Bài viết số 7 lớp 8 đề 2: Nghị luận xã hội về Văn học và tình thương - 6 dàn ý chi tiết và 15 bài văn mẫu đặc sắc
TOP 15 bài Nghị luận xã hội về Văn học và tình thương - Bài viết số 7 lớp 8 đề 2, mang đến cái nhìn sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của văn chương trong việc nuôi dưỡng tâm hồn con người.

Tình yêu thương là sự đồng cảm, rung động trước những hoàn cảnh và số phận con người. Thông qua những câu chuyện và nhân vật trong các tác phẩm văn học, các tác giả không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn gửi gắm những khát vọng, ước mơ của nhân loại. Mời các em khám phá bài viết để hiểu rõ hơn:
Bài viết số 7 đề 2 lớp 8: Nghị luận về Văn học và tình thương
- Dàn ý chi tiết nghị luận xã hội Văn học và tình thương (6 mẫu)
- Nghị luận xã hội Văn học và tình thương (15 mẫu)
Dàn ý chi tiết nghị luận xã hội Văn học và tình thương
1. Mở bài
Giới thiệu về vấn đề nghị luận: Văn học và tình thương
2. Thân bài
Giải thích khái niệm
- Văn học: Là một bộ môn nghệ thuật sử dụng ngôn từ, hình ảnh bằng nhiều phương thức khác nhau để thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm của người viết
- Tình thương: Là một trong những khía cạnh tình cảm của con người, biểu hiện của sự giao cảm giữa con người với con người và con người với thế giới xung quanh
Mối quan hệ giữa văn học và tình thương
- Văn học hướng đến cái đích tình thương: Một tác phẩm văn học chân chính là phải hướng đến con người, phục vụ đời sống tình cảm của con người
- Tình thương chính là nguồn cảm hứng cho văn học: Mọi khía cạnh của tình thương đều được văn học khai thác triệt để để có thể gắn kết con người, đưa con người gần lại với nhau và thấu hiểu nhau hơn.
3. Kết bài
Tổng kết vấn đề: Có thể khẳng định mối quan hệ giữa văn học và tình thương là một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ không thể tách rời, trên cơ sở tình thương văn học ngày càng phát triển đa dạng cả về chiều rộng và chiều sâu, tình thương của con người nhờ có văn học mà ngày càng sâu sắc và vươn tới những giá trị cao cả.
....
Nghị luận xã hội về Văn học và tình thương: Mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật ngôn từ và tình cảm con người
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 1
Trong truyện ngắn “Giăng sáng”, nhân vật Điền đã thốt lên: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Đúng vậy! Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng phải gắn bó với con người và thể hiện tình yêu thương. Tình yêu thương chính là sự đồng cảm, rung động trước những hoàn cảnh và số phận con người.
Người có tình yêu thương là người sống chan hòa, sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không mong nhận lại. Tình yêu thương là nền tảng của cuộc sống, giúp chúng ta sống hòa hợp và phát triển. Yêu thương không chỉ là sự quan tâm, chăm sóc mà còn là sự vị tha, bao dung, giúp con người trở nên nhân hậu và cao cả hơn. Khi ta cho đi yêu thương, ta cũng nhận lại được những giá trị tinh thần quý báu. Văn học, với sự đa dạng về chủ đề và nội dung, đã phản ánh và nuôi dưỡng tâm hồn con người qua nhiều thời kỳ. Nó không chỉ là tiếng nói của dân tộc mà còn là cầu nối giữa con người với con người, giúp họ thấu hiểu và yêu thương nhau hơn.
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Hoặc câu:
“Thương người như thể thương thân”
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và khát vọng của con người thông qua các nhân vật và tác phẩm như Chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ” (trích “Tắt đèn”) của Ngô Tất Tố, hay Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Những tác phẩm này không chỉ là tiếng nói của tác giả mà còn là tiếng lòng của những con người trong hoàn cảnh khó khăn.
Văn học và tình thương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, và chỉ khi kết hợp với nhau, chúng mới phát huy được giá trị sâu sắc nhất. Văn học đã nuôi dưỡng tâm hồn và tình yêu thương cho nhiều thế hệ. Chúng ta cần trân trọng những giá trị tinh túy của văn học và sống với tình yêu thương để cuộc đời thêm ý nghĩa.
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 2
Văn chương nghệ thuật là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, mang đến những ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư, tình cảm và nhận thức. Con người luôn sống bằng tình thương và đề cao lòng nhân ái, và chính tình thương ấy đã tạo nên sự liên kết bền chặt giữa văn học và con người. Văn học và tình thương có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời.
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hình ảnh để thể hiện tư tưởng, tình cảm của người viết. Các tác phẩm văn học mang giá trị trí tuệ, tư tưởng cao, đồng thời khơi gợi sự đồng cảm trong lòng người đọc. Tình thương là một khía cạnh quan trọng của tình cảm con người, thể hiện sự giao cảm giữa người với người và giữa con người với thế giới xung quanh. Tình thương có thể là sự đồng cảm, thương xót, ngợi ca, hoặc thậm chí là sự phê phán, lên án. Giữa văn học và tình thương tồn tại một mối quan hệ tương hỗ và gắn bó chặt chẽ.
Trước hết, tình thương là mục đích cao cả mà văn học hướng đến. Một tác phẩm văn học chân chính luôn hướng về con người và phục vụ đời sống tình cảm của họ. Văn học là đại diện của tính nhân văn, nhân đạo, không chỉ đồng cảm với nỗi đau và bất công mà còn đi sâu vào những góc khuất trong tâm hồn con người để sẻ chia. Như Ngô Tất Tố với hình ảnh chị Dậu trong “Tắt đèn”, Thạch Lam với chị em Liên trong “Hai đứa trẻ”, hay Nguyễn Du với Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”...
Văn học còn là tiếng nói ca ngợi tình thương và những phẩm chất cao đẹp của con người. Ví dụ như “Thương vợ” của Tú Xương ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ, hay “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng nhân đạo. Đồng thời, văn học cũng phê phán những mặt tối của xã hội, như trong “Lão Hạc”, “Tắt đèn”, hay lên án thói hư tật xấu trong “Hạnh phúc của một tang gia” và “Những ngày thơ ấu”. Tình thương là nguồn cảm hứng vô tận cho văn học, và văn học ra đời để truyền tải và gìn giữ những giá trị tình thương ấy.
Có thể khẳng định rằng mối quan hệ giữa văn học và tình thương là không thể tách rời. Trên nền tảng tình thương, văn học ngày càng phát triển đa dạng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhờ văn học, tình thương của con người trở nên sâu sắc hơn và vươn tới những giá trị cao cả.
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 3
M.Gooc-ki từng nói: "Văn học là nhân học". Đối tượng mà văn học hướng đến là con người với "chữ người được viết hoa". Văn học không chỉ đề cao mà còn bồi đắp những giá trị nhân văn, giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn. Trong đó, tình thương và lòng nhân ái là những nét đẹp không thể thiếu. Vì thế, văn học và tình thương luôn có sự đồng nhất.
Tình thương là một đức tính cao quý của con người, xuất phát từ trái tim và tấm lòng. Nó mang tính hướng thiện, nhân đạo, và gắn liền với những giá trị đạo đức được xã hội công nhận. Tình thương là sợi dây kết nối các mối quan hệ, giúp con người xích lại gần nhau hơn. Dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay luôn đề cao tư tưởng nhân ái, thể hiện qua truyền thống "lá lành đùm lá rách". Những giá trị ấy được kết tinh và phản ánh rõ nét trong các tác phẩm văn học.
Văn học luôn ca ngợi lòng nhân ái và tình yêu thương giữa con người. Từ xa xưa, trong văn học dân gian, ông cha ta đã nhắc nhở về tình yêu thương qua những câu ca dao quen thuộc:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
Hoặc câu:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải thương nhau cùng".
Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" giúp ta hiểu rõ hơn về từ "đồng bào". Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân sinh ra trăm trứng, nở thành trăm người con. Năm mươi người xuống biển, năm mươi người lên núi, tạo nên các dân tộc Việt Nam. Trước khi chia tay, Lạc Long Quân dặn dò: "Sau này có gì khó khăn thì giúp đỡ nhau". Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết, yêu thương giữa con người. Truyện Thạch Sanh với hình ảnh chàng trai hiền lành, vị tha, sẵn sàng tha thứ cho mẹ con Lý Thông dù họ đã hãm hại mình. Khi mười tám nước chư hầu kéo quân sang đánh, Thạch Sanh dùng tiếng đàn thần để thức tỉnh họ, rồi mời họ dùng cơm trước khi rút quân. Hay câu chuyện về cô út dũng cảm kết duyên với chàng Sọ Dừa, hay bông cúc trắng - biểu tượng của tình yêu thương mãnh liệt. Văn học dân gian chứa đựng vô vàn câu chuyện thấm đẫm tình người.
Văn học trung đại tiếp nối và làm đẹp thêm truyền thống ấy. "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân đạo cao cả:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
Đó là tư tưởng xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học, không chỉ tố cáo tội ác của xã hội phong kiến mà còn là bài ca về tình thương. Tình thương cha mẹ, thương chị em, thương người như thể thương thân của nàng Kiều đã in đậm dấu ấn nhân văn trong lòng độc giả. Nguyễn Du đã khóc thương cho thân phận người phụ nữ qua từng trang viết.
Văn học hiện đại tiếp tục khắc họa tình yêu thương một cách chân thực và sâu sắc. Hình ảnh cậu bé Hồng trong "Những ngày thơ ấu" cho thấy tình mẫu tử là sợi dây thiêng liêng không gì có thể chia cắt. Dù phải sống trong cảnh mồ côi, chịu sự hành hạ của bà cô, cậu vẫn giữ trọn tình yêu thương với mẹ. Truyện "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố khắc họa hình ảnh chị Dậu - người phụ nữ giàu đức hy sinh, thương chồng, yêu con, sẵn sàng đánh trả tên cai lệ để bảo vệ gia đình. Hay câu chuyện "Cuộc chia tay của những con búp bê" khiến ta xúc động trước tình cảm anh em sâu nặng, như lời cổ nhân dạy:
"Anh em như thể tay chân.
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần"
Bên cạnh việc ca ngợi tình thương, văn học cũng phê phán những kẻ ích kỷ, vô nhân tính. Trong truyện "Tấm Cám", mẹ con Cám bị lên án gay gắt vì sự độc ác của mình. Cái chết của họ là bài học về sự trừng phạt cho kẻ ác. Nhân vật bà cô trong "Những ngày thơ ấu" là hiện thân của sự tàn nhẫn, nham hiểm, sẵn sàng sỉ nhục mẹ bé Hồng trước mặt đứa cháu mồ côi. Hay trong "Tắt đèn", tên cai lệ và người nhà lí trưởng đại diện cho sự tàn bạo, bất nhân. Chúng thẳng tay đánh đập những người nghèo khổ, kể cả phụ nữ và trẻ em. Quan lại trong "Sống chết mặc bay" là hình ảnh phản diện của tầng lớp thống trị, thờ ơ trước nỗi khổ của dân lành. Văn học không chỉ khơi dậy tình thương mà còn nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm sẻ chia, đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh.
Văn học và tình thương luôn song hành, tạo nên giá trị đích thực cho mỗi tác phẩm, đồng thời giúp con người hướng tới chân - thiện - mỹ, hoàn thiện nhân phẩm và nhân cách. Dù ở bất kỳ thời đại nào, giá trị lớn lao nhất của văn chương vẫn là "gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có".
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 4
Văn học là phương tiện biểu đạt cảm xúc của con người, là ngành khoa học nghiên cứu văn chương. Nó soi chiếu đời sống lên trang viết, phản ánh mọi cung bậc tư tưởng và tình cảm. Tình thương, xuất phát từ trái tim chân thành, là cội nguồn của mọi cảm xúc và là đích đến cuối cùng của con người. Văn học chân chính phải khơi gợi được tình thương, bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm hồn con người.
Lời ru của mẹ, tiếng hò bên sông, hay câu đối đình làng... tất cả đều gợi lên tình yêu và nỗi nhớ. Văn học mang đến cho con người tình yêu thương với cuộc đời bình dị. Như Huy Cận từng viết: "Nắng cho đời nên nắng cũng cho thơ". Văn học đi tiếp hành trình của nó, mang tình yêu đời đến với lòng người. Tình thương đời là mối tình thủy chung, chân thật nhất.
"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông"
Không cần hoa mỹ, "Quê hương" của Tế Hanh hiện lên qua nỗi nhớ da diết. Chỉ là một làng chài ven biển, nhưng tình yêu thương của thi nhân đã biến ký ức thành men ngọt ngào. Hình ảnh cánh buồm trở thành biểu tượng sâu sắc:
"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"
Cái đẹp không chỉ nằm ở nghệ thuật nhân hóa hay liên tưởng, mà còn ở tình yêu quê hương của nhà thơ. Cánh buồm giương to biểu tượng cho khát vọng và niềm tự hào về cuộc sống bình dị. Khi xa cách, nỗi nhớ quê hương thấm vào máu thịt, như Chế Lan Viên từng viết: "Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn".
Văn học đi từ đời sống đến thẳng với con người, bằng tiếng nói riêng của tình cảm. Từ tình thương đời đến tình thương người, văn học tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc. Nó giúp con người bước qua ngưỡng cửa của hàng trăm cuộc đời khác, cùng vui buồn, ước mơ và lo toan. Ta vừa quên mình, vừa tìm thấy mình trong sự đồng cảm ấy. Ai không xúc động trước hình ảnh cô bé bán diêm giữa mùa đông lạnh giá, quẹt từng que diêm để giữ lại những ước mơ? Ánh sáng của que diêm hay ánh sáng của tình yêu và hy vọng trong trái tim cô bé? Anđecxen đã khép lại câu chuyện bằng hình ảnh hai bà cháu bay lên cao, để lại nụ cười trên môi em như biểu tượng của lòng vị tha. Nhưng đằng sau đó là câu hỏi xót xa: Tại sao một đứa trẻ không được mỉm cười bằng hiện thực trước khi chết?
Khơi gợi tình thương từ mặt trái của nó là cách tiếp cận chua xót nhất. "Ông đồ" của Vũ Đình Liên là tiếng thổn thức trước sự tàn lụi của một nền văn hóa và sự tồn tại lay lắt của một nghệ sĩ tài hoa:
"Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay"
Kết thúc bài thơ là câu hỏi khắc khoải:
"Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"
Hình ảnh ông đồ, "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn", đã ra đi cùng với sự thờ ơ của người đời. Bài thơ nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nỗi cảm thương sâu sắc.
Văn học thức tỉnh con người, giúp họ hòa nhập vào thế giới và ban phát tình thương. Qua "Chiếc lá cuối cùng", O-Hen-ri không chỉ gửi thông điệp về tình thương mà còn thể hiện niềm tin vào con người. Cụ Bơ-men, bằng tấm lòng nhân ái, đã quên mình để cứu Giôn-xi qua bức vẽ chiếc lá thường xuân. Cái chết không còn là điều đáng sợ, mà là nhân cách và nghị lực sống của những con người dám cải tạo hoàn cảnh.
Văn học chuyển tải tình thương và chính nó là tình thương! Tình thương trong văn học là tấm lòng của nhà văn với nhân vật, là cảm xúc rung lên từ mỗi dòng chữ. Như Nguyễn Du viết "Truyện Kiều" với máu và nước mắt thấm qua từng trang giấy. Tình thương ấy có nhiều sắc thái: tình yêu quê hương trong "Quê hương" của Tế Hanh, niềm tin vào con người trong "Chiếc lá cuối cùng" của O-Hen-ri, hay nỗi đau trước sự dửng dưng trong "Cô bé bán diêm" của An-đéc-xen và "Ông đồ" của Vũ Đình Liên. Nhưng cuối cùng, tất cả đều hướng về tình người.
Giữa không gian bao la của nhân loại, ta đứng vững chãi trên mặt đất, để rễ lòng mình cắm sâu vào cuộc sống, chờ đợi ngày con người chợt nhận ra chân lý:
"Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau"
(Tố Hữu)
Thông điệp ấy, từ ngàn đời nay, văn học chân chính luôn khắc gửi đến trái tim nhân loại.
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 5
Từ thuở sơ khai, khi con người biết gửi gắm tâm tư, tình cảm qua những lời ca truyền miệng hay những dòng chữ trên trang giấy, văn học đã trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu. Nó như một sợi dây vô hình kết nối trái tim con người, giúp họ xích lại gần nhau hơn. Văn học nuôi dưỡng tình yêu thương, sự sẻ chia và cảm thông, tạo nên một thế giới chan chứa tình người. Vì thế, ngay từ buổi đầu, văn học và tình thương đã có mối quan hệ khăng khít: tình thương là linh hồn của văn học, còn văn học là phương tiện truyền tải tình thương.
Văn học đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại. Là một bộ môn nghệ thuật lâu đời, nó giúp con người biểu đạt cảm xúc, tình cảm thông qua ngôn từ, ký hiệu và hình ảnh. Những tác phẩm văn học được dệt nên từ chất liệu cuộc sống, phản ánh chân thực và sống động muôn mặt đời thường. Văn học còn là chiếc chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn, khơi dậy lòng nhân ái và vun đắp nhân cách cao đẹp. Với nhiều thể loại phong phú như truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, văn học mang đến những góc nhìn đa chiều về cuộc sống.
Có thể nói, văn học là nhân học, bởi nó chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Trong văn học, tình thương được thể hiện qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là nỗi xót xa trước những số phận bất hạnh, là sự phẫn nộ trước những bất công, hay lời ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, quê hương. Những nhà văn, nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình để khắc họa tình thương một cách chân thực và đầy cảm xúc.
Văn học và tình thương là hai khái niệm không thể tách rời, luôn song hành và bổ trợ lẫn nhau. Văn học thể hiện tình thương qua nhiều mối quan hệ, từ tình cảm gia đình thiêng liêng đến tình bạn chân thành. Tình cảm gia đình, cái nôi nuôi dưỡng nhân cách, luôn được đề cao trong văn học. Người xưa đã gửi gắm điều này qua câu ca dao:
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông"
Công lao của cha và tình yêu thương vô bờ của mẹ được so sánh với những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên, in sâu vào tâm khảm những người con. Trong văn học hiện đại, tác phẩm "Trong lòng mẹ" là minh chứng rõ nét cho tình mẫu tử thiêng liêng. Bé Hồng, với tình yêu thương vô điều kiện, đã bảo vệ hình ảnh người mẹ trước những định kiến khắc nghiệt. Tình yêu ấy đã khiến một cậu bé nhỏ tuổi trở nên mạnh mẽ và kiên định đến vậy.
Tình cảm gia đình không chỉ dừng lại ở tình mẫu tử mà còn bao gồm tình anh em gắn bó. Tác phẩm "Bức tranh của em gái tôi" đã khắc họa sự bao dung và tha thứ của người em, giúp người anh nhận ra lỗi lầm của mình. Còn trong "Cuộc chia tay của những con búp bê", tình anh em được thể hiện qua nỗi đau chia ly, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Văn học cũng tôn vinh tình bạn chân thành, không vụ lợi. Bài thơ "Bạn đến chơi nhà" của Nguyễn Khuyến là một ví dụ điển hình. Bằng giọng văn hóm hỉnh, tác giả đã khẳng định giá trị của tình bạn vượt lên trên vật chất, chỉ cần tấm lòng chân thành là đủ.
Không chỉ dừng lại ở tình cảm gia đình và bạn bè, văn học còn ca ngợi tình yêu thương giữa những người cùng chung sống trong xã hội. Truyền thống "thương người như thể thương thân" đã trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt Nam.
Văn học không chỉ ngợi ca tình thương mà còn lên án những hành động tàn nhẫn, vô nhân đạo. Nhân vật viên quan trong "Sống chết mặc bay" là hình ảnh tiêu biểu cho sự thờ ơ, vô trách nhiệm trước nỗi đau của người khác. Câu chuyện "Cô bé bán diêm" cũng phản ánh sự lạnh lùng của xã hội đối với những mảnh đời bất hạnh.
Văn học cũng không khoan nhượng với những kẻ gian ác. Trong truyện Lí Thông, cái thiện đã chiến thắng cái ác, và hai mẹ con Lí Thông phải trả giá cho những tội lỗi của mình.
Văn học nước ngoài cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng tình cảm của nhân loại. Tác phẩm "Chiếc lá cuối cùng" của O'henry là minh chứng cho tình yêu thương vô điều kiện giữa những người không cùng máu mủ. Cụ Bơ-men đã hi sinh mạng sống của mình để cứu Giôn-xi khỏi tuyệt vọng.
Văn học nuôi dưỡng tình thương, khơi gợi cảm xúc và kết nối con người. Như ai đó đã nói, "Tình cảm con người giống như viên kim cương thô, nhờ văn chương mài giũa mà trở nên lấp lánh." Đọc văn học, ta học được cách lắng nghe, cảm thông và chia sẻ. Như M.Gorki từng nói, "Văn học, xét đến cùng, là nhân đạo hóa con người." Văn học không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là nền tảng xây dựng tình thương giữa con người.
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tình thương. Tình thương là nguồn cảm hứng bất tận của văn học, và văn học là phương tiện truyền tải tình thương đến mọi người. Sự kết hợp hài hòa giữa văn học và tình thương đã tạo nên những giá trị tốt đẹp, giúp con người hoàn thiện bản thân và sống chan hòa trong tình yêu thương.
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 6
Tương thân tương ái là một giá trị đạo đức cao quý, là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy được lưu giữ qua những câu ca dao, tục ngữ như “lá lành đùm lá rách”, thể hiện sự sẻ chia và yêu thương giữa con người. Trong văn học, tình thương luôn là chủ đề trọng tâm, bởi con người không thể tồn tại mà thiếu đi tình yêu thương.
Từ thuở sơ khai, qua những truyền thuyết như Lạc Long Quân và Âu Cơ, chúng ta đã thấy hình ảnh dân tộc Việt Nam được sinh ra từ một bọc trăm trứng. Điều này nhắc nhở rằng tất cả chúng ta đều là anh em một nhà, cần phải yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Những bài học về tình thương ấy được người xưa đúc kết thành ca dao, tục ngữ, rồi phát triển thành những tác phẩm văn chương sâu sắc.
Khi nói về tình cảm anh em, không thể không nhắc đến câu ca dao: “Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”. Câu này khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa anh em trong gia đình, như tay với chân, luôn cần sự yêu thương và nâng đỡ. Không chỉ vậy, tình thương còn vượt ra ngoài phạm vi gia đình, như câu “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Những câu này nhấn mạnh sự đoàn kết, yêu thương giữa những người cùng chung sống trên một đất nước.
Trong văn học hiện đại, tình thương tiếp tục được khắc họa qua nhiều tác phẩm. Tác phẩm “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng là một ví dụ điển hình về tình mẫu tử thiêng liêng. Bé Hồng, dù phải xa mẹ từ nhỏ, vẫn giữ trọn tình yêu thương và kính trọng dành cho người mẹ của mình. Tình cảm ấy vượt qua mọi khoảng cách và khó khăn, thể hiện sự bền chặt của tình mẫu tử.
Bên cạnh tình mẫu tử, văn học cũng ca ngợi tình nghĩa vợ chồng. Câu tục ngữ “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn” cho thấy sức mạnh của tình cảm vợ chồng. Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, chị Dậu đã dũng cảm bảo vệ chồng trước sự bạo tàn của bọn cường hào. Hành động ấy không chỉ thể hiện tình yêu thương mà còn là sự hy sinh cao cả của người phụ nữ.
Tình cảm anh em cũng được khắc họa sâu sắc trong tác phẩm “Cuộc chia tay của những con búp bê”. Câu chuyện kể về hai anh em Thành và Thủy, những đứa trẻ phải chia lìa vì hoàn cảnh gia đình. Sự đau đớn và xúc động của họ khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào, thấu hiểu giá trị của tình anh em.
Không chỉ dừng lại ở tình cảm gia đình, văn học còn tôn vinh tình làng nghĩa xóm. Những câu như “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” hay “bán anh em xa mua láng giềng gần” nhắc nhở chúng ta về sự gắn kết giữa những người sống gần nhau. Trong khó khăn, chính những người hàng xóm mới là chỗ dựa vững chắc nhất.
Qua những dẫn chứng trên, có thể thấy văn học và tình thương luôn song hành. Văn học là tấm gương phản chiếu tình thương, giúp con người xích lại gần nhau hơn. Nhờ văn học, tâm hồn con người được mở rộng, biết yêu thương, trân trọng và gắn kết với cuộc đời này.
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 7
Đại văn hào Nga M. Gorki từng khẳng định: "Văn học là nhân học". Khám phá và học hỏi giá trị đích thực của văn chương chính là học cách làm người. Điều đẹp đẽ nhất tạo nên giá trị cao quý của con người chính là tình yêu thương và lòng nhân ái. Văn học của mọi dân tộc đều tôn vinh lẽ sống yêu thương và lên án những kẻ bất nhân chà đạp lên quyền sống của con người. Văn học Việt Nam luôn ca ngợi những ai biết "thương người như thể thương thân" và phê phán nghiêm khắc những kẻ thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người khác.
Từ ngàn xưa, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đã được kết tinh trong các tác phẩm văn học. Văn học là nghệ thuật sử dụng ngôn từ để phản ánh cuộc sống. Thông qua tác phẩm của mình, các nhà văn, nhà thơ gửi gắm những tư tưởng, bài học và đạo lý tốt đẹp, trong đó nổi bật là tình yêu thương con người. Tình thương xuất phát từ trái tim, không vụ lợi, là sự sẻ chia và đồng cảm với những số phận đau khổ, hoàn cảnh éo le cả về vật chất lẫn tinh thần. Tình yêu thương trong văn học được thể hiện một cách phong phú và sinh động.
Không sai khi nói rằng văn học luôn ca ngợi lòng nhân ái và tình yêu thương giữa con người. Từ xa xưa, tình cảm gia đình - thứ tình cảm thiêng liêng - đã được khắc họa sâu sắc trong văn học. Hình ảnh bé Hồng trong "Những ngày thơ ấu" cho thấy tình mẫu tử là sợi dây bền chặt không gì có thể chia cắt. Dù cha mất sớm, mẹ phải tha phương cầu thực, sống trong cảnh mồ côi và chịu sự hành hạ của bà cô, bé Hồng vẫn giữ trọn tình yêu và lòng kính trọng dành cho mẹ. Em bảo vệ mẹ bằng trái tim nồng ấm, không để những lời độc địa làm vấy bẩn hình ảnh người mẹ trong tâm trí mình. Bên cạnh tình mẫu tử, tình vợ chồng cũng được tôn vinh. Chị Dậu trong "Tắt đèn" đã chăm sóc chồng tận tình trong cơn nguy biến, dành cho anh Dậu những cử chỉ yêu thương ấm áp. Sự quan tâm của chị như ngọn lửa hồi sinh sự sống trong anh. Chị còn dũng cảm đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng để bảo vệ chồng. Trong "Cuộc chia tay của những con búp bê", tình anh em của Thành và Thủy cũng khiến người đọc xúc động. Trước khi chia tay, Thủy đặt con Em Nhỏ cạnh con Vệ Sĩ và dặn Thành không được để chúng xa nhau. Đó chính là hiện thân của tình anh em thắm thiết, ngọt ngào.
Vượt lên trên tình cảm gia đình, văn học dân tộc còn phản ánh tình quân dân gắn bó. Đó là mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa Trần Quốc Tuấn và các tướng sĩ, như tình phụ tử, huynh đệ. Mối quan hệ ấy thể hiện sự yêu thương, bao dung và chia sẻ, không phân biệt chủ tướng hay tì tướng. Với Nguyễn Trãi, tình quân dân là niềm tin chiến thắng:
"Tướng sĩ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào"
Còn Tố Hữu lại khắc họa tình đồng đội mộc mạc, chân thành:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".
Từ tình yêu thương con người, tình đoàn kết giữa quân sĩ đã trở thành tình yêu quê hương đất nước. Văn học dân tộc đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng những tình cảm, đạo lý và lẽ sống tốt đẹp trong mỗi con người.
Bên cạnh việc ca ngợi những con người "thương người như thể thương thân", văn học cũng nghiêm khắc phê phán những kẻ ích kỷ, vô lương tâm. Đáng sợ hơn là những người cạn tình máu mủ, ruột rà. Điển hình là nhân vật bà cô trong "Những ngày thơ ấu" - một người độc ác, nham hiểm. Thay vì yêu thương, bù đắp cho đứa cháu mồ côi, bà ta lại nói xấu mẹ bé Hồng trước mặt em. Những lời độc địa ấy như nhát dao cứa vào trái tim non nớt của bé Hồng. Văn học cũng lên án sự tàn ác của giai cấp thống trị, như tên cai lệ và người nhà lí trưởng trong "Tắt đèn", những kẻ hung hăng đánh đập chị Dậu để bắt trói anh Dậu. Hay sự thờ ơ, vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu trong "Sống chết mặc bay", ngồi ung dung đánh tổ tôm trong khi dân chúng đang vật lộn với thiên tai.
Như vậy, văn học nuôi dưỡng những tình cảm cao đẹp, giúp con người biết yêu thương, sẻ chia với những mảnh đời khó khăn. Xã hội sẽ tốt đẹp hơn khi có những tấm lòng nhân ái. Đồng thời, văn học không ngần ngại chỉ ra lối sống ích kỷ, tàn nhẫn, vô cảm để chúng ta biết lên án và đấu tranh. Văn học gửi đến chúng ta thông điệp kỳ diệu: hãy trao đi yêu thương, và ta cũng sẽ nhận lại được yêu thương.
Văn học và tình thương luôn song hành, tạo nên giá trị đích thực cho tác phẩm và làm cho cuộc sống con người trở nên phong phú, ý nghĩa hơn. Văn học giúp con người vươn tới chân - thiện - mỹ, hoàn thiện nhân cách. Ở bất kỳ thời đại nào, giá trị lớn lao nhất của văn chương vẫn là "gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có".
Bài viết số 7 lớp 8 đề 2 - Mẫu 8
Những cuộc chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, những trang sử của các dân tộc được lật sang, các chiến tuyến có thể được dựng lên rồi lại bị san bằng. Thế nhưng, những tác phẩm văn học chân chính vẫn tồn tại vượt thời gian, vượt qua mọi nền văn hóa và ngôn ngữ nhờ vào giá trị nhân văn sâu sắc. Phải chăng văn học và tình thương là hai mặt của một vấn đề?
Văn học là những sáng tạo nghệ thuật sử dụng ngôn từ để khắc họa và phản ánh cuộc sống qua góc nhìn chủ quan của tác giả. Qua đó, tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm cũng như truyền tải những bài học và thông điệp ý nghĩa. Một trong những tình cảm cao quý nhất của con người, đồng thời là sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy văn học, chính là lòng nhân ái và tình yêu thương giữa con người với con người. Đó là thứ tình cảm thuần khiết, không vụ lợi, không toan tính. Tình yêu thương đã trở thành dòng chảy bất tận trong các tác phẩm văn học từ xưa đến nay.
“Văn học là nhân học” (M. Gorki). Văn học chính là tình yêu thương, và cội nguồn của nó bắt nguồn từ tình cảm gia đình thiêng liêng. Văn học đề cao chữ “hiếu” trong đạo làm con:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Tình yêu thương mà cha mẹ dành cho con cái tựa như núi cao vững chãi, như biển cả mênh mông mà con cái khó lòng đền đáp hết được. Những vần thơ giản dị mà sâu sắc ấy đã chạm đến trái tim của bao thế hệ, nhắc nhở về cội nguồn và trách nhiệm của mỗi người con. Dù cuộc đời có đổi thay, dù mẹ có ở nơi đâu, trong lòng con, mẹ vẫn luôn là người tuyệt vời nhất. Như cậu bé Hồng trong tác phẩm “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng, tình yêu thương dành cho mẹ vẫn nguyên vẹn dù phải đối mặt với những lời cay độc từ người thân. Khoảnh khắc thiêng liêng nhất trong đời chính là khi con được nằm trong vòng tay mẹ, được mẹ che chở và yêu thương. Còn những người cha, họ không nói lời yêu thương, nhưng tình cảm ấy được thể hiện qua hành động. Một người cha như lão Hạc đã chọn cái chết để không làm phiền đến con, hay người cha trong “Bố con cá gai” đã dành cả cuộc đời để chăm sóc đứa con bệnh tật. Và đó còn là tình vợ chồng son sắt, đồng lòng:
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
“Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”
Khi vợ chồng đồng lòng, cùng nhau vượt qua khó khăn, thì dù nghèo khó đến đâu, họ vẫn có thể tìm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản là những điều bình dị nhất.
Những tình cảm giản dị trong cuộc sống thường ngày, qua ngòi bút tài hoa của các nhà văn, bỗng trở nên cao quý và thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Văn học là tình thương, là sự sẻ chia và giúp đỡ giữa con người với con người. Đó là sự đồng cảm của ông giáo với lão Hạc, là tấm lòng của bà hàng xóm với gia đình chị Dậu, là cùng nhau vượt qua những ngày tháng khó khăn:
“Năm giặc đốt nhà cháy tàn cháy lụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
(“Bếp lửa”- Bằng Việt)
Văn học là tình thương, không chỉ dừng lại ở “thương người như thể thương thân” mà còn là lẽ sống “sống là cho đi chứ không chỉ nhận về riêng mình”.
Đó là khi ta cảm nhận được sự nhỏ bé của mình trước chiếc lá cuối cùng trên bức tường. Sự hy sinh của người họa sĩ già để giữ lại màu xanh của sự sống, để nuôi dưỡng một mầm xanh đang chờ đợi. Đó là khi ta tự hỏi tại sao một con mèo có thể yêu thương và chăm sóc một chú hải âu khác loài? Như Luis Sepúlveda đã viết trong “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”: “Thật dễ dàng để yêu thương ai đó giống mình, nhưng yêu thương ai đó khác biệt mới thực sự là điều khó khăn…” Đó cũng là tinh thần nhân văn mà Nguyễn Trãi thể hiện khi ông không dùng sức mạnh quân sự để đánh bại kẻ thù, mà cấp thuyền, cấp ngựa để quân Minh rút về nước.
Đó mới chính là tình yêu thương chân chính. Trên những trang viết, không chỉ có những con chữ vô hồn mà còn ẩn chứa những giọt nước mắt, những hạt ngọc lấp lánh giúp thanh lọc tâm hồn, khiến nó trở nên trong sáng và cao đẹp hơn.
Văn học không chỉ khắc họa niềm vui mà còn là những giọt nước mắt lấp lánh trong cuộc đời. Nó phơi bày cái xấu, cái ác nhưng luôn hướng con người đến chân-thiện-mỹ. Những câu hát than thân vang lên sao mà xót xa, thấm thía:
“Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
Đó là tiếng lòng oán hận trước thế lực phong kiến tàn bạo, là nỗi xót thương cho những kiếp người “tài hoa bạc mệnh” được cất lên qua câu thơ:
“Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”
(Tố Hữu)
Những trang văn dù nhỏ bé nhưng chứa đựng sức mạnh vô hình, bao la. Khi đọc chúng, ta dần gạt bỏ phần “con” để tiến gần hơn đến phần “người”, để sống đúng với giá trị làm người, sống thật với chính mình.
Lời khuyên dành cho học sinh: Để hiểu sâu sắc và viết tốt về văn học, hãy đọc nhiều tác phẩm, phân tích kỹ lưỡng từng chi tiết, và liên hệ với thực tế cuộc sống. Hãy tập viết thường xuyên, sử dụng ngôn từ phong phú và sáng tạo. Đừng quên đặt câu hỏi phản biện và tìm hiểu bối cảnh lịch sử, văn hóa của tác phẩm để có cái nhìn toàn diện hơn.
- Tự đánh giá: Bông hồng thép - Hướng dẫn chi tiết Tiếng Việt lớp 4, Cánh diều tập 2, Bài 12
- Soạn bài Phải chăng chỉ có ngọt ngào mới làm nên hạnh phúc? - Ngữ văn lớp 6 Chân trời sáng tạo tập 2 trang 49
- Văn mẫu lớp 10: Phân tích hai đoạn đầu Bình Ngô Đại Cáo - Dàn ý chi tiết cùng 10 bài văn mẫu đặc sắc
- Tả chiếc cặp sách của em: 3 Dàn ý chi tiết và 40 bài văn mẫu tả cặp sách lớp 4 kèm sơ đồ tư duy
- Soạn bài Đi san mặt đất - Ngữ văn lớp 10 trang 18 sách Chân trời sáng tạo tập 1: Hướng dẫn chi tiết và sáng tạo