độ thờ ơ của Kiều và Vân đối với những kẻ bên ngoài.
Bằng tài năng và tâm huyết, Nguyễn Du đã khắc họa chân dung hai nhân vật một cách sống động và sắc nét. Với thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu chặt chẽ, và bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc (làn thu thủy, nét xuân sơn, mai cốt cách, tuyết tinh thần...), cùng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, Nguyễn Du không chỉ thành công trong việc miêu tả ngoại hình mà còn dự báo số phận của hai chị em. Đặc biệt, chân dung Thúy Kiều là sự hội tụ của “sắc, tài, tình, mệnh”.
Như vậy, đằng sau những nét khắc họa và dự cảm về số phận, Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình đối với người phụ nữ trong xã hội xưa. Đây chính là điểm đặc sắc của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một minh chứng cho tài năng miêu tả chân dung của đại thi hào.
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 5
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác của văn học trung đại mà còn là niềm tự hào của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc, phản ánh sự bất công của xã hội phong kiến và số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng nhân đạo, cảm thương sâu sắc cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ, và trân trọng những vẻ đẹp của họ trong xã hội cũ.
Dù là con người của thời đại phong kiến, nhưng qua “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã vượt lên trên thời đại, để lại cho hậu thế một tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa Việt. “Truyện Kiều” không chỉ là nguồn cảm hứng cho nhiều loại hình nghệ thuật như bói Kiều, lẩy Kiều, tranh Kiều, mà còn được dịch và xuất bản tại hơn hai mươi quốc gia. Thành công của tác phẩm không chỉ nằm ở nội dung hiện thực và nhân đạo mà còn ở giá trị nghệ thuật, thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là minh chứng tiêu biểu cho bút pháp ước lệ tượng trưng trong miêu tả vẻ đẹp con người.
Thúy Kiều, nhân vật chính của tác phẩm, xuất thân từ gia đình danh giá. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu “Gặp gỡ và đính ước”, giới thiệu bối cảnh gia đình và mối duyên định mệnh của nàng với Kim Trọng.
Hai câu đầu đoạn trích: “Đầu lòng hai ả tố nga/Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” giới thiệu thân phận hai chị em, con gái của gia đình Vương viên ngoại. Vẻ đẹp chung của hai nàng được Nguyễn Du tóm gọn qua câu “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, thể hiện phong cách ước lệ gợi tả. “Mai” tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, kiên cường, còn “tuyết” thể hiện sự trong trắng, tinh khiết. Mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, nhưng cả hai đều hoàn hảo “mười phân vẹn mười”.
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thúy Vân mang tính tiêu chuẩn của xã hội phong kiến, phúc hậu và an nhàn. Nguyễn Du miêu tả nàng với khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, đôi lông mày đậm nét, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy hài hòa với thiên nhiên, dự báo một cuộc đời bình yên.
Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du dành tám câu thơ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, thể hiện sự vượt trội cả về sắc lẫn tài:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được khắc họa qua đôi mắt trong như nước mùa thu, đôi mày thanh tú như núi mùa xuân. Nhan sắc của nàng khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn, và có thể làm nghiêng nước nghiêng thành. Không chỉ đẹp, Kiều còn tài năng xuất chúng, thông minh, tinh thông cầm kỳ thi họa, đặc biệt là tài đàn tỳ bà.
Nguyễn Du xây dựng hình tượng Thúy Kiều vừa có nhan sắc tuyệt trần, vừa tài hoa, nhưng cũng dự báo một số phận đầy sóng gió. Khúc “Bạc mệnh” do nàng sáng tác là tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm, phản ánh cuộc đời truân chuyên của nàng.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Những câu thơ cuối miêu tả cuộc sống phong lưu, êm đềm của hai chị em. Cả hai sống trong nhung lụa, sắp đến tuổi cập kê nhưng vẫn giữ gìn nền nếp gia phong, chưa từng đắm chìm trong ái tình.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong việc miêu tả nhân vật bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Qua đó, ông không chỉ khắc họa vẻ đẹp ngoại hình mà còn thể hiện tư tưởng nhân đạo, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của người phụ nữ, đặc biệt là Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh.
Phân tích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 6
Nguyễn Du (1765 - 1820), quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, là đại thi hào dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là “Đoạn trường tân thanh”, hay còn gọi là “Truyện Kiều”. Tác phẩm không chỉ có nội dung sâu sắc mà còn đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là minh chứng tiêu biểu cho tài năng khắc họa nhân vật của Nguyễn Du, qua đó thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp con người, đặc biệt là người phụ nữ, thông qua việc miêu tả tài sắc của hai chị em Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả giới thiệu khái quát về vị thứ và vẻ đẹp của hai chị em:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”
Nguyễn Du giới thiệu hai “ả tố nga” một cách ngắn gọn nhưng đầy ấn tượng. Hai cô con gái của gia đình họ Vương đẹp như tiên nữ “Hằng Nga”. Câu thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, qua hình ảnh “mai” và “tuyết”, gợi lên vẻ đẹp thanh cao, duyên dáng của hai thiếu nữ. Dáng người mảnh mai như cành mai, tâm hồn trong trắng như tuyết, cả hai đều đạt đến sự hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng. Cách miêu tả này thể hiện sự ngợi ca và trân trọng của tác giả dành cho vẻ đẹp của hai chị em.
Tiếp theo, Nguyễn Du dành bốn câu thơ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân. Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ, liệt kê những hình ảnh thiên nhiên như “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” để khắc họa chân dung nàng. Khuôn mặt tròn đầy như trăng rằm, đôi lông mày đậm nét như con ngài, nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy khiến thiên nhiên phải “thua”, “nhường”, dự báo một cuộc đời bình yên, không sóng gió.
Nếu Thúy Vân được miêu tả qua bốn câu thơ, thì Thúy Kiều được Nguyễn Du dành tới mười hai câu. Nàng không chỉ đẹp hoàn hảo mà còn vượt trội cả về sắc lẫn tài, là một tuyệt thế giai nhân sắc sảo, mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Thúy Kiều. Chỉ với một câu thơ, tác giả đã khắc họa rõ nét sự vượt trội của Kiều. Nàng không chỉ tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Khi miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du vẫn sử dụng bút pháp ước lệ qua các hình ảnh thiên nhiên như “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Tuy nhiên, ông không liệt kê chi tiết như với Thúy Vân mà tập trung vào đôi mắt. Hình ảnh “thu thủy” gợi tả đôi mắt trong như nước mùa thu, “xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung. Đôi mắt ấy là cửa sổ tâm hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn. Vẻ đẹp của Kiều khiến thiên nhiên phải ghen ghét, đố kỵ.
Nếu sắc đẹp của Kiều đã khiến người ta ngưỡng mộ, thì tài năng của nàng càng khiến người ta kinh ngạc. Nguyễn Du dành phần lớn để nói về tài năng của Kiều, thể hiện dụng ý nghệ thuật của ông. Về sắc đẹp, Kiều là số một, còn về tài năng, trong thiên hạ may ra có người thứ hai:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Kiều thông minh bẩm sinh, tài năng của nàng là món quà trời ban. Tài năng ấy đạt đến độ hoàn thiện theo quan niệm thẩm mỹ, bao gồm cả “cầm, kỳ, thi, họa”.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Đặc biệt, tài đàn của Kiều vượt trội hơn cả, trở thành sở trường của nàng. Tiếng đàn của Kiều hay đến mức có thể vượt qua bất kỳ nghệ sĩ tài ba nào. Không chỉ giỏi đánh đàn, Kiều còn tinh thông sáng tác nhạc, tự soạn cho mình bản “Bạc mệnh”. Mỗi khi nàng gảy khúc nhạc này, lòng người nghe không khỏi chau mày, rơi lệ. Cung đàn “Bạc mệnh” chính là tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hoàn hảo giữa sắc, tài và tình, một vẻ đẹp vượt lên trên mọi khuôn khổ, khiến tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ.
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Qua việc khắc họa chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du dự báo một số phận đầy éo le, đau khổ, một tương lai chìm nổi đang chờ đợi nàng. Dù tài sắc của Thúy Kiều và Thúy Vân khác nhau, dự báo hai cuộc đời khác biệt, nhưng đức hạnh của cả hai đều đáng trân trọng, được thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Dù đã đến tuổi cập kê, hai “ả tố nga” vẫn sống một cuộc đời nề nếp, gia giáo, không vướng bận những tình cảm thiếu đúng đắn.
Với hai mươi bốn câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã tạo nên một mẫu mực về nghệ thuật miêu tả con người. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy, cùng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, tác giả đã khắc họa chân dung hai thiếu nữ với đầy đủ sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức chân dung ấy là tấm lòng ngợi ca, trân trọng của Nguyễn Du – một biểu hiện sâu sắc của tinh thần nhân văn trong “Truyện Kiều”, giúp ta thêm trân quý vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học Chị em Thúy Kiều
Chế Lan Viên từng khẳng định: “Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Quả thật, “Đoạn Trường Tân Thanh” với những vần thơ lục bát tuyệt mỹ đã trở thành niềm tự hào của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” không chỉ là tác phẩm văn chương mà còn là tinh hoa, là vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Trong tác phẩm, ta thấy được tài năng nghệ thuật đỉnh cao của Nguyễn Du, với những câu thơ bay bổng, vượt lên trên nền trời thi ca. Tiêu biểu cho ngòi bút tài hoa ấy là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, nơi tác giả khắc họa vẻ đẹp “sắc nước hương trời” của Thúy Kiều - một tuyệt sắc giai nhân trong văn học trung đại.
Nếu như ở phần đầu, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp thanh cao, trong trắng của cả hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều, đồng thời nhấn mạnh sự đoan trang, quý phái của Thúy Vân, thì ở mười hai câu tiếp theo, ông dành trọn bút lực để phác họa chân dung Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai”
Khi miêu tả Thúy Vân, tác giả đi vào chi tiết từng đường nét trên khuôn mặt, so sánh với vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng với Thúy Kiều, Nguyễn Du lại sử dụng bút pháp chấm phá, gợi mở để người đọc tự hình dung ra vẻ đẹp tuyệt thế của nàng. Sắc đẹp của Kiều khiến người ta say đắm đến mức “nghiêng nước nghiêng thành”, còn thiên nhiên thì đố kị, “hoa ghen, liễu hờn”. Tác giả sử dụng những hình ảnh ước lệ như “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), “hoa”, “liễu” để khắc họa vẻ đẹp của Kiều, nhưng không đi vào chi tiết cụ thể như với Thúy Vân. Thay vào đó, ông tập trung vào đôi mắt - cửa sổ tâm hồn: “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Đôi mắt ấy long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân, thể hiện sự tinh anh, mơ màng và thanh tao của nàng Kiều. Vẻ đẹp ấy khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn, báo hiệu một số phận đầy sóng gió: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
Không chỉ sở hữu nhan sắc “nghiêng nước nghiêng thành”, Thúy Kiều còn là một cô gái tài hoa, thông minh hiếm có:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến: đủ cả cầm, kỳ, thi, họa. Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn hẳn, với khúc “Bạc mệnh” đầy cảm xúc, thể hiện tâm hồn đa sầu đa cảm của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hoàn hảo giữa sắc - tài - tình, nhưng cũng chính điều này đã dự báo một số phận éo le, đau khổ. Vẻ đẹp ấy khiến tạo hóa ghen ghét, thiên nhiên đố kị, và cung đàn “Bạc mệnh” như một lời tiên tri về cuộc đời đầy bất hạnh của nàng. Qua đó, Nguyễn Du không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ mà còn bày tỏ sự xót thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là minh chứng cho tài năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du. Từ vẻ đẹp ngoại hình, nhà thơ đã khéo léo gợi mở tính cách và số phận của nhân vật. Đặc biệt, việc miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến Thúy Kiều là một dụng ý nghệ thuật tinh tế, nhằm tạo hiệu ứng “đòn bẩy”, làm nổi bật vẻ đẹp vượt trội của Kiều. Dù cùng sử dụng bút pháp ước lệ, nhưng mức độ đậm nhạt trong miêu tả hai nhân vật hoàn toàn khác biệt, thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút của đại thi hào.
Với cảm hứng nhân đạo sâu sắc và tài năng nghệ thuật đỉnh cao, Nguyễn Du đã tạo nên bức chân dung Thúy Kiều hoàn mỹ, kết hợp giữa vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn. Đoạn trích này không chỉ là đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả trong văn học trung đại mà còn là một kiệt tác vượt thời gian, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
....
- Cảm nhận sâu sắc khổ 1 bài thơ Mùa xuân chín (Dàn ý chi tiết + 2 bài văn mẫu) - Khám phá vẻ đẹp của Mùa xuân chín
- Tưởng tượng kết thúc mới cho truyện Cây khế - Văn mẫu sáng tạo lớp 6
- Bài văn miêu tả loài cây phổ biến tại địa phương em - Tả cây cối dành cho học sinh lớp 4
- Cảm nhận sâu sắc về bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử (Dàn ý + 3 Bài văn mẫu)
- Văn mẫu lớp 10: Suy ngẫm sâu sắc về đoạn trích 'Hiền Tài là nguyên khí của Quốc gia' - Trích tác phẩm của Thân Nhân Trung