Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng qua lời kể sinh động của em (23 bài văn mẫu) - Văn lớp 6
EduTOPS mang đến Bài văn mẫu lớp 6: Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng qua lời kể của em.

Tài liệu bao gồm 2 dàn ý chi tiết và 23 bài văn mẫu lớp 6. Hãy cùng khám phá cách kể lại truyền thuyết Thánh Gióng một cách sinh động và hấp dẫn ngay sau đây.
Dàn ý kể lại truyền thuyết Thánh Gióng qua lời văn của em
I. Mở bài
Giới thiệu khái quát về truyền thuyết Thánh Gióng, một trong những huyền thoại dân gian nổi tiếng của Việt Nam.
II. Thân bài
1. Sự ra đời kỳ lạ của Thánh Gióng
- Vào thời Vua Hùng thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão nổi tiếng hiền lành, phúc hậu nhưng mãi chưa có con.
- Một ngày nọ, bà lão ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô.
- Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
=> Sự ra đời kỳ lạ của cậu bé không tuân theo quy luật tự nhiên, báo hiệu một cuộc đời phi thường và sứ mệnh lớn lao phía trước.
2. Sự trưởng thành thần kỳ của Gióng
- Khi giặc Ân xâm lược bờ cõi, nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài cứu nước.
- Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây cho con.”
- Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một bộ áo giáp sắt” để cậu có thể ra trận đánh giặc.
=> Câu nói đầu tiên của Gióng không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước mà còn khẳng định trách nhiệm của một đứa trẻ ba tuổi với vận mệnh dân tộc.
- Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi: “Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã chật.”
- Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con, làng xóm. Cả làng cùng chung tay góp gạo nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước.
=> Đây là minh chứng cho tinh thần yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân ta. Gióng lớn lên trong sự yêu thương và chăm sóc của cả cộng đồng.
3. Gióng đánh giặc và sự ra đi
a. Gióng đánh giặc:
- Khi giặc tiến sát bờ cõi, Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ, thân hình cao lớn hơn trượng, oai phong lẫm liệt.
- Gióng chuẩn bị ra trận:
- Khoác áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên lưng ngựa.
- Thúc ngựa phi thẳng đến trận địa, đánh giặc không ngừng nghỉ, giặc chết hàng loạt.
- Khi roi sắt gãy, Gióng nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, bỏ chạy tán loạn.
=> Hình ảnh Gióng hiện lên oai phong, dũng mãnh, tràn đầy sức mạnh phi thường.
=> Sự ra đời kỳ lạ của Gióng đã báo trước một cuộc đời phi thường. Chàng chính là biểu tượng cho sức mạnh và ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.
b. Sự ra đi của Gióng:
- Thánh Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
=> Con người phi thường nên sự ra đi cũng kỳ vĩ. Thánh Gióng trở về cõi bất tử, để lại niềm kính ngưỡng trong lòng nhân dân về một vị anh hùng có công với đất nước.
4. Sự tưởng nhớ công ơn Thánh Gióng và truyền thuyết về làng Gióng
- Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà, nay là làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng.
- Những dấu tích còn lại đến ngày nay: những bụi tre ngà ở huyện Gia Bình, những ao hồ hình vết chân ngựa, và làng Cháy - nơi ngựa Gióng thét ra lửa thiêu rụi cả một vùng.
=> Niềm tin vĩnh cửu của nhân dân vào sức mạnh thần kỳ và ý chí bất khuất của dân tộc.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị sâu sắc và ý nghĩa trường tồn của truyền thuyết Thánh Gióng trong lịch sử và văn hóa dân tộc.
Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng qua lời văn ngắn gọn và súc tích của em
Mẫu số 1
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có một cặp vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nổi tiếng hiền lành và tốt bụng.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến vua Hùng vô cùng lo lắng. Nhà vua liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo lời con. Khi sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói:
- Ông về tâu với nhà vua chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả vội vàng trở về tâu với vua. Từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, phải nhờ đến sự giúp đỡ của dân làng. Bà con trong làng vui lòng góp gạo thóc nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Ngựa hí vang trời, tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ phi thẳng đến trận địa, đánh giặc không ngừng nghỉ. Giặc chết hàng loạt. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, bỏ chạy tán loạn.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những dấu tích về tráng sĩ vẫn còn lưu lại đến ngày nay.
Mẫu số 2
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nổi tiếng hiền lành và tốt bụng. Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Nhà vua liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây, con có chuyện cần thưa”. Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói: “Ông hãy về tâu với nhà vua chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lập tức trở về tâu với vua. Từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của dân làng. Bà con trong làng vui lòng góp gạo thóc nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước. Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé bỗng chốc vươn vai hóa thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông thẳng vào trận địa. Giặc chết như ngả rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, bỏ chạy tán loạn. Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Đến nay, đền thờ vẫn còn tại làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa mà cháy vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Mẫu số 3
Thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nổi tiếng hiền lành và tốt bụng. Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ, lớn hơn bình thường. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Nhà vua liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây, con có chuyện cần thưa”. Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói: “Ông hãy về tâu với nhà vua chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lập tức trở về tâu với vua. Từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của dân làng. Bà con trong làng vui lòng góp gạo thóc nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước. Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé bỗng chốc vươn vai hóa thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông thẳng vào trận địa. Giặc chết như ngả rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, bỏ chạy tán loạn. Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Đến nay, đền thờ vẫn còn tại làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa mà cháy vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Mẫu số 4
Vào thời Hùng Vương, có một đôi vợ chồng tuy đã lớn tuổi nhưng mãi chưa có con. Một buổi sáng, khi lên nương làm rẫy, bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân khổng lồ in trên mặt đất. Kinh ngạc, bà thốt lên:
- Ôi! Dấu chân của ai mà to đến thế này!
Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ là Gióng lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười.
Năm ấy, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Quân giặc đông đúc và hung hãn, đi đến đâu cũng cướp bóc, tàn phá. Quân của vua Hùng nhiều lần xuất trận nhưng không thể đánh bại được số lượng áp đảo của quân địch. Trước tình thế nguy cấp, vua Hùng lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!”.
Gióng nói với sứ giả bằng giọng rõ ràng, dứt khoát: “Xin hãy tâu với nhà vua làm cho tôi một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một bộ áo giáp sắt”. Ban đầu, sứ giả còn hoài nghi vì Gióng chỉ là một đứa trẻ. Nhưng ngay lúc đó, một con rồng từ đâu bay đến rồi vút lên trời cao, như một điềm báo từ trời. Sứ giả vội vàng trở về tâu với vua. Từ hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, vươn vai trở thành một chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô. Khi những vật dụng cần thiết được mang đến, Gióng cùng trai tráng làng Phù Đổng ra trận đánh giặc. Quân giặc khiếp sợ, bỏ chạy tán loạn. Đang lúc khí thế hừng hực, kiếm của Gióng bỗng gãy. Nhanh trí, Gióng nhổ một bụi tre bên đường, quật vào quân giặc không ngừng. Tướng giặc cùng đường, đành giơ tay đầu hàng. Chiến thắng thuộc về nhân dân nước Văn Lang. Lúc này, ngựa của Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Gióng cởi bỏ áo giáp, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn của Gióng, vua Hùng cho lập đền thờ tại quê nhà và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, nhân dân tổ chức lễ hội để du khách thập phương về bái lễ, tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc.
Mẫu số 5
Tương truyền rằng: Vào đời Hùng Vương thứ 6, tại một ngôi làng nghèo, có một cặp vợ chồng tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có được một mụn con.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà ướm thử chân mình vào dấu chân ấy. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Chưa kịp vui mừng thì tai họa ập đến: người chồng qua đời trước khi đứa con chào đời. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết đi, không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ. Người mẹ buồn bã khôn nguôi nhưng không biết phải làm sao.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược bờ cõi nước ta. Nhà vua lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng của Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói với mẹ:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Nghe tiếng con, người mẹ vừa mừng vừa lo. Khi sứ giả vào nhà, họ chỉ thấy một đứa bé ba tuổi nằm trên giường, không khỏi ngạc nhiên và thất vọng. Nhưng Gióng dõng dạc nói:
- Sứ giả hãy về tâu với nhà vua, đúc cho tôi một con ngựa sắt, một bộ áo giáp sắt và một cây roi sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này.
Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no. Dân làng cùng nhau góp gạo nuôi Gióng, chỉ mong cậu sớm lên đường cứu nước. Khi giặc tiến sát bờ cõi, Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ, nhảy lên ngựa sắt, nhổ bụi tre làng làm vũ khí, đánh cho giặc tan tác. Sau khi diệt sạch giặc, Gióng cưỡi ngựa bay thẳng về trời. Để ghi nhớ công ơn to lớn của Gióng, nhân dân lập đền thờ và phong cậu là Phù Đổng Thiên Vương.
Mẫu số 6
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo khó nhưng hiền lành, phúc hậu. Dù đã lớn tuổi, họ vẫn chưa có được một mụn con.
Một hôm, bà vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai và sinh ra một cậu bé, đặt tên là Gióng. Cậu bé lên ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, nhưng đến ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Vua Hùng lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi nghe tiếng sứ giả, Gióng bỗng cất tiếng nói với mẹ:
- Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.
Người mẹ vô cùng ngạc nhiên nhưng vui mừng khôn xiết, vội chạy ra mời sứ giả vào. Khi gặp sứ giả, Gióng ngồi dậy và nói:
- Ngươi hãy về tâu với đức vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt. Ta sẽ đi dẹp giặc.
Sứ giả vội vàng trở về tâu với vua. Nhà vua lập tức truyền lệnh đúc những vật dụng mà Gióng yêu cầu. Sau đó, sứ giả mang chúng đến cho Gióng.
Từ ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng chuẩn bị cơm cà để cậu ăn no, lớn nhanh và đánh giặc. Bà mẹ cùng dân làng tất bật lo cơm cà phục vụ Gióng. Khi ăn hết mười nong cơm và ba nong cà, mỗi lần ăn xong, Gióng lại vươn vai và lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến may quần áo vẫn không đủ. Khi giặc tiến sát bờ cõi, Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ, xông ra đánh giặc. Giặc tan, Gióng cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay thẳng lên trời.
Đền thờ Gióng vẫn còn tại làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Hàng năm, vào tháng tư, làng mở hội lớn để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa mà cháy vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng, khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Mẫu số 7
Trong chương trình Văn học lớp 6, em đã được học nhiều truyện cổ tích và truyền thuyết hấp dẫn. Trong đó, em ấn tượng nhất là truyền thuyết Thánh Gióng, kể về một người anh hùng dân tộc đánh giặc cứu nước.
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão nghèo khó. Họ chăm chỉ làm ăn nhưng hiếm muộn, tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Một hôm, bà vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến tháng thứ mười hai, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng, đặt tên con là Gióng. Nhưng niềm vui sớm trở thành nỗi lo khi Gióng lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược bờ cõi nước ta. Vua Hùng lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi nghe tiếng sứ giả, Gióng bỗng cất tiếng nói, yêu cầu mẹ mời sứ giả vào. Người mẹ vừa mừng vừa ngạc nhiên, vội chạy đi mời sứ giả. Khi gặp sứ giả, Gióng dõng dạc nói: “Hãy về tâu với nhà vua, làm cho ta một bộ áo giáp sắt, một con ngựa sắt và một cây roi sắt”. Nhà vua mừng rỡ, lập tức truyền lệnh cho thợ rèn làm gấp những thứ Gióng yêu cầu.
Kỳ lạ thay, từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không no, dân làng cùng nhau góp gạo nuôi Gióng. Ai nấy đều mong cậu sớm lớn khôn, khỏe mạnh để ra trận đánh giặc. Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa hí vang trời, phun lửa, lao thẳng vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ, tan tác. Khi roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Sóc, rồi một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, bay thẳng lên trời.
Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Mẫu số 8
Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng già sống tại làng Gióng. Hai ông bà nổi tiếng hiền lành, phúc hậu nhưng mãi chưa có được một mụn con.
Một ngày nọ, bà lão ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Thời gian trôi qua, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé từ khi sinh ra không biết nói, không biết cười, không biết đi, chỉ nằm yên một chỗ. Hai ông bà từ mừng rỡ chuyển sang lo lắng, không hiểu vì sao con mình lại như vậy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Chúng gây ra bao cảnh tang thương, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Nhà vua lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con”. Nghe tiếng con, hai ông bà vô cùng mừng rỡ, vội mời sứ giả vào nhà.
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé liền yêu cầu: “Hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một bộ áo giáp sắt và một cây roi sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vội vàng trở về tâu với vua. Nhà vua đồng ý ngay lập tức. Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo may bao nhiêu cũng không vừa. Chẳng mấy chốc, cậu bé trở thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.
Chẳng bao lâu, nhà vua sai người mang đến đủ những thứ Gióng yêu cầu. Gióng lập tức lên đường đánh giặc. Cậu đi đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi kiếm gãy, Gióng nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Khi ngựa của Gióng tiến đến chân núi Sóc Sơn, cậu cởi bỏ áo giáp, bay thẳng lên trời.
Để ghi nhớ công ơn của Gióng, nhà vua cho lập đền thờ tại quê nhà của ông, làng Gióng. Đến nay, nhiều dấu tích vẫn còn lưu lại. Hàng năm, vào tháng tư, người dân tổ chức lễ hội tại đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc.
Mẫu số 9
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng nghèo khó. Họ chăm chỉ làm lụng quanh năm nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà lão ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói:
- Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói: “Hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này”. Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của dân làng. Bà con trong làng vui lòng góp gạo thóc nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước.
Khi giặc tiến sát bờ cõi, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ. Ngựa hí vang trời, phun lửa vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc chết như ngả rạ.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Mẫu số 10
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng nghèo khó. Họ chăm chỉ làm ăn, hiền lành nhưng mãi chưa có được một mụn con.
Một hôm, bà lão ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói với mẹ:
- Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Cậu bé liền nói với sứ giả: “Hãy về tâu với nhà vua, rèn cho tôi một con ngựa sắt, một bộ áo giáp sắt và một thanh gươm sắt”. Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của dân làng. Bà con trong làng vui lòng góp gạo thóc nuôi cậu bé, ai nấy đều mong cậu sẽ trở thành người hùng cứu nước.
Khi giặc tiến sát bờ cõi, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai hóa thành tráng sĩ. Ngựa hí vang trời, phun lửa vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi gươm gãy, Gióng nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc chết như ngả rạ.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn, rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn của Gióng. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Mẫu số 11
Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng nổi tiếng chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong ước có một đứa con. Một hôm, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này.
Kỳ lạ thay, từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của bà con hàng xóm. Ai nấy đều vui lòng giúp đỡ, mong cậu bé sớm lớn khôn, đánh giặc cứu nước.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vươn vai hóa thành tráng sĩ. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí vang trời, phun lửa vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Sóc.
Đến đây, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Đến nay, đền thờ vẫn còn tại làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng qua lời văn sinh động của em
Bài văn mẫu số 1
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng sống hiền lành, phúc đức. Dù tuổi đã cao, họ vẫn chưa có được một mụn con.
Một lần, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói với mẹ:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vàng trở về tâu với vua. Nhà vua lập tức truyền lệnh cho thợ rèn làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi cậu, đành nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm. Ai nấy đều vui lòng giúp đỡ, mong cậu sớm lớn khôn, đánh giặc cứu nước.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vươn vai hóa thành tráng sĩ, thân hình cao lớn, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí vang trời, phun lửa vào đám giặc. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên lưng ngựa, phi thẳng đến trận địa. Quân giặc chết như ngả rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Trâu, rồi một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, bay thẳng lên trời.
Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 2
Tương truyền vào đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng nổi tiếng chăm chỉ, hiền lành và phúc đức. Hai ông bà đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có con. Một lần, bà ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết. Nhưng điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua lo lắng. Vua liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói: “Ông hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vội vàng trở về tâu với vua.
Từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không no. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi con, đành nhờ đến sự giúp đỡ của bà con hàng xóm. Ai nấy đều vui lòng giúp đỡ, mong cậu bé sớm lớn khôn, đánh giặc cứu nước.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vươn vai hóa thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến trận địa. Quân giặc bị tiêu diệt hết lớp này đến lớp khác. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà.
Đến nay, đền thờ vẫn còn tại làng Phù Đổng, còn gọi là làng Gióng. Người ta kể rằng những bụi tre ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa mà cháy vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng, khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 3
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng hiền lành, nổi tiếng phúc đức. Họ luôn mong ước có được một đứa con.
Một lần nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé. Điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua, chuẩn bị cho tôi một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong vô cùng kinh ngạc, vội vàng trở về tâu với vua. Nhà vua lập tức truyền lệnh cho thợ rèn làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc bao nhiêu áo cũng không vừa. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi con, đành nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vươn vai hóa thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên lưng ngựa.
Ngựa hí vang trời, phun lửa vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc tan tác đến đó. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Giặc thua trận, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi giặc đến chân núi Sóc.
Tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, bay thẳng lên trời. Để tưởng nhớ công ơn, vua Hùng phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa Gióng đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy vàng óng, còn một làng bị cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe những câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng và những truyền thuyết ly kỳ của dân tộc. Trong đó, Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người.
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng nông dân chăm chỉ, phúc đức nhưng mãi chưa có con. Một ngày nọ, bà vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà đưa chân mình vào ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai. Đến mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ là cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ nằm yên một chỗ. Hai vợ chồng vừa mừng vừa lo lắng.
Lúc bấy giờ, giặc Ân kéo sang xâm lược nước ta, gây ra bao cảnh tang thương. Nhà vua lo lắng, liền cử sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, Gióng bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Người mẹ vô cùng ngạc nhiên và vui mừng, vội mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ thay, từ ngày gặp sứ giả, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã chật. Người mẹ nuôi không đủ, đành nhờ đến sự giúp đỡ của hàng xóm. Bà con trong làng ai nấy đều phấn khởi, ngày đêm nấu cơm, may áo cho cậu. Ai cũng mong Gióng sớm lớn khôn, đánh giặc cứu nước.
Khi giặc tiến sát chân núi Trâu, sứ giả kịp mang vũ khí đến. Gióng vươn vai đứng dậy, hóa thành tráng sĩ. Cậu mặc áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên lưng ngựa. Cả người lẫn ngựa lao vun vút ra trận.
Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, đánh giặc không ngừng nghỉ. Khi roi sắt gãy, cậu nhổ tre bên đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Quân giặc hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Sau khi đánh tan giặc, Gióng cưỡi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp, vái tạ mẹ rồi bay thẳng lên trời.
Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong Gióng là Thánh Gióng và cho lập đền thờ tại quê nhà. Người ta kể rằng, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng, về sau gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống đất nay thành ao hồ, là minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Bài văn mẫu số 5
Dưới triều đại Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng già sống hiền lành nhưng chưa có con. Một ngày nọ, bà lão ra đồng và ướm thử bàn chân mình lên những dấu chân kỳ lạ. Sau đó, bà mang thai và mười hai tháng sau, hạ sinh một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Tuy nhiên, đến ba tuổi, cậu bé vẫn không biết đi đứng hay nói cười, chỉ nằm một chỗ.
Khi giặc Ân xâm lược, vua Hùng ra lệnh cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi để đánh giặc cứu nước. Nghe tin này, cậu bé làng Gióng bỗng cất tiếng nói, nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho mình ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt để dẹp tan quân thù. Từ đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn khỏe đến mức dân làng phải chung tay góp gạo nuôi cậu.
Khi nhận đủ vũ khí từ nhà vua, cậu bé vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Sau khi chuẩn bị xong, chàng lên ngựa, vung roi sắt xông thẳng vào trận địa. Ngựa sắt phun lửa, khiến quân giặc khiếp sợ, ngã chết la liệt.
Khi roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí. Quân giặc đại bại, tan tác bỏ chạy. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi bỏ áo giáp, rồi cùng ngựa bay thẳng lên trời.
Vua Hùng ghi nhớ công ơn, phong cậu làm Phù Đổng Thiên Vương và cho xây đền thờ tại quê nhà. Hàng năm, vào tháng tư, lễ hội Gióng được tổ chức long trọng, thu hút người dân từ khắp nơi về tham dự.
Bài văn mẫu số 6
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nổi tiếng phúc đức nhưng lại không có con. Một ngày nọ, bà lão ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ khác thường. Tò mò, bà đặt bàn chân mình lên để so sánh. Không lâu sau, bà mang thai và mười hai tháng sau, hạ sinh một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết. Thế nhưng, điều kỳ lạ là cậu bé đã ba tuổi mà vẫn không biết nói, không biết cười, cũng chẳng biết đi, chỉ ngồi yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân hung hãn tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua lo lắng, liền sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi nghe tiếng loa của sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào nhà, cậu bé liền yêu cầu: “Xin ông về tâu với vua, hãy chuẩn bị cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa kinh ngạc vừa vui mừng, lập tức trở về tâu lại với vua. Nhà vua đồng ý và ra lệnh cho thợ rèn ngày đêm làm đủ những thứ cậu bé yêu cầu.
Kể từ ngày gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cậu ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng không đủ nuôi con. Thấy vậy, bà con trong làng liền cùng nhau góp gạo, góp sức nuôi cậu bé.
Giặc Ân đã tiến đến chân núi Trâu, tình thế đất nước vô cùng nguy cấp. Ai nấy đều lo lắng, hoảng sợ. Đúng lúc đó, sứ giả mang đến đầy đủ những thứ cậu bé đã yêu cầu. Cậu bé vươn vai, trong chớp mắt biến thành một tráng sĩ oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Sau khi mặc áo giáp và cầm roi sắt, tráng sĩ nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc, đánh tan từng lớp quân thù. Đột nhiên, roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu.
Quân giặc hoảng loạn, tan tác bỏ chạy. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại. Tại đây, chàng cởi bỏ áo giáp sắt, để lại ngựa sắt, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Để tưởng nhớ công ơn của vị tướng tài ba đánh tan giặc Ân, vua Hùng phong cậu làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ ngay tại quê nhà.
Bài văn mẫu số 7
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng hiền lành, nổi tiếng phúc đức. Dù tuổi đã cao, họ vẫn chưa có được mụn con nào.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà liền đặt chân mình lên để ướm thử. Không lâu sau, bà mang thai và mười hai tháng sau, sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Tuy nhiên, đến ba tuổi, cậu bé vẫn không biết nói, không biết cười, chỉ ngồi yên một chỗ.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, thế giặc mạnh như vũ bão khiến nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi để cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào nhà, cậu bé liền nói:
- Xin ông về tâu với nhà vua, hãy đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong, vui mừng khôn xiết, lập tức trở về tâu lại với nhà vua. Vua liền ra lệnh cho thợ rèn ngày đêm làm những thứ cậu bé yêu cầu. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng không đủ nuôi con, đành nhờ cậy bà con trong làng giúp đỡ.
Chẳng bao lâu, giặc Ân đã tiến đến chân núi Trâu. Tình thế đất nước vô cùng nguy cấp. Đúng lúc đó, sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Cậu bé vươn vai, trong chớp mắt biến thành một tráng sĩ oai phong. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa hí vang dội, phun lửa xông thẳng vào quân giặc. Chúng hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc đại bại đến đó. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu.
Sau khi đánh tan quân giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tại đây, chàng cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng, vua Hùng phong cậu làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Mẫu số 8
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng hiền lành, phúc đức. Họ sống một cuộc đời bình dị nhưng luôn được mọi người kính trọng.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Tò mò, bà liền đặt chân mình lên để ướm thử. Không ngờ, sau đó bà mang thai và mười hai tháng sau, sinh ra một cậu bé khôi ngô. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhưng điều kỳ lạ là cậu bé đã ba tuổi mà vẫn không biết nói, không biết cười.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, thế giặc mạnh khiến nhà vua vô cùng lo lắng. Vua Hùng liền sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ hãy mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào nhà, cậu liền yêu cầu: “Xin ông về tâu với vua, hãy chuẩn bị cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.”
Từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cậu ăn bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng vất vả nhưng không đủ nuôi con, đành nhờ cậy bà con trong làng giúp đỡ. Dân làng vui lòng góp gạo thóc, ai cũng mong cậu bé lớn nhanh để giết giặc cứu nước.
Khi giặc Ân tiến đến chân núi Trâu, sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Cậu bé vươn vai, biến thành một tráng sĩ oai phong. Tráng sĩ cưỡi ngựa, cầm roi sắt xông thẳng vào trận địa. Giặc chết như ngả rạ. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí tiếp tục chiến đấu. Quân giặc hoảng loạn, tan tác bỏ chạy.
Sau khi đánh tan giặc, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tại đây, chàng cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Để tưởng nhớ công ơn của người anh hùng, vua Hùng phong cậu làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những dấu tích của trận chiến vẫn còn lưu lại đến ngày nay.
........ Mời tham khảo thêm tại file tải bên dưới........
- Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn cá nhân: 2 Dàn ý chi tiết & 19 bài văn mẫu lớp 6 đặc sắc
- Kể lại truyện Sọ Dừa bằng lời văn sáng tạo của em - 2 dàn ý chi tiết và 18 bài văn mẫu lớp 6 hay nhất
- Tổng hợp 23 bài tóm tắt truyện Bánh chưng, bánh giầy - Văn mẫu lớp 6 đặc sắc và ý nghĩa
- Đoạn văn lớp 6: Khám phá lợi ích khi nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau (10 ví dụ mẫu)
- Văn mẫu lớp 6: Hành trình cánh buồm trắng đến những bến bờ mơ ước - Tuyển tập 10 đoạn văn mẫu đặc sắc