Cảm nhận sâu sắc đoạn 1 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo: Phân tích chi tiết với 2 dàn ý và 8 bài mẫu kèm sơ đồ tư duy
Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo bao gồm 8 bài mẫu xuất sắc cùng 2 hướng dẫn chi tiết giúp bạn tự học, mở rộng kiến thức và trau dồi kỹ năng viết văn cảm nhận tác phẩm thơ một cách hiệu quả.

Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, giúp bạn nhanh chóng nắm bắt kiến thức và tiết kiệm thời gian nghiên cứu. Qua đó, bạn sẽ hiểu sâu sắc nội dung đoạn 1 của tác phẩm. Tham khảo thêm: phân tích Bình Ngô Đại Cáo.
Dàn ý chi tiết cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo - Hướng dẫn phân tích sâu sắc và sáng tạo
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (tiểu sử, phong cách sáng tác, các tác phẩm tiêu biểu,...)
- Khái quát về tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" (thể loại, bối cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật,...)
- Giới thiệu tổng quan về đoạn 1 của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo"
2. Thân bài
- Khắc họa tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc và độc đáo
- "Nhân nghĩa" là tư tưởng trọng tâm trong triết lý Nho giáo, thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý.
- Với Nguyễn Trãi, cốt lõi của "nhân nghĩa" là yên dân, mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân.
- Để đạt được điều đó, cần "trừ bạo", đánh đuổi quân xâm lược và những kẻ tham tàn trong nước, giải phóng dân chúng khỏi cảnh lầm than.
- Khẳng định chân lý độc lập bất diệt của dân tộc Đại Việt:
- Nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng biệt được xác định rõ ràng, cùng những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc.
- Đặt các triều đại Đại Việt ngang hàng với các triều đại phương Bắc, khẳng định nền độc lập và niềm tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng.
- Nhắc lại những chiến công lẫy lừng của quân dân ta trong lịch sử chống ngoại xâm.
3. Kết bài
Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của đoạn 1 trong "Bình Ngô đại cáo" và chia sẻ cảm nhận cá nhân.
Dàn ý số 2
a) Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất, nhà văn, nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
- Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn đanh thép của dân tộc.
- Dẫn dắt và nêu vấn đề: nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
b) Thân bài: Phân tích nội dung đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
* Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa.
- “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa người với người dựa trên tình thương và đạo lý.
- Nhân: con người, tình người (theo Khổng Tử)
- Nghĩa: hành động chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
- “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
- Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” - mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân.
- Cụ thể hóa với nội dung mới: "trừ bạo" - tiêu diệt kẻ tàn bạo, giặc xâm lược vì nhân dân.
-> Tác giả vạch trần luận điệu gian trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
=> Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tinh túy giữa nhân nghĩa và thực tiễn dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - cuộc khởi nghĩa vì nhân dân, diệt trừ bạo tàn.
* Luận điểm 2: Lời tuyên ngôn độc lập.
- Nguyễn Trãi khẳng định tư cách độc lập của nước Đại Việt qua những dẫn chứng thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Cương vực lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
- Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
-> Bằng cách liệt kê, tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục, khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, một chân lý không thể chối cãi.
=> Ở đây, Nguyễn Trãi đã bổ sung ba luận điểm mới: văn hiến, phong tục, lịch sử để chứng minh quyền độc lập, tự do của đất nước, so với bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
* Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.”
- Nguyễn Trãi sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục bi thảm của kẻ chống lại chân lý.
- Lưu Cung - vua Nam Hán thất bại trong âm mưu thu phục Đại Việt.
- Triệu Tiết - tướng nhà Tống thảm bại khi cầm quân đô hộ nước ta.
- Toa Đô, Ô Mã,... là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi xâm lược.
=> Lời cảnh cáo, răn đe đanh thép dành cho những kẻ bất nhân bất nghĩa dám xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền dân tộc ta, đồng thời thể hiện niềm tự hào về những chiến công oanh liệt của nhân dân Đại Việt.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Ngôn ngữ đanh thép, sắc bén
- Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
- Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,...
- Sử dụng những câu văn song hành,…
c) Kết bài
- Tóm tắt nội dung chính của đoạn 1 trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
- Chia sẻ cảm nhận cá nhân về đoạn thơ.
Cảm nhận Bình Ngô Đại cáo đoạn 1 - Mẫu 1
Nếu như ở thế kỷ XI, giặc Tống hoảng sợ khi nghe bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt, đến năm 1945, thực dân Pháp cũng không còn lý do để tiếp tục “khai hóa” An Nam sau khi nghe lời tuyên bố đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, thì ở thế kỷ XV, áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã khắc sâu vào lịch sử dân tộc Việt. Ra đời sau chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn trước giặc Minh, bài cáo là sự kết tinh của lòng yêu nước và ý chí quật cường của một dân tộc đã trải qua những ngày tháng đau thương nhưng đầy vinh quang. Đến nay, “Bình Ngô đại cáo” được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Nhắc đến “Bình Ngô đại cáo”, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc ca khải hoàn của đất nước sau hai mươi năm đằng đẵng chịu ách đô hộ của giặc Minh. Áng “thiên cổ hùng văn” này là tác phẩm văn chương hùng tráng được lưu truyền qua hàng nghìn năm. Để đạt được danh tiếng ấy, tác phẩm phải xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, mang giá trị lịch sử và tư tưởng vĩ đại. Trước Nguyễn Trãi, thời Lý và Trần đã có những áng văn chính luận nổi tiếng như “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn hay “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, nhưng chỉ đến Bình Ngô đại cáo, tính chất hùng ca mới được thể hiện toàn diện từ nội dung đến hình thức. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử khô khan thành một áng văn say đắm lòng người, có giá trị trường tồn.
Dù đã sáu thế kỷ trôi qua, dân tộc ta vẫn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình và ý chí bất khuất trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Trong từng câu chữ của Nguyễn Trãi, ta cảm nhận được nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Sự kiên quyết, vững chãi được thể hiện ngay từ lời mở đầu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa vốn là tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người dựa trên tình thương và đạo lý. Từ tư tưởng ấy, Nguyễn Trãi đã chắt lọc hạt nhân cơ bản: nhân nghĩa là để yên dân, và muốn yên dân thì phải tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng này trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Đó là cơ sở để tác giả vạch trần luận điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn và tính phi nghĩa của kẻ thù xâm lược.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn tự tin khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, không chỉ trên phương diện lãnh thổ mà còn ở chiều sâu văn hóa và truyền thống:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Tác giả liệt kê hàng loạt yếu tố như nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt, xác lập một cách trọn vẹn nền độc lập của nước nhà. Điều này cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. Với giọng điệu đanh thép, dứt khoát, Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, một bước tiến lớn so với “Nam quốc sơn hà”. So với “Sông núi nước Nam”, “Đại cáo bình Ngô” đã nâng tầm chân lý độc lập một cách toàn diện, cụ thể hơn. Cái toàn diện ấy thể hiện qua việc Lý Thường Kiệt chỉ xác định sự sống còn của dân tộc ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền. Trong khi đó, Nguyễn Trãi đã xác định “dân tộc” trên nhiều phương diện: lãnh thổ, văn hiến, phong tục, lịch sử, chế độ và con người. Trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ căn cứ vào “thiên thư” – yếu tố tâm linh, còn Nguyễn Trãi ý thức rõ về văn hiến, truyền thống lịch sử và con người – những yếu tố thực tiễn cơ bản nhất. Sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lập chủ quyền của Nguyễn Trãi nằm ở việc so sánh giữa Đại Việt và Đại Hán. Không xét đến yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu, mà xét theo sự tồn tại, cả năm yếu tố mà Nguyễn Trãi chỉ ra đều tương xứng giữa hai quốc gia. Cách khẳng định này vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với Đại Hán. Các từ ngữ như “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”, “bao đời”… liên tiếp nhau cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, lâu đời của nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. Cách khẳng định này là đòn giáng mạnh vào những kẻ đang “thừa cơ gây họa” đối với dân tộc ta.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt của các anh hùng hào kiệt nước Đại Việt. Ông như muốn cười vào mặt bọn phương Bắc – những kẻ xem nước ta như một quận huyện nhỏ, những kẻ tham công, thích lớn, thậm chí muốn làm cỏ nước Nam – nhưng lại thua te tua và thảm hại mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”.
Phần đầu bài cáo là lời khẳng định đầy tự hào về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có nền văn hiến lâu đời, và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lý sống nên mới có được nền văn hiến ấy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa”. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập. Cách liệt kê, lồng ghép dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, cùng lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới tầm cao mới khi nêu cụ thể từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta ở “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”… cùng sự xem thường, căm ghét đối với thất bại của kẻ xâm lược: “Lưu Cung tham công”, “Triệu Tiết thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả đều phải chết thảm. Đoạn thơ một lần nữa khẳng định: Đại Việt là quốc gia độc lập, tự chủ, có nhân tài, tướng giỏi, không thua kém bất kỳ quốc gia nào. Bất kỳ kẻ nào muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác. Dù thế nào, đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo.
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”. Sau Bình Ngô đại cáo, văn học trung đại còn xuất hiện nhiều áng văn nghị luận khác, nhưng không tác phẩm nào vượt lên được tính chất hùng tráng mà bản đại cáo này mang lại. Đọc áng “thiên cổ hùng văn” này, ta cảm nhận được sức mạnh hơn mười vạn quân từ mỗi trang nghị luận của Nguyễn Trãi. “Bình Ngô Đại cáo” đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỷ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi. Áng “thiên cổ hùng văn” ấy được cả quốc gia, dân tộc ghi nhận, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kỳ Trung Đại.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại cáo ngắn gọn - Mẫu 2
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu Ức Trai, là nhà chính trị, quân sự tài ba, đóng góp lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Minh dưới trướng Lê Lợi với vai trò quân sư. Với công trạng vĩ đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ông trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu nhà Hậu Lê.
Tư tưởng Nguyễn Trãi gồm ba điểm chính: nhân nghĩa, phụng mệnh trời và tư tưởng nhân dân, tiến bộ vượt trội so với các danh nhân cùng thời. Hệ thống tư tưởng này thể hiện rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Bình ngô đại cáo, được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.
Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi nêu ra luận đề chính nghĩa, làm cơ sở vững chắc để triển khai toàn bộ nội dung.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
…..
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
…..
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Nguyễn Trãi mở đầu bằng tư tưởng nhân nghĩa, thể hiện qua việc yêu thương con người và hành động cụ thể: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nghĩa là người lãnh đạo phải bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Để đạt được điều đó, “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, một tích từ Kinh thư, ngụ ý rằng muốn yên dân thì phải tiêu diệt tham tàn, bạo ngược.
Qua đó, ta thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Trãi: Nhân nghĩa gắn liền với yêu dân, chuộng hòa bình và lòng yêu nước sâu sắc.
Luận đề thứ hai Nguyễn Trãi đề cập là sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt, được khẳng định như một chân lý khách quan qua năm yếu tố: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng, phong tục tập quán khác biệt, lịch sử hào hùng và hào kiệt mọi thời đại.
Về lịch sử, nếu phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên, thì Đại Việt cũng có Triệu, Đinh, Lý, Trần, những triều đại gây dựng nền độc lập. Truyền thống này được cụ thể hóa qua câu thơ: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định rằng mọi thời đại đều có anh hùng lập nên chiến công vĩ đại, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Những chiến công như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã” là minh chứng không thể chối cãi, in đậm trong trang sử nước Đại Việt.
Kết lại, Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền độc lập qua câu “mỗi bên xưng đế một phương”, thể hiện phong thái tự tin, ý thức tự cường dân tộc. Vua nước Nam chỉ xưng “đế”, không xưng “vương” theo cách khinh thường của phương Bắc, xem ta là chư hầu.
Nguyễn Trãi phủ nhận quan điểm ngạo mạn đó, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia trên mọi phương diện: địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục và chủ quyền. Điều này tạo nên hệ thống lý luận vững chắc để triển khai các luận đề tiếp theo.
Nguyễn Trãi đã xây dựng khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên năm yếu tố, một bước tiến lớn so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao gồm lãnh thổ và chủ quyền. Điều này thể hiện tài năng lý luận và tầm tư duy vượt thời đại của ông.
Sức thuyết phục của luận đề còn nằm ở cách Nguyễn Trãi sử dụng từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Những từ này thuộc cùng trường khẳng định sự hiển nhiên, lâu đời của chân lý mà ông nêu ra.
Bình Ngô đại cáo tố cáo tội ác kẻ thù, ca ngợi khởi nghĩa Lam Sơn, được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nền độc lập dân tộc. Về nghệ thuật, tác phẩm kết hợp hài hòa yếu tố chính luận với văn chương, tạo nên áng thiên cổ hùng văn có giá trị trường tồn.
Cảm nhận Đại cáo Bình ngô đoạn 1 - Mẫu 3
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà nho yêu nước nhiệt thành mà còn là người biết cách truyền tải tình yêu ấy qua ngòi bút tài hoa. Ông am hiểu sâu rộng nhiều lĩnh vực, đặc biệt là chính trị và văn chương. Sự nghiệp văn học của ông tỏa sáng với các tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập,... Trong đó, Bình Ngô đại cáo là tác phẩm tiêu biểu, đưa tên tuổi Nguyễn Trãi lên đỉnh cao văn đàn. Đoạn đầu của tác phẩm mang đến những cảm nhận sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa – yên dân của một nhà nho kiệt xuất.
Ngay từ câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng cá nhân, đồng thời phản ánh quan niệm Nho giáo của thời đại:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu thơ chứa đựng tư tưởng sâu sắc của Nho giáo, nhấn mạnh rằng nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người. Tư tưởng này được Nguyễn Trãi áp dụng vào chính trị, đưa ra bài học cho hậu thế: nhân nghĩa phải lấy dân làm gốc, gắn liền với “yên dân” và “trừ bạo”. Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm.
Ở những câu tiếp theo, tác giả tự hào liệt kê những dẫn chứng từ lịch sử nghìn năm văn hiến với giọng điệu đanh thép:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Đọc từng câu, ta cảm nhận được sự kính phục trước một tượng đài văn chương bất tử. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, tác giả đã khái quát hàng loạt triều đại và truyền thống lâu đời của dân tộc với giọng điệu tự hào. Tuy nhiên, câu thơ không mang tính chủ quan, bởi Nguyễn Trãi đã so sánh Đại Việt với các triều đại phương Bắc, đặt nước ta trong cái nhìn khách quan về lịch sử. Cách làm này khiến người đọc không thể phủ nhận sự đúng đắn trong luận điểm của tác giả. Ông chọn lọc dẫn chứng thuyết phục, khẳng định Đại Việt là quốc gia độc lập, có nền văn hiến lâu đời, truyền thống tốt đẹp và văn hóa riêng biệt.
Nhưng để làm nổi bật giá trị truyền thống của dân tộc, Nguyễn Trãi tiếp tục điểm qua những chiến công lừng lẫy khiến ngoại bang khiếp sợ:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.”
Mỗi chiến công được liệt kê rõ ràng từ địa điểm đến kết quả. Việc tác giả nêu ra hàng loạt sự kiện không chỉ thể hiện lòng tự hào mà còn mang ý nghĩa răn đe kẻ thù. Ở góc nhìn rộng hơn, Nguyễn Trãi đang tuyên bố trịnh trọng rằng Đại Việt là quốc gia có nền văn hiến, truyền thống văn hóa, nhân tài nhiều đời,... đủ yếu tố để hưởng độc lập. Bất kỳ kẻ nào xâm phạm sẽ phải đối mặt với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân.
Đoạn 1 của Bình Ngô đại cáo mang đậm tính chính luận nhưng vẫn xen lẫn cảm hứng trữ tình, khơi gợi cảm xúc nơi người đọc. Tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt không chỉ là giá trị lịch sử mà còn là bài học quý giá cho thế hệ mai sau.
Qua đoạn 1, Nguyễn Trãi đã thành công truyền tải tư tưởng và quan niệm một cách tài tình. Từng câu chữ khiến ta cảm nhận được niềm tự hào và xúc động trước những hy sinh của cha ông. Là thế hệ trẻ, chúng ta cần học tập, rèn luyện để góp phần gìn giữ và phát triển đất nước ngày càng vững mạnh.
Cảm nhận Bình ngô Đại Cáo đoạn 1 - Mẫu 4
Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà còn là một thiên tài văn chương hiếm có. Trong kho tàng văn học đồ sộ của ông, “Bình ngô Đại Cáo” được xem là “áng thiên cổ hùng văn” lưu danh muôn đời. Đoạn trích đầu tiên của tác phẩm thể hiện tư tưởng tiến bộ, mới mẻ về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn sâu sắc của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm, thể hiện lòng yêu thương dân và đề cao những hành động chính nghĩa. Tư tưởng này chịu ảnh hưởng từ đạo Phật, thấm nhuần giá trị nhân văn và truyền thống dân tộc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là “yên dân”, tạo dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn đạt được điều đó, phải “trừ bạo”, tiêu diệt những thế lực tàn ác đe dọa bờ cõi. Tư tưởng này xuất phát từ trái tim, chạm đến hồn người, khiến độc giả xúc động trước tấm lòng vì nước, vì dân của tác giả.
Từ những trăn trở về vận nước, Nguyễn Trãi hướng cái nhìn về chủ quyền dân tộc, về nền độc lập tự do của giang sơn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời và chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc. Khác với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, dựa vào “thiên thư” mang tính siêu nhiên, Nguyễn Trãi lấy lịch sử làm chứng cứ, tạo nên sự thuyết phục và gần gũi. Việc đặt ngang hàng Đại Việt với các triều đại phương Bắc thể hiện niềm tự hào, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và niềm tin vào các thế hệ anh hùng, hiền tài của đất nước.
Để tiếp tục khẳng định chiến công oanh liệt của dân tộc, Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt chiến thắng lừng lẫy, như một lời cảnh cáo đanh thép với kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những thất bại của quân thù không chỉ phơi bày tham vọng cuồng vọng mà còn khẳng định khí thế hào hùng của dân tộc. Đây là lời cảnh báo đanh thép với bất kỳ kẻ nào dám xâm phạm bờ cõi. Cách liệt kê dồn dập tạo nên mạch văn hùng tráng, thể hiện niềm tự hào và khí phách của tác giả.
“Bình ngô Đại Cáo” như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Đoạn mở đầu là khúc hùng ca vang dội, khẳng định chiến công lẫy lừng và buộc tội quân giặc man rợ.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại cáo - Mẫu 5
Sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước và văn học, Nguyễn Trãi sớm tiếp thu tư tưởng Nho giáo. Ông không chỉ là nhà Nho, bậc kỳ tài về chính trị và quân sự mà còn là nhà văn, nhà thơ lỗi lạc. Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng tinh thần yêu nước sâu sắc, trong đó “Bình Ngô đại cáo” là một kiệt tác. Đoạn mở đầu tác phẩm đã nêu bật luận đề chính nghĩa, làm nền tảng tư tưởng cho toàn bài cáo.
Trước hết, đoạn mở đầu khẳng định tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc và độc đáo.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý. Là một nhà Nho, Nguyễn Trãi thấu hiểu sâu sắc quan điểm này và lấy nó làm nền tảng xuyên suốt bài cáo. Với ông, nhân nghĩa là “yên dân”, mang lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Để đạt được điều đó, phải “trừ bạo”, tiêu diệt những kẻ tàn bạo xâm lược và cả những kẻ tham tàn trong nước. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với nhân dân, lấy dân làm gốc và vì dân mà diệt trừ cái ác.
Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi còn khẳng định chân lý độc lập của dân tộc từ ngàn đời.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã khái quát đầy đủ truyền thống lâu đời của dân tộc. Đại Việt có nền văn hiến từ ngàn năm, lãnh thổ riêng biệt và phong tục độc đáo. Bằng thủ pháp đối lập, tác giả đặt các triều đại Đại Việt ngang hàng với các triều đại phương Bắc, khẳng định nền độc lập và thể hiện niềm tự hào về lịch sử dân tộc.
Trong phần kết đoạn mở đầu, Nguyễn Trãi điểm lại những chiến thắng lẫy lừng của quân và dân ta.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Tác giả liệt kê những thất bại thảm hại của quân giặc như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, khẳng định sức mạnh và chiến thắng tất yếu của dân tộc đứng trên nền tảng chính nghĩa.
Tóm lại, đoạn mở đầu “Bình Ngô đại cáo” với giọng văn hào hùng, tràn đầy tự hào, đã làm nổi bật tư tưởng chính nghĩa và chân lý độc lập của dân tộc. Đây là nền tảng tư tưởng vững chắc xuyên suốt tác phẩm.
Cảm nhận Bình Ngô đại cáo đoạn 1 - Mẫu 6
Trong lịch sử dân tộc, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn có hai áng thiên cổ hùng văn được xem là tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt và “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Mỗi tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh khác nhau, mang góc nhìn riêng, nhưng đều thể hiện tư tưởng tiến bộ và đúng đắn. Nếu “Nam quốc sơn hà” khẳng định chủ quyền lãnh thổ, bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đề cao quyền con người, thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi nhấn mạnh việc chăm lo cho dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng này được thể hiện rõ nhất ở đoạn mở đầu tác phẩm.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Trãi đã nêu bật lý tưởng chủ đạo của tác phẩm:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Hai mục tiêu cao cả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là “yên dân” và “trừ bạo”. Kế thừa tư tưởng Nho giáo, Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa là làm cho dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật, là sức mạnh của quốc gia. “Trừ bạo” là trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng. Rộng hơn, đó là chống lại kẻ xâm lược, bảo vệ bờ cõi. Nguyễn Trãi khẳng định ta là bên chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. “Yên dân” và “trừ bạo” là hai mục tiêu thống nhất, phải được giải quyết đồng thời. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xuất phát từ tình yêu thương và mong muốn nhân dân được sống trong sung túc, hạnh phúc.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành chân lý ngàn đời: chăm lo cho dân thì đất nước mới bình yên. Ông không chỉ nói chung chung mà đi sâu vào cốt lõi của nhân nghĩa. Đồng thời, nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ chủ quyền và khẳng định tinh thần độc lập dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nếu “Nam quốc sơn hà” chỉ đề cập lãnh thổ và chủ quyền, Nguyễn Trãi bổ sung thêm các yếu tố như văn hiến, lịch sử, phong tục và nhân tài để khẳng định độc lập dân tộc. Đây là điểm sáng trong sáng tạo của ông. Nước Đại Việt có nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng biệt và phong tục độc đáo. Nguyễn Trãi đặt các triều đại Đại Việt ngang hàng với các triều đại phương Bắc, khẳng định chủ quyền và thể hiện niềm tự hào dân tộc. Ông cũng nhấn mạnh rằng dù thời thế thay đổi, hào kiệt luôn xuất hiện, thể hiện sức mạnh con người Đại Việt và là lời cảnh cáo với kẻ xâm lược.
Sau khi nêu năm yếu tố của quốc gia độc lập, Nguyễn Trãi đưa ra bằng chứng thuyết phục về thất bại của kẻ xâm lược:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi liệt kê những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống xâm lược. Bằng chứng rõ ràng, lời lẽ hào hùng, ông thể hiện ý thức dân tộc và lòng căm thù kẻ xâm lược. Đoạn thơ ngắn nhưng khẳng định mạnh mẽ rằng Đại Việt là quốc gia độc lập, tự chủ, không thua kém bất kỳ nước nào. Nhân dân Đại Việt sẽ luôn đoàn kết, đứng lên bảo vệ chính nghĩa, vì cuộc sống ấm no.
“Bình Ngô đại cáo” vừa hào hùng vừa trữ tình, mang giá trị sâu sắc. Tác phẩm khẳng định nền độc lập, chủ quyền của đất nước, giúp người đọc hiểu thêm về tinh thần dân tộc của cha ông, từ đó bồi đắp lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Cảm nhận đoạn 1 Bình ngô Đại Cáo - Mẫu 7
Sau thời gian cầm cự và tạm hoãn binh, từ năm 1424, Lê Lợi chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Đến cuối năm 1427, khi 15 vạn quân tiếp viện của giặc bị tiêu diệt, Vương Thông buộc phải giảng hòa. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào thời kỳ mới. Trong không khí tưng bừng của toàn dân đón mừng chiến thắng, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi thảo bài cáo này để tuyên bố với nhân dân cả nước: Cuộc kháng chiến chống Minh đã thành công rực rỡ, đất nước trở lại thanh bình.
Mở đầu bài cáo, tác giả khẳng định lập trường chính nghĩa của ta dựa trên nền tảng đạo lý:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng nhân sinh của Nho giáo, thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý.
Theo quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa là cốt lõi của mọi việc. Trong thư số 8 trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi từng viết: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, làm nên công lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu”.
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập trong bài cáo là “yên dân”. Để thực hiện điều đó, phải “trước lo trừ bạo”.
Chỉ với hai câu mở đầu, Nguyễn Trãi không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa mà còn nhấn mạnh mục đích và phương tiện để thực hiện nó. Nhân nghĩa là tiêu trừ tham tàn, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho nhân dân.
Nhân nghĩa mà tác giả nói đến là nhân nghĩa chân chính, không phải thứ giả nhân giả nghĩa như bọn giặc thường rêu rao.
Bằng cách vào đề khái quát, tác giả tạo không khí trang trọng phù hợp cho bài cáo, đồng thời xác định rõ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là hành động nhân nghĩa, phù hợp với đạo lý thời đại. Sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là chân lý khách quan.
Sau khi khẳng định lập trường chính nghĩa về mặt đạo lý, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định tính thực tế của đạo lý đó.
Trước hết, ông khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt như một chân lý hiển nhiên:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sông núi bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nền văn hóa Đại Việt, văn hóa Thăng Long, được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền, mà còn có thuần phong mỹ tục riêng, lịch sử riêng, chế độ riêng, và nhiều nhân tài hào kiệt.
Khác với ý trong bài Hịch, Tổ Quốc ở đây không được hình dung qua thái ấp, bổng lộc, gia quyến, vợ con, hay tông miếu phần mộ. Với Nguyễn Trãi, Tổ Quốc được định nghĩa bằng những khái niệm trừu tượng: một quốc gia có lãnh thổ riêng, quá trình độc lập, quốc hiệu, và nền văn hóa phong tục độc đáo. Đây không phải là một quận huyện của Trung Quốc, cũng không phải một bộ lạc man di mọi rợ.
Giọng văn ngắn gọn, khỏe khoắn, lập luận chặt chẽ như một lời tuyên bố đanh thép, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự tồn tại của một quốc gia nhỏ bé bên cạnh một đế chế lớn. Qua không gian và thời gian, dân tộc ta vẫn giữ vững truyền thống đấu tranh anh dũng.
Từ xa xưa, chính sách đồng hóa của phong kiến Trung Quốc, đặc biệt dưới thời giặc Minh, vô cùng tàn bạo. Chúng ép buộc nhân dân ta theo phong tục, trang phục, và lối sống của chúng, nhằm xóa bỏ ý thức dân tộc. Nhưng dân tộc ta vẫn trường tồn nhờ:
Truyền thống đấu tranh bất khuất và anh dũng:
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Dân tộc ta có lịch sử đấu tranh oanh liệt, sánh ngang với Trung Quốc. Những chiến công của các anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo được ghi danh sử sách. Những trận đánh lừng lẫy như Bạch Đằng, Hàm Tử mãi mãi được ca ngợi. Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị giết, Ô Mã bị bắt sống – đó không phải lời nói suông, mà là sự thật lịch sử.
Với lối diễn đạt sóng đôi tương phản, tác giả khẳng định truyền thống đấu tranh và tư thế độc lập tự cường của dân tộc. Ta nhắc đến truyền thống để tự tin, giặc nghe để kinh hoàng. Dân tộc ta không chỉ chiến thắng phong kiến Trung Quốc mà còn đánh đổ ách thực dân Pháp, Nhật, Mỹ. Dù thời đại nào, chiến thắng cuối cùng luôn thuộc về ta.
Phần đầu bài cáo là lời khẳng định đầy tự hào và khoa học về đất nước: Một quốc gia nhân nghĩa, có nền văn hiến lâu đời. Chính nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lý sống, ta mới có được nền văn hiến ấy và đánh bại bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ thiếu nhân nghĩa. Qua đó, ta cảm nhận được tấm lòng Nguyễn Trãi dành cho đất nước: niềm tự hào và tình yêu mãnh liệt, không bao giờ phai nhạt theo thời gian.
Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo - Mẫu 8
Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi nổi bật như một ngôi sao sáng, kết hợp hài hòa giữa trí tuệ uyên bác và tài năng quân sự. Ông không chỉ là một nhà chiến lược quân sự tài ba, góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và thiết lập nhà Hậu Lê, mà còn là một nhà văn hóa lớn với những tác phẩm văn chương để đời. Trong số đó, "Bình Ngô đại cáo" được xem là kiệt tác văn chương, một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý độc lập của Đại Việt.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu bật tư tưởng nhân nghĩa, một triết lý sâu sắc bắt nguồn từ Nho giáo. Theo ông, nhân nghĩa không chỉ là lý tưởng mà còn là hành động cụ thể nhằm bảo vệ cuộc sống yên bình của người dân, chống lại bạo lực và áp bức. Chỉ khi người dân được sống trong no ấm và hạnh phúc, đất nước mới có thể phát triển bền vững. Do đó, nhiệm vụ của những người lãnh đạo là phải dẹp yên bạo loạn, tiêu diệt kẻ thù xâm lược và những kẻ phản bội trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân.
Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định nền độc lập bất diệt của Đại Việt qua những yếu tố như nền văn hiến lâu đời, truyền thống anh hùng, các triều đại phong kiến sánh ngang với Trung Quốc, và phong tục tập quán độc đáo. Với giọng văn đanh thép và đầy tự hào, ông đã truyền tải niềm kiêu hãnh dân tộc, khẳng định rằng mọi hành động xâm lược của ngoại bang đều là phi nghĩa và thất bại thảm hại.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi tái hiện những thất bại nhục nhã của quân xâm lược. Qua ngôn từ sắc bén, ông miêu tả sự sụp đổ của kẻ thù và tôn vinh những chiến công oanh liệt của dân tộc, từ đó khơi dậy tinh thần tự hào và kiêu hãnh trong lòng người đọc.
Tóm lại, giá trị của "Bình Ngô đại cáo" là vĩnh cửu, trường tồn cùng dân tộc. Tác phẩm không chỉ là một bản tuyên ngôn độc lập mà còn là minh chứng cho tinh thần bất khuất và ý chí tự cường của người Việt, mãi mãi là niềm tự hào trong nền văn học nước nhà.
- Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Tác phẩm 'Cải ơi' - Kết nối tri thức Ngữ văn 11, trang 48, sách Kết nối tri thức tập 1
- Khám phá kỳ quan đê biển - Một công trình độc đáo tại quê hương em - Tiếng Việt 4 CTST
- Bài văn kể lại một việc tốt em hoặc người thân đã làm - Tiếng Việt 4 CTST
- Soạn bài: Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện - Ngữ văn 11 Kết nối tri thức (Trang 45, Tập 1)
- Viết báo cáo buổi thảo luận nhóm - Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo dành cho học sinh Tiếng Việt 4 CTST