Phân tích bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên: Sơ đồ tư duy, dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu đặc sắc
Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một tác phẩm nổi bật trong chương trình Ngữ văn. Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên được EduTOPS biên soạn kỹ lưỡng, mang đến cho bạn đọc những góc nhìn sâu sắc và toàn diện về tác phẩm này.
Tài liệu bao gồm sơ đồ tư duy trực quan, dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu phân tích bài thơ Ông đồ. Những nội dung này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm. Hãy khám phá ngay sau đây.
Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên một cách ngắn gọn và súc tích
Ông đồ là tác phẩm tiêu biểu, phản ánh phong cách thơ đặc trưng của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, hình ảnh ông đồ ngồi viết câu đối trên phố trở nên quen thuộc và gần gũi:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”
Ông đồ hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa, được mọi người ngưỡng mộ và trân trọng:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Theo dòng thời gian, xã hội đổi thay, ông đồ vẫn ngồi đó nhưng chẳng còn ai để ý:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Thời gian trôi qua, ông đồ không còn được trọng vọng như xưa. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” thể hiện nỗi buồn và sự tiếc nuối trước sự thay đổi của thời cuộc. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi lòng của người nghệ sĩ khi bị lãng quên.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Khổ thơ cuối là lời nhắn gửi đầy xót xa về sự mai một của một nét đẹp văn hóa truyền thống.
Bài thơ Ông đồ thể hiện niềm thương cảm chân thành trước số phận của một lớp người dần bị lãng quên, đồng thời bộc lộ nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về quá khứ vàng son của Vũ Đình Liên.
Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên

Dàn ý phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
I. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào bài thơ Ông đồ, một tác phẩm nổi tiếng của Vũ Đình Liên.
II. Thân bài
1. Hình ảnh ông đồ trong quá khứ
- Hình ảnh ông đồ hiện lên trên phố cùng hoa đào, mực tàu và giấy đỏ, tạo nên một không gian truyền thống đậm chất xuân.
- Ông đồ viết câu đối như một nghệ sĩ biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay”, khiến người xem không khỏi trầm trồ khen ngợi.
=> Một thời kỳ vàng son đã qua.
2. Hình ảnh ông đồ trong hiện tại
- Hoàn cảnh: “Mỗi năm mỗi vắng” cho thấy sự lãng quên dần của con người theo thời gian.
- Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” thể hiện nỗi buồn và sự tiếc nuối của tác giả.
- Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi lòng của người nghệ sĩ khi bị lãng quên.
- Hình ảnh “lá vàng rơi trên giấy”, “ngoài đường mưa bụi bay” khắc họa sự cô đơn và lạnh lẽo của ông đồ.
3. Nỗi xót xa của nhà thơ trước hoàn cảnh của ông đồ
- Thời gian: “Năm nay đào lại nở” cho thấy sự tuần hoàn của thời gian, nhưng ông đồ xưa đã không còn.
- Hình ảnh “không thấy” như một lời phủ nhận sự hiện diện của một con người từng là biểu tượng được ngưỡng vọng.
- Câu hỏi tu từ cuối bài “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?” như một tiếng than đầy xót xa cho số phận của những giá trị xưa cũ.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Ông đồ”, một tác phẩm đầy tình người và nỗi niềm hoài cổ.
Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - Tác phẩm đầy cảm xúc và giá trị nhân văn
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 1
Vũ Đình Liên, một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới, mang trong thơ mình nỗi niềm thương người và tình yêu hoài cổ. Bài thơ Ông đồ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy.
Trong xã hội phong kiến xưa, ông đồ là biểu tượng của học thức. Mỗi dịp Tết đến, hình ảnh ông đồ bày mực tàu, giấy đỏ viết câu đối trên phố đã trở nên quen thuộc:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Những nét chữ tài hoa như “phượng múa rồng bay” khiến người xem không khỏi trầm trồ khen ngợi:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
“Hoa tay” là cách nói ẩn dụ về tài năng thiên bẩm. Tác giả sử dụng từ láy “tấm tắc” và biện pháp so sánh “như phượng múa rồng bay” để khẳng định tài năng xuất chúng của ông đồ, đồng thời bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Đó là một thời kỳ vàng son đáng trân trọng.
Nhưng thời gian trôi qua, xã hội đổi thay, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng chẳng còn ai để ý:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” nhấn mạnh sự lãng quên dần theo thời gian. Ông đồ không còn được trọng vọng như xưa. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” bộc lộ nỗi buồn và sự tiếc nuối. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi lòng của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Cảnh vật cũng nhuốm màu u buồn.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
“Năm nay” chỉ hiện tại, “đào lại nở” báo hiệu mùa xuân về. Nhưng ông đồ xưa đã không còn. Câu hỏi tu từ như một lời than trách cho số phận của ông đồ, đồng thời thể hiện nỗi tiếc nuối về một nét đẹp văn hóa đang dần mai một.
Với thể thơ ngũ ngôn giản dị mà sâu lắng, giọng thơ đầy cảm xúc cùng những biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ Ông đồ đã khắc họa tình cảnh đáng thương của ông đồ, qua đó bày tỏ niềm thương cảm chân thành trước một lớp người dần bị lãng quên và nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về quá khứ vàng son của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 2
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ “Ông đồ” mang đậm dấu ấn sáng tác của ông, chứa đựng nhiều thông điệp sâu sắc.
Hình ảnh ông đồ từng rất quen thuộc trong xã hội xưa. Họ là những người có học thức và tài năng. Mỗi dịp Tết đến, ông đồ lại bày mực tàu, giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Ông đồ viết câu đối như một nghệ sĩ biểu diễn thư pháp, khiến người xem không khỏi trầm trồ khen ngợi. Đó là thời kỳ vàng son, khi ông đồ được trân trọng và ngưỡng mộ. Biết bao người đã tấm tắc khen ngợi tài năng của ông:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
“Hoa tay” là cách nói ẩn dụ về tài năng thiên bẩm. Biện pháp so sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với ông đồ. Nhưng thời gian trôi qua, xã hội đổi thay, ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng chẳng còn ai để ý:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” nhấn mạnh sự lãng quên dần theo thời gian. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” bộc lộ nỗi buồn và sự tiếc nuối. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi lên nỗi lòng của người nghệ sĩ khi bị lãng quên. Cảnh vật cũng nhuốm màu u buồn, thê lương.
“Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Mùa xuân lại về, nhưng ông đồ xưa đã không còn. Câu hỏi tu từ như một lời than trách cho số phận của ông đồ, đồng thời thể hiện nỗi tiếc nuối về sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong những tác phẩm mà em yêu thích nhất của Vũ Đình Liên.
Với thể thơ ngũ ngôn giản dị mà sâu lắng, giọng thơ đầy cảm xúc cùng những biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ đã khắc họa tình cảnh đáng thương của ông đồ, qua đó bày tỏ niềm thương cảm chân thành trước một lớp người dần bị lãng quên và nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về quá khứ vàng son của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 3
Nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ để bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc trước số phận của một lớp người đang dần tàn lụi, đồng thời thể hiện nỗi tiếc nuối về một nét đẹp truyền thống của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh ông đồ hiện lên trong dòng hồi tưởng và hoài niệm của tác giả:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Cấu trúc “mỗi… lại” cho thấy ông đồ là hình ảnh quen thuộc mỗi dịp Tết đến xuân về. Cùng với sắc đỏ của hoa đào, giấy đỏ, và màu đen nhánh của mực tàu, ông đồ trở thành một phần không thể thiếu trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ nhẹ nhàng mà chứa đựng biết bao yêu thương. Dù chỉ chiếm một góc nhỏ trên phố, nhưng trong bức tranh thơ, ông đồ lại là trung tâm, hòa mình vào không khí nhộn nhịp của ngày Tết với tài năng của mình:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Từ “bao nhiêu” cho thấy nghề viết chữ từng được yêu mến. Sự hiện diện của ông đồ thu hút sự chú ý, ông là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc không chỉ đến từ việc có nhiều người thuê viết, mà còn từ những lời khen ngợi tài năng của ông. Ba phụ âm 't' trong câu thơ như một tràng pháo tay giòn giã, ca ngợi tài năng của ông. Giữa đám đông, ông hiện lên như một nghệ sĩ say mê sáng tạo, trổ hết tài năng và tâm huyết. Vũ Đình Liên còn thể hiện niềm tự hào về truyền thống chơi câu đối chữ của dân tộc. Nhưng liệu có bao nhiêu người hiểu được ý nghĩa sâu xa của từng câu chữ để chia sẻ niềm vui với ông? Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh ông đồ vẫn hiện diện, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn những người thuê viết, không còn lời khen ngợi, chỉ còn sự vắng vẻ đến thê lương. Cảm xúc buồn thương được thể hiện qua câu hỏi đầy day dứt:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?”
Cũng là “mỗi năm”, nhưng đứng sau từ “nhưng”, nó mang ý nghĩa đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người yêu mến chữ Nho ngày càng thưa thớt, khách quen cũng dần tan tác. Hy vọng nhỏ nhoi của ông đồ là góp chút tài nghệ vào dịp Tết cũng dần tan biến. Câu hỏi tu từ của Vũ Đình Liên thể hiện nỗi nuối tiếc về một thời kỳ vàng son, đọng lại thành nỗi sầu thấm vào cả những vật vô tri:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Giấy đỏ, thứ giấy mỏng manh dùng để viết chữ, giờ “buồn không thắm” vì lâu ngày không được dùng đến. Mực, thứ mực đen thẫm, đã được mài sẵn nhưng chờ đợi trong vô vọng. Các từ “buồn”, “sầu” như thổi hồn vào sự vật, khiến giấy đỏ, mực tàu trở nên có hồn. Nỗi buồn không chỉ thấm vào đồ dùng mà còn lan tỏa ra cả không gian, khiến khung cảnh trở nên đìu hiu, xót xa:
“Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Dù nghề viết chữ không còn được yêu mến, ông đồ vẫn kiên trì ngồi bên lề đường, chờ đợi sự cưu mang. Nhưng chẳng ai để ý đến ông, không một ánh mắt đồng cảm. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình, Vũ Đình Liên đã khắc họa một khung cảnh thiên nhiên đìu hiu, xót xa:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Tại sao giữa mùa xuân lại có lá vàng rơi? Hình ảnh lá vàng gợi đến sự tàn phai của một thời kỳ, một lớp người và một phong tục đẹp đẽ của dân tộc. Ông đồ giống như chiếc lá vàng, cố níu kéo cuộc đời thầm lặng nhưng chỉ còn là quá khứ. Nỗi buồn âm thầm, tê tái khiến cơn mưa xuân cũng trở nên đìu hiu. “Giời” - cách nói dân gian gợi nhớ về một thời xa xưa. Câu thơ khắc họa tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dù không còn được yêu mến, nhưng với nhà thơ, hình ảnh ông đồ vẫn mãi khắc sâu trong trái tim.
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa.”
Mở đầu bài thơ Ông đồ là hình ảnh nhẹ nhàng, và kết thúc cũng khẽ khàng như thế. Năm xưa, khi hoa đào nở, ông đồ ngồi bên lề đường, hòa mình vào không khí đông vui của phố phường. Nhưng nay, cùng thời điểm ấy, ông đã không còn. Hình ảnh xưa cũ dần tan biến theo dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người háo hức sắm Tết, chờ đợi một năm mới đầy hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó, nhưng người đâu? Giờ đây, hình ảnh ông đồ chỉ còn là dấu tích tiều tụy của một thời đã qua, bị lãng quên bởi thế gian, chỉ còn lại trong trái tim thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời trôi đi, cuốn theo cả những gì thanh bình, đẹp đẽ, để lại nỗi trống trải, bâng khuâng, khiến nhà thơ bật lên câu hỏi đầy cảm xúc:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Hai câu thơ cuối là lời bộc bạch trực tiếp cảm xúc dâng trào, mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ, nhà thơ liên tưởng đến những con người của một thời đã qua, và cất lên câu hỏi đầy xót xa: hỏi mây, hỏi trời, hỏi cuộc đời, hỏi cả một thời đại. Câu hỏi tu từ như một lời tự vấn, ẩn chứa nỗi ngậm ngùi, thương cảm. Tất cả những gì thuộc về thời hoàng kim giờ chỉ còn là màu sắc nhạt phai, tê tái. Với việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ, Vũ Đình Liên đã khắc họa hình ảnh ông đồ - một di tích tiều tụy của thời tàn, khiến ta không khỏi xót xa cho số phận của ông.
Chỉ với bài thơ Ông đồ ngắn gọn, tác giả đã khơi dậy trong lòng người đọc niềm thương cảm và nỗi luyến tiếc khôn nguôi. Qua bài thơ, ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên một tấm lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và tình nghĩa thủy chung.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 4
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Tác phẩm của ông tuy không nhiều nhưng đều mang giá trị nghệ thuật và nhân văn sâu sắc. Trong số đó, bài thơ Ông đồ nổi bật nhất, thể hiện tình cảm chân thành của tác giả trước sự mai một của những giá trị truyền thống.
Bài thơ ra đời khi Nho học dần suy tàn, những tinh hoa của Nho giáo trở thành tàn tích. Ông đồ và chữ Nho cũng trở nên lạc lõng trong thời đại mới, khi người ta dần quên lãng bút lông để chuyển sang bút chì.
Hai khổ thơ đầu, Vũ Đình Liên gợi lại thời kỳ huy hoàng của ông đồ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Khổ thơ đầu gợi lên thời gian và địa điểm nơi ông đồ làm việc. Thời gian là mùa xuân, mùa đẹp nhất trong năm, với hình ảnh hoa đào nở tượng trưng cho sự khởi đầu tươi mới. Không khí mùa xuân càng thêm rực rỡ với “mực tàu giấy đỏ”, tạo nên bức tranh sống động, tràn đầy sức sống. Từ “lại” lặp lại cho thấy sự gắn bó lâu dài giữa ông đồ và mùa xuân, công việc viết chữ của ông đã trở thành một phần không thể thiếu mỗi dịp Tết đến. Địa điểm là “bên phố đông người qua”, nơi dòng người tấp nập qua lại, nhưng quan trọng hơn, họ đều dừng chân để thuê ông viết chữ và ngợi khen tài năng của ông. Nét chữ của ông đồ được miêu tả qua hình ảnh so sánh “như phượng múa rồng bay”, toát lên vẻ đẹp phóng khoáng, cao quý. Qua đó, tác giả bày tỏ sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nét đẹp văn hóa truyền thống.
Hai khổ thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh ông đồ trong hiện tại, một kẻ sĩ lạc lõng giữa dòng đời đã thay đổi, nơi chữ Nho trở thành tàn tích:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
“Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.”
“Năm nay đào lại nở” - mùa xuân vẫn đẹp như xưa, nhưng con người đã thay đổi. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” chứa đựng nỗi buồn và sự băn khoăn của tác giả trước sự thờ ơ của con người với nét đẹp văn hóa xưa. Hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” được nhân hóa, như thể chúng cũng mang nỗi buồn của con người. Giấy đỏ nhạt màu, mực đọng lại trong nghiên, tất cả đều gợi lên sự lãng quên và nỗi sầu muộn.
Hình ảnh ông đồ giờ đây thật đáng thương. “Ông đồ vẫn ngồi đó/ Qua đường không ai hay” - nếu trước kia ông được ngưỡng mộ, thì giờ đây ông chỉ là một bóng hình lặng lẽ, mờ nhạt trong sự lãng quên của mọi người. Nghề viết chữ, vốn là công việc bất đắc dĩ của những nho sĩ không đạt được ước mơ khoa bảng, giờ đây càng trở nên bế tắc. Khung cảnh xung quanh ông cũng nhuốm màu buồn bã: “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình khiến cảnh vật cũng mang nỗi buồn của con người, như Nguyễn Du từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Khổ thơ cuối là lời bày tỏ nỗi lòng thương xót của tác giả đối với ông đồ và nét đẹp văn hóa đang dần mai một:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh “mỗi năm hoa đào nở/ lại thấy ông đồ già”, kết thúc là “năm nay hoa đào nở/ không thấy ông đồ xưa”. Kết cấu đầu cuối tương ứng tạo nên sự chặt chẽ, đồng thời khắc sâu nỗi buồn của tác giả trước sự biến mất của nét đẹp truyền thống. Hoa đào vẫn nở, nhưng ông đồ đã không còn. Câu hỏi tu từ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?” là tiếng lòng tiếc thương của tác giả đối với ông đồ và những giá trị văn hóa đang dần lụi tàn.
Với thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, lời thơ giản dị mà sâu lắng, cô đọng, tác giả như kể lại câu chuyện về nét đẹp truyền thống xưa của dân tộc. Kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ, bài thơ hội tụ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc, qua đó bày tỏ nỗi niềm xót thương cho ông đồ và niềm tiếc nuối trước sự mai một của một nền văn hóa dân tộc.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 5
Mỗi người đều có một quê hương và một cảm thức riêng về nguồn cội. Trong dòng chảy vô tận của thời gian, Vũ Đình Liên đau đáu nỗi lo về sự mai một của bản sắc văn hóa. Với “Ông đồ”, nhà thơ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, nhắc nhở con người hiện đại về trách nhiệm giữ gìn những giá trị truyền thống, những nét đẹp của một thời vang bóng. Qua đó, ta cần dừng lại một chút để suy ngẫm về quê hương, về nguồn cội, và về trách nhiệm của chính mình.
Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành dấu tích của một thời đã qua. Nho học suy tàn, người ta đua nhau theo đuổi chữ Tây, chữ Pháp, bỏ quên những giá trị xưa cũ.
Hai khổ thơ đầu, tác giả tái hiện thời kỳ huy hoàng của ông đồ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Đó là thời kỳ chữ Nho được trọng vọng. Những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, mang trong mình giá trị sâu sắc của một nền văn hóa lâu đời. Ông đồ, với tài năng của mình, được mọi người ngưỡng mộ. Đối với một nghệ sĩ, không gì quý giá hơn sự kính trọng và yêu mến của khách thập phương. Nhưng thời thế đổi thay, và trong dòng chảy ấy, những giá trị xưa cũ dần bị lãng quên. Ông đồ cũng không ngoại lệ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
“Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Ông đồ rơi vào cảnh ngộ của một nghệ sĩ không còn khán giả, một cô gái đã tàn phai nhan sắc. Ông vẫn ngồi đó, nhưng chẳng ai để ý. Giữa dòng đời hối hả, ông đồ trở thành một ốc đảo cô đơn, lạnh lẽo. Hiện thực phũ phàng ấy được tái hiện qua hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu”. Biện pháp nhân hóa khiến những vật vô tri trở nên có hồn, ám ảnh tâm trí người đọc. Cảnh mưa phùn gió bấc càng tô đậm nỗi buồn thê lương. Không biết đó là mưa của đất trời hay nỗi lạnh lẽo trong tâm hồn con người. Chỉ biết rằng, giữa làn mưa bụi, ông đồ ngồi đó, lặng lẽ như một di tích tiều tụy.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Người xưa có câu “thi trung hữu họa”, và bài thơ này là minh chứng rõ ràng. Với ngôn từ ít ỏi nhưng cảnh hiện lên như tranh vẽ, không chỉ là hình ảnh ông đồ mà còn là sự tiêu điều của xã hội qua đôi mắt ông. Tác giả sử dụng những chi tiết đắt giá: bút mực, gió mưa, và sự thờ ơ của xã hội. Thể thơ năm chữ phù hợp để diễn tả nỗi buồn hoài niệm, nhịp điệu nhẹ nhàng mà thấm thía. Màn mưa bụi khép lại khổ thơ, để lại cảm giác lạnh lẽo, buồn bã. Và rồi, ta không khỏi bâng khuâng trước câu hỏi đầy da diết của nhà thơ:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã bị đẩy ra ngoài lề xã hội, một mình với bút nghiên, giấy mực, lặng lẽ trở về với quá khứ. Ông đã cố gắng bám víu vào xã hội hiện đại, nhưng chúng ta đã thờ ơ, để rồi giờ đây nhìn lại, mới nhận ra ông đã bị lãng quên từ lâu. Hình ảnh ông đồ không chỉ là một con người, một nghề nghiệp, mà là biểu tượng của cả một thời đại, một phần ký ức trong tâm hồn chúng ta. Câu hỏi tu từ “Hồn ở đâu bây giờ?” không chỉ là lời day dứt, mà còn là tiếng nấc nghẹn của nhà thơ trước sự mai một của văn hóa dân tộc.
Với tình yêu sâu sắc dành cho văn hóa dân tộc, Vũ Đình Liên đã đánh thức trong lòng người đọc nỗi nhớ về một thời vang bóng. Qua đó, ta tự vấn lòng mình: Liệu chúng ta đã làm gì để bảo vệ những giá trị truyền thống? Liệu chúng ta có đang quá mải mê chạy theo những thú vui hiện đại mà quên đi nguồn cội, bản sắc của mình? Bài thơ không chỉ là lời nhắc nhở, mà còn là tiếng gọi thiết tha để mỗi người nhìn lại và trân trọng những gì thuộc về dân tộc.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 6
Trong không khí náo nức của những ngày Tết đến xuân về, người yêu thơ lại lắng mình trước vẻ đẹp giản dị mà đầy nhân văn của bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Hai khổ thơ đầu, tác giả tái hiện thời kỳ huy hoàng của ông đồ:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Những lời khen ngợi hào phóng ấy, nhưng suy cho cùng, đó chỉ là lời khen từ những người ngoài giới bút nghiên. Việc viết câu đối thuê vốn là bước thất thế của người theo nghiệp khoa bảng. Ông đồ, dù chưa đạt được công danh, vẫn phải kiếm sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc, hay bán chữ ngoài phố. Ngày Tết, việc mài mực bán chữ có lẽ là điều bất đắc dĩ của một nho gia. Chữ nghĩa vốn để cho, chứ ai lại bán? Bán chữ là nỗi cực của kẻ sĩ mọi thời. Lời khen của người đời tuy không mang lại vinh quang, nhưng ít nhất cũng là niềm an ủi trong những ngày tháng cuối cùng của ông. Tác giả khéo léo giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm một lần, giấy đỏ mực tàu và chữ nghĩa thánh hiền lại hiện diện trên phố phường. Đó là những ngày ông đồ còn sống được, còn tồn tại trong xã hội đang biến động này. Nhưng cuộc đời không bao giờ dừng lại, sở thích của con người cũng thay đổi theo thời cuộc. Lớp người mới lớn lên không còn mặn mà với thứ chữ tượng hình xưa cũ. Tài năng viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ giờ đây chẳng còn ai quan tâm:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
“Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Ông đồ rơi vào cảnh ngộ của một nghệ sĩ không còn khán giả, một cô gái đã tàn phai nhan sắc. Ông vẫn ngồi đó, nhưng chẳng ai để ý. Hiện thực phũ phàng ấy được tái hiện qua hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu”. Biện pháp nhân hóa khiến những vật vô tri trở nên có hồn, ám ảnh tâm trí người đọc. Cảnh mưa phùn gió bấc càng tô đậm nỗi buồn thê lương. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui như những năm ông đồ “đắt khách” nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi và nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ rồi nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua đôi mắt ông. Tác giả đã sử dụng những chi tiết đắt giá: bút mực, gió mưa, và sự thờ ơ của xã hội. Thể thơ năm chữ phù hợp để diễn tả nỗi buồn hoài niệm, nhịp điệu nhẹ nhàng mà thấm thía. Màn mưa bụi khép lại khổ thơ, để lại cảm giác lạnh lẽo, buồn bã. Chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, tác giả đã khắc họa trọn vẹn những bước chót của một thời tàn. Sự đối chiếu giữa hai đoạn thơ càng làm nổi bật sự biến thiên đầy xót xa.
Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi bước vào bốn câu kết:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Hãy trở lại câu thơ đầu bài “Mỗi năm hoa đào nở” để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn ngồi đó, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa: “Không thấy ông đồ xưa”. Ông đã cố gắng bám víu vào xã hội hiện đại, nhưng chúng ta đã thờ ơ, để rồi giờ đây nhìn lại, mới nhận ra ông đã bị lãng quên từ lâu. Hình ảnh ông đồ không chỉ là một con người, một nghề nghiệp, mà là biểu tượng của cả một thời đại, một phần ký ức trong tâm hồn chúng ta. Câu hỏi tu từ “Hồn ở đâu bây giờ?” không chỉ là lời day dứt, mà còn là tiếng nấc nghẹn của nhà thơ trước sự mai một của văn hóa dân tộc. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc. Câu thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi.
Phân tích bài thơ Ông đồ - Mẫu 7
Vũ Đình Liên đã sáng tác bài thơ Ông đồ, qua đó gửi gắm những tư tưởng và tình cảm sâu sắc của mình.
Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về, ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc, bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời kỳ đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm, ông đồ lại xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố, nơi nhộn nhịp bước chân người qua lại. Từ “mỗi”, “lại” thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy. Hoa đào và ông đồ song hành, tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của mực, màu đỏ của giấy tạo nên bức tranh sinh động.
Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”
Rất nhiều người thuê ông viết chữ, không chỉ vì quý trọng nét chữ mà còn vì lòng kính trọng dành cho ông. Ông phô diễn tài năng qua những câu đối đỏ, những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là người am hiểu Hán học, chữ Nho, ông mới có thể viết được những nét chữ tài hoa như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên và nhân dân dành cho ông đồ. Đây cũng là sự trân trọng giá trị văn hóa truyền thống. Chơi chữ là thú vui thể hiện cốt cách thanh cao, và người viết chữ được xem như nghệ sĩ tài ba. Nét chữ không chỉ đẹp mà còn nhanh, khiến ai cũng muốn thuê ông viết câu đối đỏ. Thời đắc ý, ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết và người chơi chữ đều đồng cảm, yêu và thưởng thức cái đẹp.
Nhưng khi thời thế thay đổi, ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Trước đây, người thuê ông viết chữ nhiều là thế, nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm giá trị truyền thống mai một. Tác giả miêu tả khung cảnh quạnh hiu, vắng vẻ đến thê lương. Thời gian cuốn trôi những gì tươi đẹp của quá khứ, khiến con người không khỏi xót xa, tiếc nuối. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” vang lên đầy đau đớn. Thú chơi chữ không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần. Nỗi buồn nhuốm sang cảnh vật, sang những gì vô tri. Giấy đỏ cũng buồn nên chẳng còn thắm, màu giấy phôi phai, mực đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và sự xót xa của nhà thơ.
Nền Hán học suy tàn, nhưng ông đồ vẫn kiên trì ngồi bên hè phố, mong lưu giữ giá trị văn hóa:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.”
Nhưng sự xuất hiện của ông không còn được chú ý. Bóng dáng ông lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không ai hay biết. Hình ảnh ông đồ rơi vào quên lãng, chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Sự tàn phai được thể hiện qua hình ảnh lá vàng rơi và làn mưa bụi lất phất, bao trùm lên khung cảnh, khiến cảnh vật nhuốm màu tâm trạng. Mọi người đã gạt ông ra khỏi trí nhớ, coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời.
Vũ Đình Liên bộc lộ nỗi xót xa, niềm hoài cổ qua khổ thơ cuối:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ông đồ đã thực sự vắng bóng. Hoa đào vẫn khoe sắc, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên, nhưng hình ảnh ông đồ không còn nữa. Sự vắng bóng của ông khiến ta không khỏi xót xa cho một giá trị tinh thần đã mai một. Những người từng thuê ông viết câu đối, từng tôn trọng ông, giờ đã thay đổi. Họ bận thích nghi với văn hóa phương Tây, tâm hồn họ không còn chỗ cho tinh túy truyền thống. Câu hỏi tu từ cuối bài vang lên, đọng lại nỗi cảm thương, hối tiếc cho những gì đã mất.
Bằng việc sử dụng hình ảnh hoa đào và ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công sự tương phản giữa thời kỳ vàng son và thời kỳ thất thế của ông đồ. Thể thơ năm chữ giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách tinh tế. “Ông đồ” là lời hoài niệm về những giá trị xưa cũ, đồng thời bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của Vũ Đình Liên.
.........Tham khảo chi tiết tại file tải dưới đây.........
- Soạn bài Xa ngắm thác núi Lư - Ngữ văn lớp 8 trang 45 sách Cánh diều tập 2: Hướng dẫn chi tiết và sâu sắc
- Văn mẫu lớp 7: Dàn ý sâu sắc giải thích câu tục ngữ Lá lành đùm lá rách (3 mẫu) - Bài văn mẫu đặc sắc
- Văn mẫu lớp 7: Dàn ý giải thích câu Học, học nữa, học mãi - Tổng hợp 3 bài văn mẫu đặc sắc dành cho học sinh
- Soạn bài Những điều bí ẩn trong tập tính di cư của các loài chim - Ngữ văn lớp 8 trang 43 sách Chân trời sáng tạo tập 1
- Hướng dẫn Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 65 - Ngữ văn lớp 11 tập 2 sách Chân trời sáng tạo